Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng HCM (16)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.38 KB, 19 trang )

bi: Bin chng gia vn giai cp v dõn tc ca H Chớ Minh
Lời mở đầu
Trong xã hội có rất nhiều dạng quan hệ giữa ngời với ngời. Trong đó
quan hệ giai cấp và quan hệ dân tộc là hai mối quan hệ cơ bản và có tác động
mạnh mẽ và trực tiếp tới bản thân con ngời nói riêng và của toàn xã hội nói
chung. Vì vậy nghiên cứu vấn đề giai cấp, dân tộc là rất cần thiết. MácLênin và chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu vấn đề giai cấp, dân tộc, quan
hệ giữa chúng với nhau và với toàn nhân loại rất chi tiết, khoa học, có hệ
thống và đợc ứng dụng vào việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn
cách mạng Việt Nam đã chỉ cho chúng ta thấy rằng, khi nào và ở đâu và vấn
đề giai cấp và và vấn đề dân tộc không đợc kết hợp một cách đúng đắn, quan
điểm giai cấp, vấn đề dân tộc đợc vận dụng, xử lý một cách cứng nhắc và
giáo điều hoặc bị coi nhẹ thì cách mạng sẽ không chỉ gặp khó khăn mà thậm
chí còn bị tổn thất nặng nề. Bài học đó thực sự là bổ ích, cần đợc ghi nhận và
vận dụng vào việc xem xét các vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp và mối
quan hệ của chúng với vấn đề dân tộc trong tình hình hiện nay và trong giai
đoạn sắp tới của thời kỳ quá độ khi mà nền kinh tế nớc nhà phát triển mạnh
mẽ theo hớng thị trờng và hội nhập quốc tế, sự phát triển chắc chắn sẽ đem
lại cho chúng ta nhiều cơ hội nhng cũng kéo theo đầy rẫy những thách thức,
nguy cơ và không ít khó khăn.

Bi lm

1


Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, hết lòng vì dân,vì nước
của chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tinh thần hết sức sâu sắc, cao
cả có ý nghĩa chỉ đạo lâu dầi trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tổng
hợp giá trị tinh thần đó là tư tưởng Hồ Chí Minh
Báo cáo chính trị tại đại biểu đại hội toàn quốc lần thứ 19 của Đàng đã nói
tư tuởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về


những vấn đề cơ bàn của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sang tạo chủ nghĩa Mac- Lenin và điều kiện cụ thể của nước
ta,kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa của nhân loại. Đó là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân khối đại
đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân,xây dựng nhà nước thực sự
của dân, do dân, vì dân ; về quốc phòng toàn dân ; về phát triển kinh tế văn
hóa không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ; về
đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư ; về chăm lo đời
sống cách mạng cho thế hê sau ; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
người cán bộ cách mạng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành của nhân dân…. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh
của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân
tộc ta. Trong hệ thống tư tưởng ấy thì dân tộc và giai cấp là vấn đề cốt lõi
nhất, là hạt nhân tư tưởng của Nguời, nó có ý nghĩa bao trùm và xuyên suất.
Giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là giải phóng xã hội, giải phóng
con người
I.

Dân tộc và giải phóng dân tộc

Xuất phát từ nhu cầu khách quan của dân tộc Việt Nam, đặc điểm của thời
đại, chủ tịch Hồ Chí Minh không bàn về vấn đề dân tộc nói chung, Nguời
2


dành sự quan tâm đến các thuộc địa, vạch ra thực chất vấn đề ở thuộc địa đó
là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xoá bỏ ách thống trị, áp bức
bóc lột của nước ngoài, giải phóng dân tộc dành độc lập dân tộc, thực hiện

