Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Lý luận tiền tệ của mác và sự vận dụng vào nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.36 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những
biến chuyển quan trọng. Từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu, bao
cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, có
sự quản lý của Nhà nước. Quản lý nhà nước về kinh tế, vì thế cũng có những
thay đổi đáng kể. Thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các chích
sách về tài chính, tiền tệ, Nhà nước đã quản lý nền kinh tế một cách linh hoạt và
chặt chẽ hơn...Việc gia nhập WTO chắc chắn sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho Việt
Nam để tiếp tục tăng trưởng kinh tế nhanh và giảm nghèo bền vững trong những

năm tới. Triển vọng của quyền làm thành viên xem ra đã khuyến khích tăng
mạnh đầu tư gián tiếp nước ngoài, góp thêm vào sự bùng nổ đang diễn ra của th ị
trường chứng khoán mới nổi tại Việt Nam. Việc thị trường chào đón những
đợt phát hành trái phiếu công ty đã minh chứng về khả năng tài trợ cho những
nhu cầu đầu tư lớn đang ngày càng tăng của Việt Nam.
Tuy nhiên, việc vận dụng các lý luận về tiền tệ vào nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam còn nhiều trở ngại. Đólà sự am hiểu về phương
pháp điều hành các chính sách tiền tệ còn nhiều hạn chế. Với đặc điểm của nền
kinh tế Việt Nam việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng chúng ra sao trong
những giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế luôn là một vấn đề cần
thường xuyên quan tâm theo dõi đối với các nhà hoạch định và điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia. Vì thế, việc nghiên cứu và hiểu rõ những lý luận tiền tệ là

1


một điều hết sức cần thiết đểáp dụng vào việc ổn định nền kinh tế vĩ mô và phát
triển kinh tế.
Bằng phương pháp phân tích tổng hợp kết hợp với các phương pháp khác,
đề tài “Lý luận ti ền tệ c ủa Các Mác và s ự v ận d ụng vào nền kinh t ế
th ị trường ở nước ta hiện nay” đã hệ thống hoá, phân tích vấn đề mang


tính khách quan về lý luận tiền tệ của Các Mác và sự vận dụng của nó vào nền
kinh tế Việt Nam thông qua các công cụ chính sách tiền tề, đồng thời đi sâu tìm
hiểu nêu lên một số hướng giải pháp khắc phục.
Ngoài phần mục lục và tài liệu tham khảo, đề án được trình bày theo kết
cấu như sau:
Phần 1: Vận dụng những lý luận về tiền tệ vào nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Phần 2: Một số mục tiêu và giải pháp hoàn thiện việc áp dụng lý luận
tiền tệ vào Việt Nam
Với sự hướng dẫn nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn đã giúp em có được
hướng nghiên cứu đúng đắn, tiếp cận sát thực với vấn đề nghiên cứu. Em xin
chân thành cảm ơn thầy giáo Thạc sỹ Phạm Văn Cần đã giúp đỡ em hoàn thành
đề án của mình.

2


I. VẬN DỤNG NHỮNG LÝ LUẬN VỀ TIỀN TỆ VÀO NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Áp dụng những lý luận về tiền tệ để đảm bảo giá cả được ổn định, giữ giá
đồng tiền, phát triển kinh tế một cách bền vững là một trong những mục tiêu
quan trọng của việc quản lý nền kinh tế vĩ mô của nhà nước. Trong các công cụ
điều tiết vĩ mô của nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách
quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Nó cũng
có những quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như: chính
sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại. Những nội
dung chính của chính sách tiền tệ ở Việt Nam bao gồm:
- Cung ứng và điều hoà khối lượng tiền tệ ngân hàng nhà nước tăng hay
giảm khối lượng tiền tệ để duy trì tương quan giữa tổng cung và tổng cầu giữa
tiền và hàng

- Chính sách tín dụng cho nền kinh tế: khi các ngân hàng thương mại và có
các tổ chức tín dụng thiếu khả năng thanh toán thì họ đến ngân hàng trung ương
xin tái cấp vốn. Ngân hàng trung ương luôn đóng vai trò là một tổ chức cho vay
cuối cùng để thúc đẩy các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng huy động
tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong dân chúng để đầu tư phát triển kinh tế.
- Chính sách quản lý ngoại hối: hướng vào việc ngăn chặn tích cực ngoại tệ
trong các doanh nghiệp và tầng lớp nhân dân. Đề thực hiện việc ổn định giá cả
của đồng tiền quốc gia, ngân hàng nhà nước thực hiện các nhiệm vụ: quản lý
ngoại hối, lập bảng theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện
các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức điều tiết thị trường hối đoái, tổ chức điều tiết thị
trường hối đoái, xây dựng và thống nhất quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia,…
- Chính sách tạm ứng cho ngân hàng nhà nước
+ Trường hợp ngân sách cân bằng: Chính phủ thu thuế vào ngân sách, ngân
sách chi ra cho bộ máy quản lý nhà nước và nền kinh tế lượng tiền vẫn nằm
nguyên trong lưu thông.
+ Trường hợp ngân sách thiếu hụt: lúc này chi lớn hơn thu, giải quyết bằng
3


