Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển con người VN phục vụ cho sự nghiệp cách mạng XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.98 KB, 18 trang )

Lời nói đầu
Sự phát triển kinh tế xã hội nào rút cuộc cũng nhằm những mục tiêu xã
hội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng
về lợng (tăng trởng kinh tế) còn bao hàm sự thay đổi về chất lợng(những biến
đổi về mặt xã hội).
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội cuả C.Mác là một thành tựu của
khoa học cuả loài ngời. Nó phác hoạ quy luật tổng quát cuả lịch sử nhân loại
và sự phát triển cuả xã hội loài ngời sẽ tiến tới Chủ nghiã Cộng sản mà giai
đoạn th áp cuả nó là Chủ nghiã xã hội. Chủ nghiã xã hội không đối lập với
phát triển, với kinh tế thị trờng mà là nấc thang phát triển cuả loài ngời đợc
đánh dấu bằng sự tiến bộ xã hội cuả sự phát triển. Nó là cách thức giải quyết
các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhaan dân lao động,
của toàn thể xã hội; là sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu công bằng
và văn minh.
Sự phát triển đem lại sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc cho đại đa số
nhân dân lao động, cho toàn thể xã hội thì sự phát triển đó mang tính chất
xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trờng
kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân lao động ta dới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản Việt nam, đứng đầu là Chủ Tịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng
nhân dân lao động, đem lại niềm vui và sự giàu sang cho nhân dân lao động.
Vì vậy, sự phát triển cuả Việt nam ở hiện tại và trong tơng lai phải là sự phát
triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc cuả nhân dân lao động, vì sự
hùng mạnh cuả cả xã hội, cuả toàn dân tộc; là sự phát triển mang tính chất
xã hội chủ nghiã, là sự phát triển hiện đại. Nghiã là, chúng ta phải phát triển
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghiã; đồng thời đẩy mạnh Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Nhng muốn thực hiện đợc quá trình đó
chúng ta phải khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả mọi tiềm năng, thế
mạnh và mọi nguồn lực trong nớc cũng nh ngoài nớc; trong đó nguồn lực con
ngời giữ vị trí vô cùng quan trọng. Đến lợt nó, các thành tựu cuả quá trình đó
lại phục vụ cho sự phát triển cuả con ngời. Điều đó hoàn toàn phù hợp với
quan điểm cuả Đảng: con ngời và là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp


cách mạng Xã hội chủ nghiã.

1


Nội dung của đề tài:
Phần1 : Quan điểm cuả triết học Mác - Lê nin về con ngời.
Phần 2: Quan điểm của Đảng: Con ngời vừa là mục tiêu vừa động lực của sự
nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghiã.
Phần 3 : Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển con ngời Việt nam phục vụ
cho sự nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghiã.

2


Phần I
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con ngời
I. Nguồn gốc và bản chất con ngời
Vấn đề con ngời là một trong những vấn đề triết học có ý nghĩa đặc
biệt, đợc đề cập nhiều trong lịch sử t tởng nhân loại. Tuy nhiên, việc nhìn
nhận, đánh giá vai trò và vị trí của con ngời vẫn luôn là một vấn đề cấp thiết
trong mọi thời đại.
Trong lịch sử triết học, từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây, ngời ta đã cố
gắng tìm hiểu và giải thích con ngời là gì ? Kết quả là đã có rất nhiều các câu
trả lời khác nhau. Chẳng hạn, trong thuyết âm dơng, Ngũ hành thì con ngời
ứng vời hành thổ cai quản bốn phơng, vạn vật; arixtốt đã gọi con ngời là
động vật chính trị trong khi nhấn mạnh trong con ngời có hai nhân tố khởi
nguyên: động vật (sinh học) và chính trị (xã hội),"Vấn đề là ở chỗ nhân tố
khởi nguyên nào trong chúng đợc coi là u thế hơn, đóng vai trò quyết định
trong việc hình thành khả năng, tình cảm, hành vi, hoạt động của con ngời và

bằng cách nào thực hiện đợc mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố sinh học và
các yếu tố xã hội trong con ngời. Đó là vấn đề mà không một trờng phái, một
trào lu triết học nào không đề cập đến theo quan điểm riêng của mình.
Tóm lại, với các nhà triết học trớc C.Mác, con ngời chỉ dừng lại ở con
ngời cá thể, cá nhân và họ chỉ loay hoay đi tìm vấn đề con ngời trong khuôn
khổ các cá nhân riêng lẻ, hoàn toàn bị tách khỏi các mối quan hệ xã hội, tách
rời với hoạt động thực tiễn trong điều kiện lịch sử nhất định.
Với sự ra đời của quan điểm duy vật về lịch sử; lần đầu tiên vấn đề con
ngời có đợc vị trí mà nó cần phải có, lần đầu tiên vấn đề con ngời đợc nhận
thức một cách thực sự khoa học.
Với quan điểm duy vật triệt để và phơng pháo biện chứng, Mác đã đa
ra một quan niệm hoàn chỉnh về khái niệm con ngời. Chủ Nghĩa Mác phân
biệt rõ hai mặt trong khái niệm con ngời: mặt sinh vật và mặt xã hội hay nói
cách khác, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác, cái sinh học và cái xã hội
thống nhất biện chứng với nhau, hoà quyện vào nhau làm nên con ngời.
C.Mác không hề phủ nhận mặt từ nhiên, mặt sinh học khi xem xét con
ngời với t cách là những cá nhân sống. Mác viết: Vì vậy, điều cụ thể đầu tiên
cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà
tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của giới tự nhiên.
Trớc hết, Mác thừa nhận con ngời là một động vật cao cấp nhất, sản
phẩm của sự tiến hoá lâu dài của giới sinh vật nh tiến hoá luận của Đac-uyn
đã khẳng định.
Vì vậy, con ngời chịu sự chi phối của môi trờng tự nhiên và các quy
luật tự nhiên. Khi môi trờng tự nhiên thay đổi thì buộc con ngời phải thích
nghi với nó, ví dụ khi từ mùa hè sang mùa đông thì con ngời phải mặc áo ấm;
và các quy luật tự nhiên cũng chi phối con ngời nh quy luật biến dị, di truyền
làm cho con sinh ra mang cả đặc điểm giống với cha mẹ và thế hệ trớc.
Nh mọi động vật khác, con ngời phải đấu tranh để tồn tại, ăn, mặc, ở,
sinh con đẻ cái tức con ngời cũng đòi hỏi đầy đủ nhu cầu sinh học.