quyền dân tộc tự quyết và thành lập nhà nước dân tộc độc lập , Người lên án
tố cáo chủ nghĩa thực dân hà khắc tàn bạo , vạch trần cái gọi là “ khai hoá
văn minh “ của chúng. Người cũng chỉ rõ sự đối kháng của các dân tộc bị áp
bức với chủ nghĩa thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu
thuẫn không thể điều hoà được. Cùng với sự phát triển khách quan của lịch
sử, thế kỉ 18 C.Mác đã bàn nhiều về vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bàn, VI Lenin bàn nhiều về vấn đề chống chủ nghĩa để quốc thì Hồ Chí
Minh lại tập chung bàn về vấn đề chống chủ nghĩa thực dân. C.Mac và
Lenin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa thì Hồ
Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Đây chính
là điểm vận dụng sang tạo chủ nghĩa Mac-Lênin của Hồ Chủ Tịch trong điều
kiện lịch sử nước nhà. Chính sự vận dụng sang tạo này đã giúp Hồ Chí Minh
sang lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam, đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa MacLênin với phong trào công nhân và chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ta
Không chỉ vậy Hồ Chí Minh còn chỉ ra con đường phát triển của dân tộc,
đánh đỏ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc thiết lập
chính quyền mới của nhân dân, xây dựng đất nước theo con đường CNXH.
Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Hồ Chí Minh viết “
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản . Từ một nước thuộc địa đi lên CNXH phải trải qua nhiều con đường
chiến lược khác nhau. Con đường đó kết hợp trong nó của nội dung của dân
tộc, dân chủ và CNXH. Đó cũng là con đường đi tới xã hội cộng sản”. Nó
phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Nó là nét độc đáo khác biệt
với con đường đi lên phát triển của các dân tộc đã phát triển lên CNXH ở
3


phương Tây. Người nói cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải
đi theo con đường cách mạng vô sản, chủ nghĩa đê quốc là con đỉa 2 vòi một
vòi bám vầo chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa, muốn đánh bại chủ
nghĩa đế quốc thì đồng thời phải cắt cả hai vòi của nó đi nghĩa là phải kết

hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa ; phải xem xét cách mạng vô sản ở thuộc địa như một trong những
cánh tay của cách mạng vô sản ; mặt khác cách mạng giải phóng dân tộc
muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, chỉ có CNXH,
CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên toàn thế giưói thoát khỏi ách nô lệ. Con đường ấy phải do Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo, đó là đảng cách mệnh, Đảng có vững thì cách mệnh
mới thành công, Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt đó là chủ
nghĩa Lênin
Đảng lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng dân tộc “ là
việc chung của cả dân tộc chư không phải là việc riên của một hai người”.
Vì vậy phải đoàn kết toàn dân “ sĩ ,nông, công , thương” đều nhất trí chống
lại cường quyền ( Theo HCM toàn tập nhà xuất bản chính trị quốc gia)
nhưng trong sự tập hợp đó công , nông là chủ cách mệnh , là gốc của cách
mệnh. Cách mạng dân tộc cần được tiến hành chủ động sang tạo và có khả
năng giành được thắng lợi trước cách mạng vo sản ở chính quốc. Người cho
rằng cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng của chính quốc
mà có thể dành thắng lợi trước, đây chính là điểm nhấn so với quan điểm
xem thắng lợi cách mạng của thuộc địa phụ thuộc vào sự thắng lợi của cách
mạng vô sản ở chinh quốc, điểu này đã thắng lợi của Việt Nam chứng minh
là hoàn toàn đúng đắn. Người còn chỉ ra cách mạng giải phóng dân tộc phải
thực hiện bằng con đường bạo lực kết hợp lực lượng chính trị của quần
chúng với lực lượng cách mạng của nhân dân, tại hội nghị trung ương Đảng
4


lần thứ 8( 5/1941)do Người chủ trì đã đưa ra nhận định : “ cuộc cách mạng ở
Đông Dương phải được kết thúc bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang” . Cuộc
cách mạng ấy là để dành được độc lập dân tộc, độc lập dân tộc chính là nội
dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa trong tư tưởng của Người. Với