bốn cách: vay của dân, vay của hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng , vay của
ngân hàng nhà nước, vay nợ nước ngoài.
+Trường hợp ngân sách thặng dư: khối lượng tiền tệ trong thị trường được
rút bớt cất đi.
Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản chủ yếu nhất của Ngân hàng trung
ương. Có thể nói chính sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt mọi hoạt động của
Ngân hàng trung ương. Các hoạt động khác của Ngân hàng trung ương đều
nhằm thực thi chính sách tiền tệ đạt được các mục tiêu đó. Trong những năm
qua, những nội dung chính của chính sách tiền tệ đã được ngân hàng nhà nước
thực hiện thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ sau:
1. Công cụ lãi suất

Khi sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương
(thị trường mở, chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, v.v….) đều có tác động đến lãi
suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Trong đó, đặc
biệt là lãi suất chiết khấu của Ngân hàng trung ương tác động mạnh đến lãi suất
cho vay của các ngân hàng thương mại. Song, khi các công cụ trên đây hoạt
động chưa có hiệu quả, thì Ngân hàng trung ương có thể trực tiếp quy định
khung lãi suất hoặc trần lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại. Để
tránh rủi ro, bảo vệ quyền lợi các ngân hàng, Ngân hàng trung ương thường quy
định mức lãi suất “sàn” tối đa cho tiền gửi và lãi suất “trần” tối thiểu cho tiền
vay. Nếu nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách hàng của ngân hàng thương mại,
thì Ngân hàng trung ương thường quy định ngược lại mức lãi suất tối thiểu cho
tiền gửi và mức tối đa cho tiền vay. Ngân hàng trung ương muốn kiểm soát được
lãi suất, bởi vì lãi suất có tác động mạnh đến tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác
động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất
dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất
là “giá cả” của vốn, do vậy, nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu
- về vốn trong nền kinh tế.
Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. Ở Việt Nam Ngân

4


hàng Trung ương đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi suất nhằm tác động tích cực
đến nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi, có thể thấy rõ tính linh hoạt của chính sách lãi suất
qua các thời điểm:
- Trước ngày 1/6/2002 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện cơ chế điều hành lãi
suất cơ bản Đồng Việt Nam, mức lãi suất cơ bản được công bố trong các tháng đầu năm 2002
là 0,6%/tháng. Ngân hàng Nhà nước cũng đã mạnh dạn thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất
đối với ngoại tệ từ tháng 6/2001. Chính sách lãi suất như vậy là phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và bám sát với diễn biến của thị

trường tiền tệ quốc tế.
- Từ ngày 1/6/2002 Ngân hàng Nhà nước quyết định chuyển sang cơ chế lãi suất thoả
thuận Đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Đây là một sự "cởi trói"
cho các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng
chủ động trong hoạt động huy động vốn và cho vay đối với khách hàng. Cơ chế mới đã tạo ra
sự sôi động trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các tổ chức tín dụng. Nếu như với
cơ chế lãi suất cơ bản, trong các tháng đầu năm 2002 lãi suất huy động vốn dừng lại ở mức
0,6%/tháng, lãi suất cho vay bình quân là 0,7%/tháng, thì từ khi áp dụng cơ chế lãi suất thoả
thuận từ tháng 6/2002 là nhất là trong các tháng 8 và 9/2002 lãi suất huy động vốn cao nhất
của các ngân hàng thương mại lên tới 0,7%, thậm chí 0,72%/tháng - Mức lãi suất cao nhất
trong vòng gần 2 năm. Không dừng lại ở đó, các tháng đầu năm 2003 do nhu cầu vay vốn trên
thị trường vẫn cao, các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng tiếp tục cuộc cạnh tranh
huy động vốn thông qua các biện pháp nâng lãi suất huy động; Thực hiện các hình thức
khuyến mãi rầm rộ và hấp dẫn. Đã xuất hiện diễn biến bất thường trên thị trường tiền tệ Việt
Nam là lãi suất nội tệ tăng lên quá cao, trong khi đó lãi suất ngoại tệ giảm xuống quá thấp.
Thị trường tiền tệ VND nóng lên, tuy vậy vẫn không tác động tích cực đến vấn đề tiết kiệm và
đầu tư. Thực tế trên cho thấy các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng đã vào cuộc
rất nhanh với cơ chế mới, theo sát diễn biến của thị trường, năng động trong kinh doanh để
huy động vốn và đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nhưng với lãi suất quá nóng sẽ tiềm ẩn
những rủi ro cho các tổ chức tín dụng và khách hàng. Đối với các tổ chức tín dụng chi phí
cao, lợi nhuận giảm thậm chí thua lỗ, đối với các doanh nghiệp chi phí vốn cao, đẩy giá thành
lên cao sẽ giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Ở Việt Nam thời gian qua Ngân hàng Trung ương cũng đã cố gắng sử dụng công cụ lãi
suất để điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi.
Cho đến cuối năm 2002, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thiết kế đủ hệ thống lãi suất chủ
đạo bao gồm: cặp lãi suất tái suất vốn, lãi suất cơ bản và hệ thống lãi suất của phương tiện
5


thường xuyên gắn liền với hoạt động cho vay qua đêm (Quyết định 1085/2002/QĐ-NHNN)

và lãi suất cho số dư tiền gửi thường xuyên của các tổ chức tín dụng tại ngân hàng Nhà nước
(Quyết định 1284/2002/QĐ-NHNN).
Trong thực tế, mặc dù ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản nhưng nó ít tác động
đến lãi suất thị trường bởi vì nhu cầu vay vốn là rất lớn khách hàng chấp nhận vay vốn với lãi
suất cao, các tổ chức tín dụng đua nhau tăng lãi suất huy động vốn để cho vay, các tổ chức tài
chính phi ngân hàng cũng tham gia cạnh tranh tích cực trên thị trường vốn, lãi suất trái phiếu
kho bạc được đẩy lên cao, lãi suất trái phiếu địa phương tăng vọt... điều đó làm cho thị trường
tiền tệ nóng lên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khó kiểm soát được lãi suất thị trường.
Trước thực trạng như vậy, Ngân hàng Nhà nước đã phải thực hiện một số biện
pháp quản lý phù hợp để làm hạ nhiệt lãi suất quá nóng trên thị trường tiền tệ:
- Trước hết là từ tháng 8/2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định giảm đáng kể
lãi suất tái cấp vốn từ 6,0%/năm, xuống 5,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5,0%/năm xuống
4,2%/năm; tỷ lệ dự trữ bắt buộc cả nội tệ, ngoại tệ có mức giảm 0,5% - 1,0% so với mức thực
hiện trước đó.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã làm việc với 4 ngân hàng thương mại Nhà nước,
chiếm 70% thị phần huy động vốn và cho vay, để bàn biện pháp giảm lãi suất trên thị trường.
Qua cuộc họp với Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại này đã cắt giảm lãi suất
huy động vốn kỹ hạn ngắn. Riêng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
chiếm tới 25 thị phần huy động vốn và cho vay trong toàn quốc còn quyết định giảm cả lãi
suất điều hành vốn trong hệ thống của mình, đồng thời giảm mức lãi suất mà các chi nhánh đi
vay các ngân hàng thương mại khác.
- Hiệp hội Ngân hàng cũng đã vào cuộc bằng việc tổ chức cuộc họp với 4 Ngân hàng
thương mại Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước để bàn biện pháp hạ mặt bằng lãi suất trong
nền kinh tế, thống nhất phương pháp hoạt động của các ngân hàng nhằm đảm bảo lợi ích
chung trong toàn hệ thống, đến hiệu quả của nền kinh tế và lợi ích của từng tổ chức tín dụng.
Cuộc họp đã thống nhất các ngân hàng thương mại lấy mức lãi suất huy động vốn kỳ hạn 6
tháng làm lãi suất cơ bản giữa các ngân hàng hội viên; đồng thời thường xuyên thông báo cho
nhau việc thay đổi các mức lãi suất của mình thông qua Hiệp hội Ngân hàng.
Các biện pháp kể trên đã thể hiện sự chủ động của Ngân hàng Nhà nước sử dụng đúng
các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ và tôn trọng tính quy luật về lãi suất, phản ánh

cung cầu vốn trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường, đồng thời thúc đẩy sự hợp tác giữa các
thành viên của Hiệp hội ngân hàng trong khi vẫn tôn trọng tính tự chủ trong hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng thương mại. Kết quả là lãi suất huy động vốn kỳ hạn ngắn đã giảm
6


xuống.

Đến cuối tháng 8 năm 2003 có một nghịch lý là trong khi lãi suất huy động
vốn ngắn hạn giảm xuống, thì lãi suất huy động vốn và cho vay trung và dài hạn
vẫn đứng ở mức cao, thậm chí ở một số ngân hàng thương mại còn có xu hướng
tăng lên. Chẳng hạn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn lãi suất
trái phiếu kỳ hạn 5 năm vẫn duy trì ở mức 9,17%/năm cho năm đầu tiên, lãi suất
huy động vốn kỳ hạn 24 tháng của ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam,
cho khoản tiền gửi từ 50 triệu đồng trở lên tới 0,785%/tháng (tương đương
9,42%/năm)... Một thực tế đáng quan tâm nữa là lãi suất huy động vốn của ngân
hàng thương mại này tương đương hoặc cao hơn lãi suất cho vay của ngân hàng
thương mại khác. Bởi vậy, nếu các ngân hàng thương mại cứ tăng lãi suất trung
và dài hạn lên, thì vốn từ ngân hàng có lãi suất thấp hơn sẽ chạy sang ngân hàng
có lãi suất cao hơn và nếu phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiều Đô thị
với lãi suất cao, thì chủ yếu hút vốn từ các ngân hàng thương mại đầu tư vào đó,
ảnh hưởng đến việc cho vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng cho khách hàng
và các dự án. