Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng HCM (15)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.19 KB, 13 trang )

BÀI LÀM
Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc, triệt để về
các vấn đề của cách mạng Việt Nam. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn và khéo
leo giữa tinh hoa văn hóa của dân tộc, của nhân loại,sự tiếp thu lí luậncuar chư
nghĩa Mac- Lênin, ý chí ‘thép’ của người Cộng sản suốt đời đấu tranh không
mệt mỏi cho độc lập , tự do. Trong ‘viên ngọc quý’ ấy, Người đã vạch ra những
lí lẽ sắc bén, sâu sắc về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp,
làm kim chỉ nan cho chúng ta đi đên sthawngs lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới quan,
phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, của các đảng cộng sản và công nhân trong đấu tranh xóa
bỏ mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đối với
Người, đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng có nghĩa là đến với con đường
cách mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân
chính, triệt để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản" và "chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới
giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới"(1).
Đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có bước
nhảy vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp
dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa yêu
nước lên một trình độ mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Chủ
nghĩa Mác - Lê-nin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng
nhất, "muốn cách mạng thành công, phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ
nghĩa Lê-nin". Đối với Người, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là cơ sở thế giới quan,


phương pháp luận khoa học để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Người không bao giờ xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời kiên quyết chống
chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một nguồn gốc - nguồn gốc chủ yếu nhất,
của tư tưởng Hồ Chí Minh, là một bộ phận hữu cơ - bộ phận cơ sở, nền tảng của
tư tưởng Hồ Chí Minh. Không thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngoài hệ tư
1


tưởng Mác - Lê-nin, hay nói cách khác, không thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh
khỏi nền tảng của nó là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Cho nên, có thể nói, ở Việt
Nam, giương cao tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là giương cao chủ nghĩa Mác Lê-nin. Muốn bảo vệ và quán triệt chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách có hiệu quả,
phải bảo vệ, quán triệt và giương cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là lịch sử mà
cũng là lô-gíc của vấn đề. Nó giúp chỉ ra sai lầm của quan niệm đối lập tư tưởng
Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin .
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng mà còn là sự phát triển một
cách sáng tạo học thuyết Marx-Lenin. Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp là một trong những sáng tạo đó.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Marx –Engels đề cập đến vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp như sau:
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân tộc, vì
phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối
đại đa số. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản,
không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang hình t hức dân tộc.
Như vậy, Marx-Engels đã thấy được mối quan hệ gắn bó giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, hai ông
không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì:
- Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp
đối kháng: tư sản và vô sản.
- Về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư

sản.
- Vào thời của Marx, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh giành
độc lập chưa phát triển mạnh.
Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng hai ông nhấn mạnh đến giải phóng giai cấp
công nhân. Marx-Engels viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì
tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và: "Khi mà sự đối
kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa
các dân tộc cũng đồng thời mất theo". Như vậy theo Marx-Engels, để giải quyết
sự đối kháng dân tộc, trước hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng
giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. Lenin từng
nhận xét, đối với Marx so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là
vấn đề thứ yếu thôi.
Đến thời Lenin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng
giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lenin mới có
cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý
luận. Lenin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc sẽ không
giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân
2


tộc bị áp bức. Từ đó Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu
trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị
áp bức đoàn kết lại."
Sau khi Lenin mất, Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã nhấn
mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không mấy quan tâm đến
chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí còn coi
đó là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ nghĩa quốc tế vô
sản.
Tóm lại, Marx - Engels, Lenin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu, mục

tiêu của cách mạng vô sản châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề
giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân
tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản".
Tiếp thu chủ nghĩa Marx-Lenin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái
của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai
cấp và vấn đề dân tộc. Người cho rằng: Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước
hết.
Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt
Nam:
Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người cho rằng:
"Marx đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử,
nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn
thể nhân loại. Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ
nghĩa Marx bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Marx ở thời mình
không thể có được". Và người đề nghị: "Xem xét lại chủ nghĩa Marx về cơ sở
lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông". Ở phương Đông,
"Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra không giống như ở phương Tây, bởi vì xã hội
Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét về mặt cấu trúc kinh tế không giống
như xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai
cấp ở đó không quyết liệt như ở đây…".
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai
nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư
sản với vô sản. Do đó, không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết
vấn đề dân tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề dân
tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất,
quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân
tộc cũng không thể thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị
quyết Hội nghị Trung ương VIII, năm 1941 do Người chủ trì: "Trong lúc này

quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia
3


dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc
gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được."
Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với
vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng
Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí
Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những
năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học
thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước
của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất
bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là
do bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước
ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận
thức được xu thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời
đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản
xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong
trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không
thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường
cứu nước. ''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt
Nam là đã tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc
và các dân tộc bị áp bức trên thế giới''.

Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên
các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra
nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của
công nhân, nông dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa. Nghiên
cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái
Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'',
nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người
viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột công nông, ngoài thì
nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyên Ái
Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích
cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị
áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Chính vì
vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến với

4


V.I. Lênin; như một tất yếu lịch sử. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là
một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt động tìm đường
cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất Luận
cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn
con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng định:
''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ''; rằng: ''Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một
hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới,
khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt
Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức
là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ

tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển
tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng
XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách
mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn''.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh
và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp, bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã
phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong
phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa
giai cấp công nhân và nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp công nhân và
nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các dân tộc
đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống trị.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã
kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên
án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn
thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Trong
nhiều tham luận tại các Đại hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo
vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, phê bình một cách kiên quyết và chân thành những
sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản chính quốc. Các Đảng Cộng sản
này, tuy thừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 quy định
các Đảng Cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực
giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do
không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính
cương vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''.
Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh,

5



sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc
cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải
phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi
ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp
công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực
lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam
không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu
dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt
Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước
chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp
ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách
mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc
mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững
được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền
thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy,
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng
dân tộc chân chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự
phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách
mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác
ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là
động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu
quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và
cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng
sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa

Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại" (2)
Ở luận điểm này, có hai vấn đề cần làm rõ:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lấy chủ
nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự kế
thừa, phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi bật là chủ nghĩa
yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cả
phương Đông và phương Tây. Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ của mình đối
với việc học tập, tiếp thu những học thuyết của các lãnh tụ chính trị, xã hội, tôn
giáo trong lịch sử. Người nói: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng
đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
6


Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn
Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giê-su, C. Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung
đó sao? Họ đều muốn "mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã
hội...".
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy"(3).
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác - Lê-nin, bắt nguồn
chủ yếu từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, mà là sự tổng hòa, sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa truyền
thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lê-nin... Vậy sự vận dụng và phát triển sáng tạo đó như thế
nào?
Ngay từ năm 1924, sau khi đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trở thành một cán
bộ của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã vạch rõ

sự khác nhau giữa thực tiễn của các nước tư bản phát triển ở châu Âu mà C.
Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đã chỉ ra với thực tiễn Việt Nam - một nước
thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp, lạc hậu ở phương Đông. Do đó, cần bổ
sung, phát triển chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử phương Đông. Trong Báo cáo về
Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản, Người viết: "Cuộc đấu
tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây... Dù sao thì cũng không
thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó
những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học
thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch
sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại... Xem xét lại
chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương
Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô viết đảm nhiệm"(4).
Việc tiếp thu, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin của Hồ Chí Minh là
cả quá trình gắn với hoạt động thực tiễn, kết hợp lý luận với thực tiễn, xuất phát
từ những yêu cầu của thực tiễn. Người nhấn mạnh rằng, việc học tập, vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trước hết phải nắm vững "cái cốt lõi", "linh hồn sống"
của nó là phương pháp biện chứng; học tập "tinh thần, lập trường, quan điểm và
phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để áp dụng lập trường, quan điểm và
phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách
mạng của chúng ta". Người còn chỉ rõ: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin là phải
7


sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có
tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin"(5).
Từ những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận thể hiện tư duy độc lập, sáng tạo,
Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời của mình đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và tạo ra một hệ thống luận điểm
mới, sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Luận điểm sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là luận điểm về chủ nghĩa

thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Những tác phẩm của Người là "Bản án
chế độ thực dân Pháp" (xuất bản năm 1925) và "Đây công lý của thực dân Pháp
ở Đông Dương" đã vạch trần bản chất và những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát
dã man của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa; nêu rõ nỗi
đau khổ, của kiếp nô lệ, nguyện vọng khát khao được giải phóng và những cuộc
đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Đây là những tài liệu “có một không hai” về
chủ nghĩa thực dân; ở đó, sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của Hồ Chí Minh
đã vượt hẳn những gì mà những nhà lý luận mác-xít đề cập đến(6). Những luận
điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực dân, đặc biệt là hình ảnh về "con đỉa
hai vòi", "con chim hai cánh", đã không chỉ có tác dụng thức tỉnh các dân tộc
thuộc địa, mà còn cảnh tỉnh các đảng cộng sản ở chính quốc.
Hồ Chí Minh là người chiến sĩ tiên phong trong phê phán chủ nghĩa thực dân,
đồng thời cũng là người lãnh đạo dân tộc mình thi hành bản án chôn vùi chủ
nghĩa thực dân ở Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân
trên toàn thế giới.
Đề cương Về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lê-nin, viết năm 1920, đã
thức tỉnh Nguyễn Ái Quốc, đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vì đây là
chủ nghĩa duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Nhưng vượt trên những hạn
chế lúc bấy giờ trong nhận thức và đánh giá về phong trào cách mạng thuộc địa:
Cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là "hậu bị quân" của
cách mạng vô sản chính quốc; cách mạng chính quốc thắng lợi thì các thuộc địa
mới được giải phóng, Hồ Chí Minh vốn là người dân thuộc địa, hiểu sâu sắc
khát vọng và tiềm năng, sức mạnh to lớn của các dân tộc thuộc địa, nên đã nêu
lên luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt
chẽ với cách mạng chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách
mạng chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể "chủ động
đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta", giành thắng lợi trước cách mạng
chính quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính quốc.
Khi phân tích xã hội của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng
quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách

sáng tạo, chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn cơ bản của các nước thuộc địa, đó là
mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc, thực dân thống trị và bè lũ tay sai với toàn
8