3


mấy.

Nh vậy, xét theo phơng diện này thì con ngời không khác động vật là

Tuy nhiên, C.Mác không thừa nhận quan điểm cho rằng cái duy nhất
tạo nên bản chất con ngời là đặc tính sinh học, là bản năng sinh vật của con
ngời. Con ngời vốn là một sinh vật có đầy đủ những đặc trng của sinh vật nhng lại có nhiều điểm phân biệt với các sinh vật khác. Vậy con ngời khác động
vật ở chỗ nào?
* Đó chính là cái xã hội (mặt xã hội) ở trong con ngời.
Con ngời là sản phẩm của hoạt động xã hội mà trớc hết con ngời là sản
phẩm của lao động. C.Mác và Ph.Ănghen đã phân tích vai trò của lao động
sản xuất ở con ngời nh sau: Có thể phân biệt con ngời với các súc vật bằng ý
thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng đợc. Bản thân con ngời
bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con ngời bắt đầu sản xuất ra
những t liệu sinh hoạt của mình- đó là bớc tiến do tổ chức cơ thể của con ngời
quy định. Sản xuất ra những t liệu sinh hoạt của mình, nh thế con ngời đã
gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình.
Con ngời còn chịu sự chi phối của môi trờng xã hội nh giáo dục, văn
hoá, chính trị, pháp luật và các quy luật xã hội nh quy luật tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội, quy luật quan hệ sản xuất phải phù hờp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất,...Đã là con ngời thì ngay từ khi
mới ra đời đã đợc sống, nuôi dỡng, giáo dục ở tron một gia đình, khi lớn lên
đợc đi học, giáo dục trong môi trờng rộng hơn là nhà trờng và xã hội,... Rồi
những sự thay đổi về chính trị, pháp luật, kinh tế, ... buộc hành vi của con ngời cũng phải thay đổi cho phù hợp với những chuẩn mực của xã hội.
Thêm vào đó, con ngời còn có nhu cầu xã hội nh vui chơi, giải trí, giao
tiếp, thẩm mỹ, văn học nghệ thuật. Cuộc sống của con ngời là sự kết hợp hài
hoà giữa hai yếu tố vật chất và tinh thần. Khi xã hội càng phát triển thì đời

sống tinh thần càng đợc nâng cao, con ngời ngày càng có nhiều điều kiện để
thoả mãn nhu cầu của mình và ngày càng có nhiều điều kiện để phát triển
toàn diện. Các bậc (thứ tự) nhu cầu có thể đợc sắp xếp nh sau:
- Nhu cầu tự khẳng định
- Nhu cầu đợc tôn trọng
- Nhu cầu tình cảm
- Nhu cầu an toàn
Nhuvà
cầu
tâm sinh
Vậy, về phơng diện này thì con vật không- thể
không
baolýgiờ có đợc.
Đây chính là tính u trội của con ngời .
Khi xem xét mối tơng quan giữa các yếu tố sinh học và các yếu tố và
các yếu tố xã hội trong con ngời, CMác cho rằng cái quyết định trong con ngời là yếu tố xã hội, con ngời và xã hội không tác rời nhau và chỉ có trong xã
hội, trong khuôn khổ của hoàn cảnh xã hội cụ thể, con ngời mới tồn tại với t
cách con ngời.

4


Từ đó, CMác đã chỉ ra bản chất của con ngời là:
"Bản chất con ngời không phải là cái trừu tợng, cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngời là tổng
hoà của những mối quan hệ xã hội".
Nh vậy, xét trên bình diện tổng thể, bản chất con ngời không phải là cái
trừu tợng mà là hiện thực; không phải là cái vốn có, có sẵn trong mỗi cá thể
riêng biệt mà là tổng hoà của các quan hệ xã hội; không phải là cái tự nhiên
sinh học mà là cái lịch sử-xã hội.

Đây là cách tiếp cận cực kỳ biện chứng về bản chất con ngời của triết
học Mác trong khi triết học trớc Mác rơi vào quan điểm siêu hình.
Bản chất con ngời là tổng hoà các quan hệ xã hội có nghĩa là bản chất
ấy chỉ hình thành và thể hiện trong các quan hệ xã hội. Những quan hệ xã hội
ấy chi phối, quyết định hành vi trong đời sống hiện thực của con ngời, quyết
định phẩm chất và cuộc sống của từng cá nhân riêng lẻ và làm cho phơng
thức thoả mãn nhu cầu của con ngời đợc xã hội hội hoá , đợc nhân cách hoá.
Chỉ trong toàn bộ những quan hệ xã hội cụ thể đó, con ngời mới bộc lộ và
thực hiện đợc bản chất thật sự của mình. Xét về bản chất của một con ngời
cũng nh của một dân tộc phải xuất phát từ toàn bộ những quan hệ xã hội ấy.