cách tiếp cận từ quyền con người Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và tiếp cận
những nhân tố về quyền con người được nêu lên trong tuyên ngôn độc lập
năm 1776 của nước Mỹ, tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1971
của cách mạng Pháp, như quyền bình đẳng, quyền được sống , được tự do và
quyền được mưu cầu hạnh phúc, Người khẳng định :” đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”. Cũng từ quyền con người Hồ Chí Minh đã khái
quát và nêu cao thành quyền dân tộc “ Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra
đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền tự do, và quyền sung
sướng”
Độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí
Minh nói “ tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đấy là tất cả
những điều tôi muốn , những điều tôi hiểu ( Trích dẫn trong Những mẩu
chuyện về cuộc đờì hoạt động của Hồ chủ tịch_ Nhà xuất bản trẻ)
Năm 1919 vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các đồng minh
thắng trận trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất thừa nhận, thay mặt những
người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi tới hội nghị Vecxây bản
yêu sách gần 800 điểu đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Viêt Nam
Đầu năm 1930 Nguyễn Ái Quốc soạn thảo những cuơng lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng một cương lĩnh giải phóng dân tộc sang tạo và đúng đắn mà tư
tưởng cốt lõi của cương lĩnh là đôc lập tự do cho dân tộc
Tháng 5/1941 HCM chủ trì hội nghị trung ương lần thứ 8 BCHTW Đảng,
viết thư kính báo đồng bào chỉ rõ : “ trong lúc này quyền lợi giải phóng dân
tộc cao hơn hết thảy” (HCM toàn tập). Người chỉ đạo thành lập Việt Nam
5


độc lập đồng minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo 10 chính sách của việt
minh, trong đó mục đầu tiên là : “ cờ treo độc lập, nền xây bình quyền “.
Tháng 8/1945 HCM đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập của toàn dân ta
trong câu nói bất hủ “dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Truớng Sơn

cũng phải kiên quyết dành được độc lập” ( Trích dẫn trong Võ Nguyên Giáp
‘Những chặng đường lịch sử” _nxb chính trị quốc gia”)
Cách mạng tháng 8 thành công người thay mặt chính phủ lâm thời đọc tuyên
ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế giới : “ nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã trở thành nước tự do độc lập.
Toàn thể nhân dân Viêt Nam quyết tâm đem hết cả tinh thần, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy ( HCM toàn tập )
Trong các thư và điện văn gửi tới Liên Hợp Quốc và chính phủ các nước vào
thời gian sau cách mạng tháng 8 HCM trịnh trọng tuyên bố “ nhân dân
chúng tôi thực sự muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất : toàn
vẹn lãnh thổ cho tổ quốc và độc lập cho đất nước( hcm toàn tập )
Cuộc kháng chíên toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ. Để biểu hiện
quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, HCM ra lời kêu gọi vang
dộn núi song : “ Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ” ( HCM toàn tập, tập 4/480)
Khi đó đế quốc điên cuồng mở rộng chiến tranh, ồ ạt đổ quân viễn chinh vào
miền Nam đồng thời phá hoại miền Bắc với quy mô và trình độ ngày càng
cao , HCM nêu lên chân lý lớn nhất mọi thời đại “ Không có gì quý hơn độc
lập tự do”( HCM toàn tập, tập 12/108)
Độc lập tự do là mục tiêu chiến đấu là sức mạnh làm nên chiến thắng của
dân tộc ta trong thế kỉ 20, một tư tưởng lớn trong thời đại giải phóng dân tộc
“ không có gì quý hơn độc lập tự do” là khẩu hiệu hành động của dân tộc
6


Việt Nam đồng thời nó là nguồn cổ vũ cho các dân tộc bị áp bức trên toàn
thế giới đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Vì thế HCM không chỉ là
người anh hung giải phóng dân tộc của Việt Nam mà còn là “ người khởi
xướng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới”

Đấu tranh cho độc lập tự do thì dân tộc còn được nâng lên chủ nghĩa dân tộc,
Chủ nghĩa dân tộc được coi là động lực lớn của đất nước. Khi chuyển sang
giai đoạn chủ nghĩa đế quốc tư bản phương Tây ra sức tiến hành xâm lược
các nước thuộc địa , thiết lập ách thống trị của chủ nghĩa thực dân với chính
sách tàn bạo. Từ những năm 20 của thế kỉ 20 Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy
sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa càng nặng
nề thì phản ứng của dân tộc bị áp bức càng quyết liệt, không chỉ quần chúng
lao động mà cả các giai cấp và tầng lớp trong xã hội đều phải chịu nỗi nhục
của người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập tự do
Cùng với sự kết án của chủ nghĩa thực dân và cổ vũ các dânt ộc thuộc địa
vùng dậy đấu tranh , HCM đã khẳng định ; đối với các dân tộc thuộc địa ở
phương Tây chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước( HCM toàn tập
1/466). Vì thế “người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu
không dựa trên những động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội.
Người kiến nghị hành động của cương lĩnh đảng cộng sản là “ phát động chủ
nghĩa dân tộc bản sứ nhân danh quốc tế cộng sản… khi chủ nghĩa dân tộc
của họ thắng lợi … nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ trở thành chủ nghĩa
quốc
Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với tư cách là chủ
nghĩa yêu nước chân chính của các dân tộc thuộc địa . Đó là sức mạnh chiến
đấu và thắng lợi trước bất cư thế lực ngoại xâm nào
Theo HCM “ chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân đã mấy
năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh tan bọn thực
7


dân cuớp nước và bọn việt gian phản quốc,kiên quyết xây dựng một nước
Việt Nam thống nhất, dân chủ tự do,phú cường,môt nước Việt Nam dân chủ
mới. (HCM toàn tập, tập 6/trang 172_173) trong tư tưởng HCM chủ nghĩa
dân tộc chân chính là một bộ phận của tinh thần quốc tế khác hăn với tinh vị

quốc của bọn đế quốc phản động
Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa từ truyên
thống dân tộc Việt Nam, HCM đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân
tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, và Người cho đó là
“ một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời “
Có thể nói HCM rất đề cao vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh chủ nghĩa yêu
nước nhưng người luôn luôn đứng trên lập trường giai cấp để nhận thức và
giải quyết vấn đề dân tộc. Người nói “ chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì
mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp cuả chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới “( HCM toàn tập
tập 1/trang 416)
II.

Vấn đề giai cấp và giải phóng giai cấp

Mọi cuộc đấu tranh trong lịch sử nhân loại đều bắt đầu từ mâu thuẫn giai
cấp, mâu thuẫn dân tộc. Giải quyết được mâu thuẫn dân tộc chưa chắc đã
giải quyết được vấn đề giai cấp, nhưng giải quyết được mâu thuẫn giai cấp
chắc chắn sẽ giải quyết được vấn đề dân tộc. Hồ Chí Minh đề cao giải phóng
dân tộc nhưng không bao giờ xa dời với mục tiêu giải phóng giai cấp, Người
cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khit của cách
mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới. Khác với C.Mac và Lênin, HCM
không xem xét cách mạng giải phóng dân tộc phụ thuộc vào cách mạng vô
sản chính quốc mà đặt hai cuộc cách mạng này ngang hang nhau, có mối
quan hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau. Người còn cho rằng cách mạng
giải phóng dân tộc có khả năng và điều kiện nổ ra và thành công sớm hơn
8


cách mạng vô sản ở chính quốc và giúp cho cách mạng vô sản ỏ chính quốc

giành thắng lợi. Đây là điều mấu chốt trong việc phát triển lý luận của chủ
nghĩa Mac- Lênin về vấn đề giải phóng giai cấp và cách mạng vô sản trong
điều kiện mới của chủ nghĩa đế quốc
Cũng xuất phát từ tình hình thực tế ở các nước thuộc địa phuơng
Đông lúc bấy giờ, trong đó có Việt Nam để xác định đúng đắn nhiệm vụ lúc
này không phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản mả trước hết là phải
đấu tranh giành lại độc lập , có độc lập dân tộc rồi mới có điạ bàn làm cuộc
cách mạng XHCN. Người cho rằng trong điều kiện một nước thuộc địa thì
giải phóng giai cấp gắn liền với giải phóng thuộc địa. Giải phóng dân tộc là
động lực lớn mà người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, là một bước quan
trọng để tiến tới giải phóng giai cấp. Cách mạng giải phóng dân tộc là điều
kiện để tiến đến cách mạng XHCN góp phần thiết thực vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ
khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp
và giải phóng con người
Vì vậy muốn giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người trong thời đại mới thì phải có Đảng cộng sản lãnh đạo. Trong tác
phẩm đường cách mệnh người khẳng định ; “ trước hết phải có Đảng cách
mệnh để trong thì vận động tổ chức , ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức
và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách mạng mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy” (HCM toàn tập, tâp
2/trang 267) . Đảng đó là môt chính Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc
Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mac_Lênin làm nòng cốt, có kỉ luật chặt chẽ , kỉ
luật nghiêm chỉnh và mật thiết liên lạc với quần chúng