thể nhân dân, dân tộc, không phân biệt giai cấp, tôn giáo... Theo Người, ở Việt
Nam cũng như ở các nước phương Đông, do trình độ sản xuất kém phát triển
nên sự phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các nước
phương Tây. Từ đó, Người có quan điểm hết sức sáng tạo là gắn chủ nghĩa dân
tộc chân chính với chủ nghĩa quốc tế, và nêu lên luận điểm: "Chủ nghĩa dân tộc
là động lực lớn của đất nước". Người còn cho rằng, chủ nghĩa dân tộc nhân danh
Quốc tế Cộng sản là "một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời".
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Người khẳng định, phải đi
từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp; dân tộc không thoát khỏi kiếp
ngựa trâu thì ngàn năm giai cấp cũng không được giải phóng. Đường lối của
cách mạng Việt Nam là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội; kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội. Động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết
toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản.
Cũng từ luận điểm cơ bản đó, Hồ Chí Minh đã có những phát hiện sáng tạo về
Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân chiếm đa số dân
cư; xác định quy luật hình thành của Đảng là kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước". Đảng vừa đại diện cho lợi
ích của giai cấp, vừa đại diện cho lợi ích của dân tộc.
Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của Cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế
quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, ngay từ đầu, Hồ Chí
Minh đã xác định: phải giành chính quyền bằng bạo lực, bằng khởi nghĩa vũ
trang và chiến tranh cách mạng nếu kẻ thù ngoan cố, không chịu hạ vũ khí.

Trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, học tập kinh nghiệm hoạt
động quân sự của thế giới và của các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn đấu tranh
vũ trang, chiến tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện đại của Việt
Nam. Trong đó, nổi bật là quan điểm về chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn
dân, toàn diện, trường kỳ; về xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân với ba thứ
quân chủ lực, địa phương, dân quân tự vệ; về nền quốc phòng toàn dân, toàn
diện, hiện đại...
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, sau khi cách mạng vô sản thắng
lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nên nền chuyên chính vô sản. Vận dụng sáng tạo
quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, một cuộc cách mạng từ giải
phóng dân tộc mà phát triển lên, Hồ Chí Minh cho rằng, "mục đích của Quốc tế
Cộng sản là làm thế giới vô sản cách mạng, thiết lập vô sản chuyên chính",
nhưng chúng ta phải căn cứ vào trình độ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước
9


mà đề ra đường lối, chiến lược cách mạng phù hợp, "chứ không phải nước nào
cũng phải làm cách mạng vô sản, lập chuyên chính như nhau". Vì vậy, ngay từ
Chánh cương vắn tắt (1930), Người đã nêu: Thiết lập Chính phủ công nông
binh; tổ chức ra quân đội công nông. Tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941),
Người đề ra chủ trương thành lập "một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh
thần Tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải
thuộc quyền riêng một giai cấp nào, mà của chung toàn thể dân tộc".
i. Về vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, trước hết, Người khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và
con người. Vì vậy, chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược
(miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục hoàn thành cách

mạng giải phóng dân tộc và cách mạng dân tộc dân chủ) là một sáng tạo lớn, có
tính cách mạng cao và phù hợp với thực tiễn đất nước.
Người chỉ rõ bản chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
"đánh thắng lạc hậu và bần cùng, để xây dựng hạnh phúc muôn đời cho nhân
dân ta, cho con cháu ta"(7). Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là "từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa... Vì vậy,
nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công
nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến"(8).
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin nằm
trong sự thống nhất hữu cơ; cả hai đều là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Chúng ta không thể lấy chủ nghĩa Mác Lê-nin thay cho tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như không thể hiểu và quán triệt,
vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh nếu không nắm vững chủ nghĩa Mác Lê-nin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu
tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là
chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển
sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo
kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng
tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận
10


của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách
mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:

Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công
triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách
mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nòng
cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ
Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công
nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo Người, chỉ
có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô
địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu
thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm
lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên
trên hết. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự
do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp
ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải
giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái
dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy
sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như ''hai
cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc
với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào
cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng
lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho
cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng
tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh
không được một số người, trong đó có một vài người của Quốc tế cộng sản cũng
không thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ

thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước
quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình
hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước
đi, biện pháp của nước khác.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay,
việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện
chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
11


hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các
nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan,
duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong
việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích
các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh
dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất.
Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương
điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác
- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở
Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng
chi phối, khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ
đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn
đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề
giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem
xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải
quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng tình,
thưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo

định hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc
theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược với con
đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là
không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã
chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều
phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công
nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh
và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự
nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay
từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi
mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về
CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức; bước đi và biện pháp
phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng XHCN là nguyên tắc cơ bản của
quá trình đổi mới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay,
Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà
thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong
công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta.

12


Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa
các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ
nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ
quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi
ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội”.

Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển
mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng
tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc
trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải
phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một trong
những sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và phát triển chủ
nghĩa Marx-Lenin. Nó có tác dụng lớn lao đối với việc tập hợp lực lượng vào sự
nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam cũng như ở các nước thuộc địa nói chung.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn
trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư
tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các
dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu
chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những
nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ
sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách,
vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

13



×