Quan hệ xã hội ấy bao gồm:
- Quan hệ kinh tế, chính trị,pháp luật, đạo đức, tôn giáo, khoa học và
nghệ thuật.
- Quan hệ hiện tại, quá khứ (truyền thống, hiện tại)
- Quan hệ giai cấp, cộng động, nhóm và gia đình.
- Quan hệ chung toàn nhân loại, đặc thù (dân tộc, giai cấp) và quan
hệ riêng cá nhân.
- Quan hệ trong từng hình thái kinh tế - xã hội.
Theo Mác: Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, con ngời thì tái sản
xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Câu nói sâu sắc này nêu lên tích tất yếu của sự
hoà hợp giữa con ngời và tự nhiên.
Nhờ hoạt động thực tiễn, con ngời quan hệ với tự nhiên cũng có nghĩa
là con ngời có quan hệ với bản thân mình, bởi tự nhiên là thân thể vô cơ của
mình.
Tính loài của con ngời không phải là tính loài trừu tợng, nó cũng có
nghiã là tính xã hội và loài ngời chính là xã hội ngời.
Con ngời có tính xã hội trớc hết bởi bản thân hoạt động sản xuất của
con ngời là hoạt động mang tính xã hội. Trong hoạt động sản xuất, con ngời
không thể tách khỏi xã hội. Tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con ng ời

khác con vật. Hoạt động của con vật chỉ phục vụ trực tiếp nhu cầu của nó, còn
hoạt của con ngời gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã hội cùng
với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con ngời. Tính xã hội của con ngời thể
hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội.
Hoạt động của con ngời không phải hoạt động theo bản năng nh động
vật mà là hoạt động có ý thức. T duy con ngời phát triển trong hoạt động và
giao tiếp xã hội, trớc hết là trong hoạt động lao động sản xuất.
5


Tóm lại, con ngời khác vật về bản chất ở cả ba mặt: quan hệ với thiên
nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với bản thân. Cả ba mối quan hệ đó đều
mang tính xã hội; trong đó quan hệ xã hội là quan hệ bản chất nhất, bao quát
nhất trong mọi hoạt động của con ngời.
Tuy nhiên, bản chất con ngời không phải hình thành một lần là xong,
không phải là cái có sẵn, bất biến mà có quá trình hình thành và biến đổi vì
con ngời bao giờ cũng gắn với những điều kiện xã hội hiện thực, với những
quan hệ xã hội cụ thể...
Việc tìm ra nguồn gốc và bản chất con ngời đã giúp cho C. Mác có
những giải pháp giải phóng con ngời mang tính cách mạng và khoa học hay
nói một cách sâu sắc hơn thì chủ nghĩa Mác - Lênin đã thực sự trở thành
Vũ khí t tởng cho giai cấp công nhân đứng lên giải phóng xã hội, mang lại
tự do, hạnh phúc và phồn thịnh cho toàn xã hội - điều mà trớc chủ nghĩa Mác
không có đợc.
II. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Khái niệm cá nhân chỉ con ngời cụ thể sống trong một xã hội nhất định
với t cách một cá thể, một thành viên của xã hội ấy; do những đặc điểm riêng
biệt của mình mà phân biệt với những thành viên khác của xã hội.
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Bất cứ xã hội nào cũng
đợc cấu thành không phải bởi những con ngời trừu tợng mà bởi những con

ngời cụ thể, những cá nhân sống.
Mỗi cá nhân là một cái đơn nhất mang những đặc điểm riêng phân biệt
với các cá nhân khác không chỉ về mặt sinh học mà chủ yếu về mặt những
quan hệ xã hội. Những quan hệ này vô cùng phức tạp, rất cụ thể và có tính
lịch sử. Mỗi cá nhân có đời sống riêng, có những quan hệ xã hội riêng của
mình không hoàn toàn giống quan hệ xã hội của các cá nhân khác; có kinh
nghiệm riêng; có nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng riêng. Tuy nhiên, các cá nhân
trong một xã hội nhất định dù khác biệt nhau đến đâu, đều mang cái chung;
họ đều là thành viên của xã hội đều mang bản chất xã hội, không thể sống
ngoài xã hội. Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp đều do các cá nhânthành viên của giai cấp hợp thành. Mỗi cá nhân trong một giai cấp, vừa mang
bản chất chung của con ngời và loài ngời, vừa mang bản chất của một giai cấp
nhất định, đồng thời có những đặc điểm riêng làm cho cá nhân này không
giống với cá nhân khác.
Trong bất cứ xã hội nào, cá nhân cũng không tách rời xã hội. Cá nhân
là hiện tợng có tính lịch sử. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội biến đổi trong sự
phát triển của lịch sử. Mối quan hệ đó trong xã hội cổ đại không giống trong
xã hội trung đại, xã hội cận đại cũng nh xã hội hiện đại.
III. Vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử:
Trớc khi chủ nghĩa Mác ra đời, triết học duy tâm và triết học duy vật
đều không hiểu đúng đắn vai trò của quần chúng và quan hệ giữa quần chúng
và cá nhân trong lịch sử.
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã chứng minh một cách khoa học vai trò quyết
định của quần chúng nhân dân trong lịch sử và xác định đúng đắn mối quan
hệ giữa vai trò của cá nhân và vai trò của quần chúng trong sự phát triển xã
hội.
Quần chúng nhân dân là ngời sáng tạo chân chính của lịch sử. Vai trò
của quần chúng nhân dân thể hiện ở những mặt sau đây:
6



1.Quần chúng nhân dân là lực lợng sản xuất cơ bản của xã hội:
Con ngời muốn sống, xã hội muốn tồn tại thì trớc hết phải có thức ăn,
vật dùng, nhà ở,"Để đáp ứng nhu cầu đó, ngời ta phải không ngừng sản xuất.
Sản xuất ra của cải vật chất là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Lực lợng sản xuất phát triển dẫn tới sự thay đổi về mặt phơng thức sản xuất và toàn bộ đời sống xã hội. Sản xuất vật chất, chế tạo và cải
biến công cụ lao động là hoạt động của toàn xã hội chứ không phải là của một
số cá nhân. Lực lợng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao
động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc.
2.Quần chúng nhân dân lao động là động lực cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội:
Khi quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lợng sản xuất thì cần
có các cuộc cách mạng xã hội để xoá bỏ quan quan hệ sản xuất cũ, thiết lập
quan hệ sản xuất mới cao hơn. Quần chúng nhân dân bao giờ cũng là lực lợng
cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng.
Trong các cuộc cách mạng vĩ đại làm thay đổi hình thái kinh tế- xã hội, quần
chúng nhân dân tham gia đông đảo, tự giác, tích cực thì cách mạng mới có
thể giành thắng lợi. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của
quần chúng chứ không phải là sự nghiệp riêng của một số cá nhân.
3.Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế trong sản
xuất tinh thần:
Nói về vai trò quần chúng trong sáng tạo nghệ thuật, Hồ Chí Minh
nhận định: Quần chúng là những ngời sáng tạo, công nông là những ngời
sáng tạo. Nhng quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất
cho xã hội mà còn sáng tác nữa. "Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý.
Những nền văn học nghệ thuật lớn đều bắt nguồn từ văn học nghệ thuật dân
gian. Mác viết: Thần thoại Hy lạp không những cấu thành kho tàng nghệ
thuật của Hy lạp mà còn là miếng đất đã nuôi dỡng nghệ thuật Hy lạp nữa.
Quần chúng nhân dân đông đảo với hoạt động thực tiễn của họ là cơ sở
của sản xuất tinh thần của xã hội.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần t tởng thì

quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, vai trò của quần chúng và
vai trò của cá nhân trong lịch sử không tách rời nhau, trái lại nó quan hệ
khăng khít với nhau. Cá nhân u tú lãnh đạo kiệt xuất là sản phẩm của thời đại,
đại diện cho lợi ích và ý chí của quần chúng và chỉ những cá nhân nh thế mới
đợc quần chúng công nhận là ngời lãnh đạo thực sự của họ. Cá nhân u tú, lãnh
đạo kiệt xuất là sản phẩm, là con đẻ của phong trảo quần chúng nên sức mạnh
của họ, trí tuệ của họ bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Lãnh tụ có vai trò
vô cùng quan trọng đối với phong trào quần chúng. Lãnh tụ sáng suốt, đức
độ, tài năng xuất hiện đúng lúc bao giờ cũng có tác dụng thúc đẩy phong trào
quần chúng phát triển mạnh mẽ, chắc chắn đúng hớng, ít sai lầm và do đó
giúp cho phong trào quần chúng đạt đợc những thành quả tốt đẹp nhất, to lớn
nhất. Những phong trào quần chúng to lớn không thể thiếu ngời lãnh đạo có
tầm nhìn xa, thấy rộng, có năng lực tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng.
Nhng phải khẳng định một lần nữa rằng quần chúng nhân dân có vai trò quyết
định trong mọi cuộc cách mạng.

7


8


Phần II
Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
con ngời: Con ngời vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sau 15 năm thực hiện đờng lối đổi mới đợc đề ra từ Đại hội VI của
Đảng, giờ đây chúng ta đang bớc vào thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy
mạnh Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nớc. Định hớng phát triển nhằm mục

tiêu xây dựng nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lợng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần nâng cao, quốc
phòng an ninh vững chắc, dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh
về thực chất là phát triển vì con ngời, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
quần chúng nhân dân lao động. Mọi sự phát triển của xã hội trong các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá đều do con ngời quyết định và đều hớng
về con ngời, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn của mỗi con ngời, mỗi gia
đình trong cộng đồng dân tộc Việt nam. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì
mục tiêu con ngời đó phải lấy sự phát triển của con ngời Việt nam làm thớc
đo chung.
Khi khẳng định tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài ngời là sự
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội, C.Mác đã nói tới việc lấy
sự phát triển toàn diện của con ngời làm thớc đo chung cho sự phát triển của
xã hội. C.Mác cho rằng xu hớng chung của tiến trình phát triển lịch sử đợc
quy định bởi sự phát triển của lực lợng sản xuất xã hội, bao gồm con ngời và
những công cụ lao động do con ngời sáng tạo ra. Sự phát triển của lực lợng
sản xuất xã hội tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con
ngời chiếm lĩnh và sử dụng ngày càng nhiều lực lợng tự nhiên với t cách là cơ
sở vật chất cho hoạt động của chính con ngời và quyết định quan hệ ngời với
ngời trong quá trình sản xuất. Sản xuất càng phát triển, tính chất xã hội hoá
của sản xuất càng gia tăng, việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lợng của
toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do việc đó mang lại, sẽ cần
đến những con ngời hoàn toàn mới -những con ngời có năng lực phát triển
toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất. Và đến lợt mình, nền
sản xuất đó sẽ tạo nên những con ngời mới, sẽ làm cho những thành viên
trong xã hội có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn
diện của mình(1). Bởi vậy, theo quan điểm của C.Mác, phát triển sản xuất vì
sự phồn vinh của xã hội, vì cuộc sống tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên trong
cộng đồng xã hội và phát triển con ngời toàn diện là một quá trình thống nhất

để sản xuất ra những con ngời phát triển toàn diện. Và hơn nữa, C.Mác coi
sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển con ngời là một
trong những biện pháp mạnh nhất để cải biến xã hội(2)
Trong quan niệm của C.Mác, con ngời không chỉ là chủ thể của hoạt
động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định
trong lực lợng sản xuất của xã hội, mà hơn nữa, nó còn đóng vai trò là chủ thể
hoạt động của quá trình lịch sử. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con
ngời sáng tạo ra lịch sử của chính mình, lịch sử của xã hội loài ngời. Từ quan
niệm đó, C.Mác khẳng định : Sự phát triển của lực lợng sản xuất xã hội trớc
hết có nghĩa là phát triển sự phong phú của bản chất con ngời, coi nh là mục
đích tự thân(3). Bởi vậy, theo C.Mác, ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự
phát triển xã hội là sự phát triển con ngời toàn diện, nâng cao năng lực và
9


phẩm giá con ngời, giải phong con ngời, loại trừ ra khỏi cuộc sống con ngời
mọi sự tha hoá để con ngời đợc sống với cuộc sống đích thực con ngời. Và
bớc quan trọng nhất trên con đờng đó, theo ông, là giải phóng con ngời về
mặt xã hội.
Điều đó cho thấy trong quan niệm của C.Mác, thực chất của tiến trình
phát triển lịch sử xã hội loài ngời là vì con ngời, vì cuộc sống ngày một tốt
đẹp hơn cho con ngời, phát triển con ngời toàn diệnvà giải phóng con ngời.
Nói theo F.Engen là đa ngời từ vơng quốc tất yếu sang vơng quốc tự do, là
làm cho con ngời, cuối cùng là ngời chủ của tồn tại xã hội của chính mình,
cũng đồng thời trở thành những ngời chủ của tự nhiên, ngời chủ của bản thân
mình- trở thành những ngời tự do(4). Đó cũng chính là quá trình mà nhân
loại tạo ra những điều kiện, những khả năng cho chính mình nhằm đem lại sự
phát triển toàn diên, tự do và hài hoà cho mỗi con ngời trong cộng động nhân
loại, tạo cho con ngời năng lực làm chủ tiến trình lịch sử của chính mình.
Quan niệm của C.Mác về định hớng phát triển xã hội lấy sự phát triển

con ngời làm thớc đo chung càng phải đợc khẳng định trong bối cảnh hiện
thời của xã hội loài ngời. Bởi lẽ, ngày nay, nhân loại đang sống trong một bối
cảnh quốc tề đầy những biến động, cộng đồng thế giới đang thể hiện hết sức
rõ ràng tính đa dạng trong các hình thức phát triển của nó. Xã hội loài ngời,
kể từ thời tiền sử cho tới nay, bao giờ cũng là một hệ thống chỉnh thể, thống
nhất, song cũng đồng thời là hệ thống hết sức phức tạp, đa diện. Chính sự
phức tạp và đa diện của nó đã tạo nên tính không đồng đều trong sự phát triển
kinh tế-xã hội ở các nớc, các khu vực, các châu lục khác nhau. Đến lợt mình,
tính không đồng đều của sự phát triển này lại hình thành nên một bức tranh
nhiều sắc màu về định hớng phát triển xã hội. Song, dù phát triển theo hớng
nào, mọi định hớng phát triển vẫn hớng tới giá trị nhân văn của nó- tới sự phát
triển con ngời.
Trong thời đại ngày nay, tăng truởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ
và công bằng xã hội, phát triển văn hoá bảo vệ môi trờng. Mục tiêu tối cao
của chiến lợc phát triển của bất cứ quốc gia nào trên thế giứo cũng đều phải
hớng tới việc nâng cao chất lợng cuộc sống cho mỗi thành viên trong cộng
đồng xã hội. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt đợc khi có sự kết hợp hài hoà giữa
phát triển kinh tế, tăng trởng kinh tế nhanh với việc cải thiện đời sống nhân
dân, phát triển văn hoá, giữ gìn phát huy bản chất văn hoá dân tộc, đảm bảo
cho công bằng và bình đẳng xã hội, đồng thời không ngừng nâng cao chất lợng môi trờng sống. Đó chính là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển lâu bềnphát triển không chỉ vì thế hệ chúng ta hôm nay, mà còn vì sự sinh tồn và cơ
hội phát triển cho thế hệ con cháu mai sau.
Cùng với điều đó, trong thời đại ngày nay, quá trình quốc tế hoá quan
hệ kinh tế thế giới, hoạt động sản xuất, thơng mại, trao đổi thông tin khoa
học- kỹ thuật , chuyển giao công nghệ, cùng nhau giải quyết những vấn đề
chính trị, xã hội, văn hoá, ảnh hởng và sự tác động lẫn nhau giữa các nớc, các
khu vực các châu lục trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội ngày
càng trở nên sâu sắc hơn đã khiến cho mối quan hệ giữa ngời với ngời ngày
càng trở nên gắn bó vì giá trị nhân văn, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp cho
con ngời. Các vấn đề mang tính toàn cầu ngày càng trở nên gay gắt, nguy cơ
tồn tại của bản thân nhân loại ngày càng có ý nghĩa đặc biệt cũng khiến cho

con ngời càng gắn bó với nhau vì số phận chung của nhân loại. Quy mô và độ
sâu sắc của các quá trình đó đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi dân tộc phải có sự
10


thay đổi bậc thang giá trị theo tinh thần của nguyên lý triết học mới về một
nhân loại đang phát triển- phát triển trong sự thống nhất và với tính chính thể
của xã hội loài ngời, phát triển vì sự tiến bộ tiếp theo của nhân loại.
Khi bàn về con đờng phát triển tiếp theo, về sự thống nhất và tính đa
dạng của các quá trình lịch sử, về bản chất và các tiêu chí phát triển, ngời ta
đã đi đến quan niệm thống nhất rằng ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
xã hội đang là xu hớng phát triển chung của tất cả các nớc, mục tiêu của sự
phát triển đó là vì con ngời. Tiêu chí ngày càng đóng vai trò quan trọng trong
việc xếp hạng các nớc trên thế giới là sự phát triển của con ngời. Trong bài
phát biểu tại Hội nghị lần thứ t Ban chấp hành Trung ơng khoá VII-Chăm
sóc, bồi dỡng và phát huy nhân tố con ngời vì mục tiêu dân giàu, nớc mạnh,
xã hội văn minh - Tổng bí th Đỗ Mời đã khẳng định nh vậy và chỉ rõ việc
đánh giá tiến bộ kinh tế-xã hội của một nớc không phải chỉ ở tổng sản phẩm
quốc dân nh trớc đây, mà còn dựa trên cơ sở của những chỉ tiêu cơ bản là
thu nhập quốc dân, trình độ giáo dục và tuổi thọ ngời dân.
Không phải cho đến nay chúng ta mới nhận thấy điều đó, mà ngay từ
những buổi đầu tiến hành sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng ta đã nhiều
lần khẳng định Con ngời là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con ngời là
mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Chăm lo cho hạnh phúc của mọi
ngời, mọi nhà đã đợc Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ
trung tâm. Quán triệt quan điểm đó, Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời
ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta đã khẳng định: Phơng hớng lớn
của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con ngời trên cơ sở đảm bảo công
bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân, kết hợp tốt tăng trởng
kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa

đáp ứng nhu cầu trớc mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể
và cộng đồng xã hội.
Cho đến nay, chúng ta vẫn còn là nớc nông nghiệp lạc hậu, chậm phát
triển để mau chóng thoát khỏi tình trạng đó, chúng ta không còn con đờng
nào khác ngoài con đờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Không chỉ là con đờng tất yếu, công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội theo định hớng xã hội chủ
nghĩa, vì mục tiêu dân giàu nớc mạnh, xã hôị công bằng văn minh còn là
cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội- cách mạng con ngời, vì con ngời và do con ngời. Bởi lẽ, khi nói về
những u việt của chủ nghĩa xã hội, chúng ta không thể nói khác ngoài việc
khẳng định những u việt ấy không thể do ai đa đến cho chúng ta, cũng
không thể tự nhiên mà có. Đó phải là kết quả của những nỗ lực vợt bậc và bền
bỉ của toàn dân ta, với những ngời phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả
năng lao động, về tính tích cực chính trị- xã hội , về đạo đức, tình cảm trong
sáng.
Định hớng phát triển xã hội theo hớng đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá vì mục tiêu phát triển con ngời Việt nam đợc coi là bớc rất
quan trọng trong thời kỳ phát triển mới - giai đoạn từ nay đến năm 2000. Sự
nghiệp đó đòi hỏi chúng ta phải tập trung rất nhiều trí tuệ, sức ngời sức của,
tập trung mọi lực lợng, tranh thủ thời cơ, vợt qua thử thách, đẩy mạnh công
cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu phấn
đấu của chúng ta từ nay đến năm 2000 mà Đại hội lần thứ VII của Đảng đã
thông qua là: tăng trởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với
11


giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, cải thiện đời sống cho nhân dân,
nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề bền vững cho bớc phát
triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau. Từ nay đến năm 2000, GDP bình quân đầu
ngời tăng gấp đôi năm 90. Nhịp độ tăng trởng GDP bình quân hàng năm đạt

từ 9 - 10% tạo việc làm nhiều hơn số lao động, giảm đáng kể thất nghiệp; xoá
đói, tiếp tục giảm nghèo. Cải thiện điều kiện ăn, ở, học hành, chữa bệnh, đi
lại, nâng cao mức hởng thụ văn hoá của nhân dân. Khắc phục tình trạng suy
dinh dỡng ở trẻ em dới 5 tuổi. Thanh toán nạn mù chữ cho ngời trong độ tuổi
từ 15 - 35, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 2225%. Đẩy lùi tiêu cực và tệ nạn xã hội.
Mục tiêu đó cho thấy trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình,
Đảng đã luôn coi hớng phát triển con ngời Việt nam con ngời phát triển cao
về trí tuệ, cờng tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo
đức- vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Phát triển con ngời Việt nam - đó cũng chính là động lực, là mục tiêu nhân
văn, là nền tảng, là cơ sở lâu bền, tạo đà cho bớc phát triển tiếp theo của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội mà Đảng ta đã lãnh đạo nhân
dân ta từng bớc thực hiện.
Thực tiễn ngày càng khẳng định tính đúng đắn của quan niệm chủ
nghĩa Mác về vị trí và vai trò không gì thay thế đợc của con ngời trong tiến
trình phát triển lịch sử cuả nhân loại, của xã hội loài ngời. Bên cạnh nớc
chúng ta, các nớc Công nghiệp mới ở châu á đã cho thấy thành công của họ
trong chiến lợc nâng cao chất lợng con ngời, coi con ngời là tài nguyên vô giá
và đầu t lớn cho việc nâng cao chất lợng nguồn tài nguyên sức ngời vô giá ấy,
làm tài nguyên, lấy đó làm đòn bẩy phát triển kinh tế, hiện đại hoá xã hội.
Bản thân sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội mà chúng ta đang
thực hiện với những thành công bớc đầu của nó cũng ngày càng đòi hỏi chúng
ta phải nhận thức một cách sâu sắc những giá trị lớn lao và nhân tố quyết
định của nhân tố con ngời, thấy rõ vai trò của con ngời trong chiến lợc phát
triển kinh tế-xã hội. Trên thực tế, và trong quan niệm của mỗi chúng ta, con
ngời ngày càng thể hiện rõ vai trò là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn
của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia. Bởi vậy, để
đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội theo định hớng xã
hội chủ nghĩa và đa sự nghiệp cách mạng lớn lao đó lên thành công ở một nớc
vẫn còn trong tình trạng lạc hậu nh nớc ta, chúng ta không thể không xuất

phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể không phát triển con ngời Việt
nam, nâng cao đội ngũ những ngời lao động nớc ta lên một tầm cao chất lợng
mới. Hơn nữa, đó cần đợc coi là động lực mạnh mẽ nhất giúp chúng ta thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu và xấy dựng xã hội thành một xã hội công bằng,
nhân ái một xã hội thực sự tốt đẹp và tiến bộ, mang bản sắc dân tộc và hiện
đại. Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đã khẳng định: nâng cao dân trí, bồi
dỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con ngời Việt nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Với thực tiễn nớc ta hiện nay, với bối cảnh quốc tế hiện thời, để phát
huy con ngời Việt nam, để bồi dỡng và phát huy nhân tố con ngời nh Tổng
bí th Đỗ Mời đã chỉ rõ, chúng ta nhất thiết phải từng bớc hiện đại hoá đất
nớc và đời sống xã hội. Và chúng ta chỉ có thể tăng trởng nguồn lực con
ngời khi quá trình hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn hoá, văn nghệ, bảo vệ
sức khoẻ, dân số và kế hoạch hoá gia đình gắn liền với việc thừa kế và phát
huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Chính vì thế mà mọi kế
12


hoạch xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội phải đợc đặt trong mối liên hệ
không thể tách rời với kế hoạch đầu t cho chính sự phát triển về nhân cách, trí
tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi ngời, mỗi gia đình và cả cộng
đồng dân tộc Việt nam.
Trung thành với t tởng phát triển vì con ngời, giải phóng con ngời, giải
phóng nhân loại của C.Mác trong suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của
mình. Đảng ta đã lấy việc chăm lo cho hạnh phúc của con ngời làm mục tiêu
phấn đấu cao nhất. Vì lợi ích mời năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
ngời, việc gì có lợi cho dân, ta phải làm hết sức, việc gì có hại cho dân ta
phải hết sức tránh đã trở thành t tởng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp hoạt
động của Đảng. Với t cách là Đảng cầm quyền, mọi chủ trơng, chính sách, đờng lối của Đảng đều quán triệt, đều hớng tới mục tiêu phát triển con ngời
Việt nam toàn diện. Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội của Đảng ta chỉ rõ: Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc
con ngời là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên tục trong những năm gần
đây, Đảng đã ban hành hàng loạt Nghị quyết về phơng hớng mục tiêu, điều
kiện và giải pháp thuộc nhiều lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến sự nghiệp
chăm sóc, bồi dỡng và phát huy nhân tố con ngời, công nghiệp hoá hiện đại
hoá xã hội theo định hớng xã hội chủ nghĩa cũng là vì sự nghiệp cao cả đó.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá lấy t tởng phát triển chấp nhận của
C.Mác làm nền tảng không có nghĩa là đặt phát triển kinh tế sau phát triển
con ngời , mà là ở chỗ "tăng trởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân
dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội".
Một nớc nghèo và lạc hậu nh nớc ta, để thoát khỏi tình trạng đó, trớc hết
chúng ta cần u tiên cho phát triển kinh tế. Trớc đây, với căn bệnh chủ quan,
duy ý chí, chúng ta đã làm nh vậy và đã phạm sai lầm. Ngày nay, để tránh
mắc lại sai lầm đó , phát triển kinh tế không thể không xuất phát từ chủ nghĩa
nhân đạo hiện thực, từ tinh thần nhân văn sâu sắc và gắn liền với hiện đại hoá
đời sống xã hội. Bởi lẽ, một trong những động lực quan trọng trong phát triển
kinh tế chính là ở chỗ tạo ra sự cân đối, hài hoà giữa tăng trởng kinh tế và môi
trờng xã hội lành mạnh.
Phát triển kinh tế theo cơ chế thị trờng, chúng ta không thể không lu ý
đến lời cảnh tỉnh của C.Mác về nguy cơ "tha hoá" của con ngời trong nền
kinh tế hàng hoá. C.Mác nhắc nhở chúng ta trong phát triển kinh tế phải gắn
"sự nghiệp giải phóng con ngời" với cuộc " đấu tranh chống lại biểu hiện thực
tiễn cực đoan của sự tha hoá con ngời". Ngày nay, sự phát triển kinh tế theo
cơ chế thị trờng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội nhất thiết phải gắn với
cội nguồn của dân tộc, với những giá trị truyền thống. Chỉ có thế "chúng ta
mới tránh khỏi nguy cơ tha hoá", " làm mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản
thân mình". Chiến lợc phát triển con ngời trong bối cảnh nền kinh tế thị trờng
cũng phải đợc đợc hoạch định theo hớng đó. Them vào đó, nó cần phải đợc
xuất phát tự quan niệm của C.Mác về tính thiết yếu của việc kết hợp hài hoà

sự phát triển tự do của cá nhân với thiết lập mối quan hệ tốt đẹp giữa ngời với
ngời trong cộng đồng. Bởi lẽ, "chỉ cí trong cộng đồng cá nhân mới có những
phơng tiện để phát triển toàn diện những năng khiếu của mình; chỉ có trong
cộng đồng, mới có thể tự do cá nhân" và chỉ "trong những cộng đồng thật sự,
các cá nhân có đợc tự do, ngay khi họ liên hợp lại và nhừ sự liên hợp ấy".
13


14


Phần III
Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển con ngời Việt nam phục vụ cho sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa
Phát triển giáo dục- đào tạo là một trong những động lực quan trọng
nhất đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện tiên quyết để
phát triển nguồn lực con ngời, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trởng
kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục tăng đầu t ngân sách cho giáo dục-đào
tạo.
Đổi mới căn bản và toàn diện nội dung, phơng pháp dạy và học, hệ
thống trờng lớp và hệ thống quản lý giáo dục theo hớng chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hoá và dân chủ hoá. Củng cố thành tựu xoá mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học, đẩy nhanh tiến độ phổ cập trung học cơ sở trong 5 năm tới,
tạo điều kiện cho những địa phơng có khả năng hoàn thành sớm việc phổ cập
giáo dục trung học phổ thông, mở rộng quy mô đào tạo trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề. Đẩy mạnh phong trào học tập, khuyến khích tự học, tự
hoàn thiện học vấn tay nghề, bằng những hình thức giáo dục chính quy, thực
hiện tốt khẩu hiệu "giáo dục cho mọi ngời", cả nớc trở thành một xã hội học
tập. Xây dựng quy hoạch đào tạo nhân lực theo phơng thức kết hợp học tập
trung, học từ xa, học trên mạng. Từng bớc hiện đại hoá cơ sở vật chất và thiết