9


Năm 1930, Người sang lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, theo người Đảng
cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản, là Đẩng của giai cấp công

nhân, của nhân dân lao động và quần chúng Việt Nam
“Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nghĩa là người thợ
thuyền, dân cày và những người lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái
nhất, trong sạch nhất tận tâm tận lực phục vụ tổ quốc và nhân dân”(HCM
toàn tập, tập 6/trang 184 ). Khi giai Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định là
Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc,HCM đã nêu lên một luận điểm
quan trọng,bổ sung cho lý luận cho C.Mac và Lênin về Đảng cộng sản Việt
Nam, định hướng cho việc xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam là một Đảng
có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cho cả
mọi dân tộc trong mọi thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Mọi người Việt
Nam dù là Đảng viên hay không đều thật sự cảm nhận Đảng cộng sản Việt
Nam là Đảng của Bác Hồ, là Đảng của mình và đều gọi đây là Đảng ta
Hồ Chí Minh đã xây dựng được một đảng cách mạng tiên phong, phù hợp
với thực tiễn Việt Nam gắn bó với nhân dân, gắn bó với dân tộc, một long
một dạ phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, được nhân nhân thừa nhận là
đội tiên phong của mình
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do HCM sang lập đã quy tụ được lực
lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp của giai cấp công nhân và cả dân tộc
Việt Nam. Đây là một đặc điểm đồng thời là một ưu điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam. Nhờ đó ngay từ khi ra đời Đảng đã nắm lấy lá cờ lãnh đạo
duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hang đầu dẫn đến
mọi thắng lợi của Đảng
Từ thực tế khách quan, HCM đã đánh giá rất cao vai trò của quần chúng
nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và sức lực
sang tạo vô tận của quần chúng là then chốt đảm bào thắng lợi. Người khẳng
10


định ; “dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại
nổi “ ,” phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch nào cũng không thể

tiêu diệt được” , “ chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần
chúng của dân tộc”
Duới chế độ cai trị của chủ nghĩa tư bản, từ một xã hội phong kiến
thuần tuý Việt Nam trở thành một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Mặc
dù thực dân còn duy trì quan hệ kinh tế và giai cấp địa chủ phong kiến,song
một khi trở thành một nước thuộc địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn
hoá , xã hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị đặt vào quỹ đạo hoạt động của xã
hội đó. Ngoài giai cấp công nhân,nông dân ,và một bộ phận địa chủ vùa và
nhỏ và tư bản dân tộc mặc dù vẫn còn mặt hạn chế trong quan hệ với quần
chúng nhân dân nhưng trong quan hệ với bọn thực dân Pháp họ cũng là
người Việt Nam chịu nỗi nhục mất nước. Đó không phải là giai cấp thống trị
mà trái lại có thể tham gia vào phong trào giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh đã nêu rõ ; “ dân tộc cách mệnh thì chưa phân chia giai cấp
nghĩa là sĩ, nông, công thương, đều nhất quyết chống lại cường quyền
( HCM toàn tập, tập 2/trang 266 )
Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng
cách mạng bao gồm cả dân tộc : Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp
công nhân và nông dân,lãnh đạo giai cấp công nhân làm cách mạng ruộng
đất ;lôi kéo giai cấp tiểu tư đi vào phi vô sản; đối với phú nông, trung tiểu
địa chủ An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng. Bộ phận
nào đã ra mặt phản cách mạng thì đánh đổ
Trong lực lượng toàn dân tộc, HCM đã nhấn mạnh vai trò động lực cách
mạng của giai cấp công nhân và nông dân. Người phân tích :giai cấp công
nhân và nông dân có số lượng lớn nhất nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị
áp bức bóc lột nặng nề nhất nên “ long cách mệnh càng bền,chí cách mệnh
11


càng quyết… công, nông tay không nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ,
nếu được thì được cả thế giới nên họ gan góc” ( HCM toàn tập, tập 2, trang

266 ). Từ đó người khẳng định : công, nông là gốc cách mệnh. Khẳng định
vai trò động lực của cách mạng của công nhân và nông dân là một vấn đề hết
sức mới mẻ so với nhận thức của những nhà yêu nước trước đó
Trong khi hết sức nhấn mạnh vai trò của công nhân và nông dân Hồ Chí
Minh cũng không coi nhẹ sự đóng góp vào sự nghiệp giải phóng đất nước
của các tầng lớp khác. Người coi giai cấp tư sản, tư sản dân tộc và một bộ
phận giai cấp địa chủ là bạn đồng hành của cách mạng. Người chỉ rõ “ …
nhà buôn nhỏ, địa chủ nhỏ cũng bị áp bức bóc lột song không cực khổ bằng
giai cấp công, nông ( HCM toàn tập, tập 2, trang 266 )
Như vậy theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì cách mệnh là sự nghiệp chung của
quần chúng, trong đó công, nông là “ gốc cách mệnh “. Cách mạng muốn
thành công thì phải có Đảng cách mệnh, Đảng cách mệnh là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo quần chúng thì
mới đánh đổ được CNTB, chủ nghĩa thực dân, ngoài giai cấp vô sản thì
không còn lực lượng nào khác có khả năng lãnh đạo phong trào cách mạng
đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và bọn áp bức bóc lột
Xem xét mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ
Chí Minh ta sẽ thấy rõ điều đó
III.

Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề giai cấp và dân tộc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh

Dân tộc và giai cấp là hai mặt của vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
đó là mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau thúc đẩy tương hỗ
lẫn nhau. “ Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân
tộc ; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghiã cộng
sản và của cách mạng thế giới “ ( HCM toàn tập, tập 1, trang 416 )
12



Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc và đề cao sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và
giải quyết vấn đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn
đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện : Khẳng định vai trò lịch sử của giai
cấp công nhân và quyền lãnh đạo chung nhất của Đảng cộng sản và trong
quá trình cách mạng Việt Nam; chủ chương đại đoàn kết dân tộc rộng dãi
trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng; sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại
bạo lực phản cách mạng của kẻ thù; thiết lập chính quyền nhà nước của dân,
do dân và vì dân; gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với CNXH
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ giai cấp công nhân là “ gốc cách mệnh “, xã hội
thuộc địa là giai cấp bị áp bức bóc lột thậm tệ nhất, họ là giai cấp vô sản có
số lượng đông nhất, tiên tiến nhất, có tổ chức kỉ luật nghiêm ngặt nhất….vì
vậy giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử là đào mồ chon CNTB, xây dựng một
xã hội mới XHCN do giai cấp công nhân làm chủ. Nhưng muốn đào được
mồ chôn CNTB cần phải có những người tiên tiến nhất trong đội ngũ giai
cấp vô sản đứng lên tổ chức lãnh đạo cách mạng. Đó là tổ chức Đảng cộng
sản. Đảng cộng sản là người lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng. Đó là
đảng của giai công nhân và nhân dân lao động nghĩa là những người thợ
thuyền, dân cày, và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch
nhất, tận tâm tận lực phục vụ tổ quốc và nhân dân, đã quy tụ được tư tưởng
và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam tạo nên
một sức mạnh đoàn kết thống nhất một long cho sức mạnh bạo lực cách
mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù, giải phóng dân tộc;
thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân, xây dựng đất nước
tiến lên theo con đường CNXH. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nó vừa
phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời
13



đại cách mạng vô sản vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu
giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người
Trước nhu cầu khách quan của thời đại và thực tiễn lịch sử, Hồ Chí Minh chỉ
ra rằng : giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết ; độc lập dân tộc nó
gắn liền với CNXH. Muốn giải phóng dân tộc phải kêu gọi các giai cấp, các
tầng lớp trong xã hội đồng sức đồng long đứng lên chống lại kẻ thù nhưng
trong đó giai cấp công nhân vẫn đóng vai trò chủ đạo, HCM chỉ rõ : “..dân
tộc cách mệnh thì chưa phân chia giai cấp nghĩa là sĩ, nông, công, thương
đều nhất trí chống lại cường quyền “ ( HCM toàn tập, tập 2, trang 266 )
trong đó công, nông là “gốc cách mệnh”, “…học trò, nhà buôn nhỏ, địa chủ
nhỏ cũng bị tư bản áp bức bóc lột, song không cực khổ bằng giai cấp công,
nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn của giai cấp công nông thôi “ ( HCM toàn
tập, tập 2, trang 266 )
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và các nhà cách mạng
có xu hướng tư sản đương thời, HCM đã đến với học thuyết của C.Mac và
Lênin và Người đã lựa chọn khuynh hướng vô sản. Người khẳng định: “
muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản” ( HCM toàn tập, tập 9, trang 314 )
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân
tộc theo con đường của cách mạng vô sản, ở HCM đã có sự gắn bó thống
nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH.
Năm 1960, Người nói : “ chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” ( HCM
toàn tập, tập 10,trang 128 )
Tư tưởng HCM vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ
khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp
14



và giải phóng con người. Chỉ có xoá bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột,
thiết lập một nhà nước của dân, do dân, vì dân, mới đảm bảo cho người lao
động có quyền làm chủ, mới thể hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá
nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc và tự do hạnh phúc của con người.
HCM nói: “ nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do
thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”
Do đó khi giành được độc lập, phải tiến lên xây dựng CNXH, làm cho
dân giàu nước mạnh, mọi người được sung sướng tự do. Người khẳng định :
“ yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với với yêu CNXH, vì có tiến lên
chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm them, tổ quốc mỗi
ngày một giàu mạnh them” ( HCM toàn tập, tập 9, trang 173 )
Giải phóng dân tộc tạo tiền đề giải phóng giai cấp: HCM giải quyết vấn đề
dân tộc theo theo quan điểm giai cấp nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp
trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế lợi ích của giai cấp phải
phục tùng lợi ích của dân tộc
Với cách tiếp cận từ quyền con người; HCM tìm hiều và tiếp nhận
những nhân tố về quyền con người nêu trong : tuyên ngôn độc lập năm 1976
của Mỹ, tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1971 của cách mạng Pháp
như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Người khẳng định đó là những lẽ phải không ai có thể chối cãi
được. Và từ quyền con người HCM đã khái quát thành quyền dân tộc : “ tất
cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”( HCM toàn tập, tập 3, trang 555 )
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính chất khoa học và cách
mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp,
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như
15



Ph. Ăng ghen nói: những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công
nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính
Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp thực chất là giải phóng con người.
Điều đó được thể hiện trong con đường mà HCM đã tìm ra cho cách mạng
Việt Nam, đó là cách mạng vô sản. Chỉ có đi theo con đường cách mạng vô
sản thì mới giành được độc lập thật sự cho dân tộc, mới thực hiện được mục
tiêu làm cho nước Việt Nam độc lập thực sự, nhân dân Việt Nam được
hưởng hạnh phúc tự do, mọi người Việt Nam ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành. Con đường cách mạng đó phù hợp với tiến bộ lịch sử
và xu thế vận động của quá trình cách mạng thế giới và cách mạng Việt
Nam. Đó chính là mối quan hệ nội tại của vấn đề giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người của Hồ Chí Minh
Người cũng xem cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít
của cách mạng vô sản trong phạm vi thế giới. Người còn đặt cách mạng giải
phóng dân tộc ngang hang với cách mạng vô sản ở chính quốc; đồng thời
Người còn cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc có khả năng, điều kiện nổ
ra và thành công sớm hơn cách mạng vô sản ở chính quốc và giúp cho cách
mạng vô sản ở chính quốc sớm thành công giành thắng lợi. Người cũng coi
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, của cách mạng
vô sản, đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng thế giới, nhưng
không phải ngồi chờ mà phải chủ động đứng lên, đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta, muốn người ta giúp mình thì trước hết mình phải tự giúp mình
đã. Tư tưởng cách mạng không ngừng của Hồ Chí Minh đã gắn độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội phản ánh mục tiêu của cách mạng giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp chính là giải phóng cong người khỏi áp bức bóc lột,
xây dựng một xã hội no đủ, hạnh phúc, tự do và thịnh vượng

16



Cú th núi vn dõn tc v vn giai cp l vn bao trựm,
xuyờn sut l ht nhõn ct lừi trong t tng ca H Chớ Minh. Khụng t
khuụn mỡnh trong nhng nguyờn lý cú sn, khụng dp khuụn mỏy múc lý
lun u tranh giai cp vo iu kin lch s thuc a m cú s kt hp
hi ho vn dõn tc vi vn giai cp, gii quyt vn dõn tc theo
quan im giai cp v gii quyt vn giai cp trong vn dõn tc, gn
c lp dõn tc theo phng hng XHCN. Lý lun cỏch mng ca gii
phúng dõn tc ca Ngi ó c thc tin chng minh l ỳng n. Ngi
ó úng gúp to ln vo kho tang lý lun cỏch mng ca thi i lm phong
phỳ thờm ch ngha Mac Lờnin v cỏch mng
IV. Kết luận

Nghiên cứu vấn đề giai cấp dân tộc giúp cho sinh viên hiểu rõ về nguồn
gốc, quá trình tồn tại và xu hớng phát triển của cộng đồng các dân tộc trên
thế giới. Đồng thời tìm hiểu bản chất căn nguyên của sự biến đổi và phát
triển thông qua việc tìm hiểu về quan hệ giai cấp nội tại trong mỗi quốc gia,
dân tộc. Qua đó ta nhận thấy rằng giữa giai cấp, dân tộc, nhân loại có mối
quan hệ biện chứng, gắn bó mật thiết. Ngoài ra việc tìm hiểu còn có tác dụng
bồi dỡng thế giới quan duy vật về thế giới, về con ngời, rèn luyện t duy biện
chứng, đề phòng và chống chủ nghĩa bi quan.
Trong điều kiện đất nớc hiện nay và sắp tới đây, vấn đề giai cấp và vấn
đề dân tộc thống nhất chặt chẽ. Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ lịch sử của dân
tộc cũng là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giai cấp mang tính lịch sử trong
cuộc đấu tranh giai cấp do giai cấp công nhân, trong khối đại đoàn kết toàn
dân mà nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh
đạo. Có tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công thì chúng ta mới
có thể thoát khỏi nớc nghèo, kém phát triển để trở thành một đất nớc phồn
vinh về kinh tế, phát triển về mọi mặt, nhân dân đợc sống trong hạnh phúc,
công bằng, dân chủ, văn minh, khẳng định đợc vị thế của nớc nhà trên trờng

chính trị thế giới. Muốn vậy thì yếu tố quan trọng không thể thiếu là sự đoàn
kết của toàn dân tộc, không thể thiếu sự hợp tác trong đấu tranh để làm giàu
cho mình và cho đất nứơc.
17


Mục lục
Lời mở đầu
Nội dung
1. Dân tộc và vấn đề giải phóng dân tộc
2. Giai cấp và vấn đề giải phóng giai cấp
3. Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp của Hồ Chí
Minh
4. Kết luận
5.Tài liệu tham khảo
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh toàn tập_ nhà xuất bản trẻ
Những chặng đướng lịch sử_ Võ Nguyên Giáp
Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh_ nhà xuất
bản trẻ
18


19



×