bị dạy học, phấn đấu để ngày càng có nhiều trờng phổ thông đủ điều kiện
học hai buổi mỗi ngày tại trờng và đợc nối mạng Internet, học sinh từ tiểu học
trở lên đợc học ngoại ngữ và tin học. ở mọi cấp học, bậc học, kết hợp dạy và
học lý thuyết với thực nghiệm và thực hành. Gắn công tác đào tạo với công
tác nghiên cứu khoa học và sản xuất. Nhà trờng và cơ sở đào tạo phối hợp với
các tổ chức khoa học và các cán bộ kỹ thuật truyền bá tri thức sản xuất,
chuyển giao công nghệ mới cho dân. Coi trọng công tác hớng nghiệp và phân
luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động
nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nớc và từng
địa phơng. Nhanh chóng hiện đại hoá một số trờng dạy nghề, tăng nhanh tỷ lệ
lao động đợc đào tạo trong toàn lao động xã hội, khuyến khích phát triển hệ
thống trờng, lớp dạy nghề dân lập và t thục; trang bị cho thanh niên những
kiến thức sản xuất, kỹ năng lao động và năng lực tiếp thu công nghệ mới để
tự tạo việc làm, chủ động tìm kiếm cơ hội lập thân, lập nghiệp.
Mở rộng hợp lý quy mô giáo dục đại học, tạo chuyển biến rõ nét về
chất lợng và hiệu quả đào tạo, phát huy nội lực tự học, nghiên cứu khoa học
của sinh viên. Tập trung đầu t vào hai trờng đại học quốc gia thành những
trung tâm đào tạo chất lợng cao, chuẩn bị đội ngũ nhân lực cho đất nứơc xây
dựng một số trờng đại học s phạm trọng điểm để nhanh chóng đào tạo đợc đội
ngũ giáo viên giỏi cho hệ thống trờng, lớp ở bậc phổ thông cũng nh ở bậc đại
học.
Huy động sức mạnh toàn dân vào việc thực hiện chủ trơng xã hội hoá
giáo dục, phát triển đa dạng các hình thức đào tạo, mang lại cho ngời dân cơ
hội học tập và đóng góp nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục. Phát triển
mạnh hội khuyến học, quỹ khuyến khích tài năng và các tổ chức bảo trợ, hỗ
trợ giáo dục.

15



Tăng cờng giáo dục t tởng, chính trị, đào tạo và lối sống cho thế hệ trẻ.
ở các trờng đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, cải tiến và hiện
đại hoá việc giảng dạy và học tập các bộ môn khoa học Mác- Lê-nin và t tởng
Hồ Chí Minh.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho ngời
nghèo có cơ hội học tập, tiếp tục xây dựng các trờng phổ thông nội trú cho
con em dân tộc thiểu số, chú trọng đặc biệt đến quyền lợi học tập của nội
dung ở gần hai nghìn xã nghèo nhất.
Trong những năm trớc mắt, đẩy mạnh việc chấn hng giáo dục, nhanh
chóng giải quyết dứt điểm vấn đề bức xúc : tinh giản chơng trình đào tạo cho
phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý của học sinh và yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá về nguồn nhân lực; cải tiến chế độ thi cử, khắc
phục khuynh hớng "thơng mại hoá" giáo dục, ngăn chặn những tiêu cực trong
giáo dục; khắc phục tình trạng làm và dùng bằng giả; có cơ chế chặt chẽ trong
việc cấp bằng, công nhận học hàm học vị; chấn chỉnh công tác quản lý nhà nớc đối với toàn bộ hệ thống giáo dục, hệ thống nhà trờng cả công lập và t
thục.
Tăng dần ngân sách nhà nớc cho việc đa những ngời giỏi đi học ở
những nớc có nền khoa học và công nghệ tiên tiến. Có quy hoạch và chính
sách tuyển chọn ngời giỏi, đặc biệt chú ý con em công nhân và nông dân, để
đào tạo thành những chuyên gia đầu ngành bằng ngân sách quốc gia, nguồn
vốn của dân, nguồn tài trợ của nứơc ngoài và các tổ chức quốc tế.

16


Kết luận
Nh vậy, xuất phát từ t tởng của C.Mác về sự phát triển con ngời, vì sự
nghiệp giải phóng của con ngời, giải phóng nhân loại, chúng ta có thể khẳng
định rằng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội vì mục tiêu dân
giàu nớc mạnh xã hội công bằng văn minh ở nớc ta hiện nay chính là một

cuộc cách mạng- cách mạng con ngời. Trong "T bản", chính C.Mác đã khẳng
định: "Để sản xuất ra những con ngời phát triển toàn diện" cần phải có một
nền kinh tế phát triển, một nền văn hoá mới, một nền khoa học- kỹ thuật hiện
đại, một nền giáo dục tiên tiến. Và ông coi tạo ra những thành tự kinh tế-xã
hội đó "không phải chỉ làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là một phơng pháp duy nhất để sản xuất ra những con ngời phát triển toàn diện"- những
chủ nhân thực sự của một chế độ xã hội vì con ngời. Coi con ngời là nhất tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới theo hớng đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc, Đại hội VII của Đảng đã xác định một trong những
nhiệm vụ trung tâm của chúng ta hiện nay là "phát huy nguồn lực con ngời
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Phát triển nhanh và
bền vững lấy việc bồi dỡng và phát huy nguồn lực con ngời làm yếu tố cơ bản
tự nó đã nói lên sự phát triển của con ngời làm nền tảng của chủ nghĩa nhân
đạo hiện thực, là giá trị tuyệt đối và tự mục đích của sự phát triển và tiến bộ
xã hội.

17


Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác - Lênin
(3 tập, học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh).
2. Đề cơng bài giảng triết học Mác - Lênin (Bộ Giáo dục và Đào tạo)
3. Ban biên soạn giáo trình Quốc gia, Giáo trình Triết học Mác - Lênin.
4. Mác, Ăng ghen toàn tập, NXB chính trị quốc gia 1997, t.3, 4, 20
5. Lênin toàn tập, NXB Mác -xcơ - va. 1981 t.18, 29, 33.

18




×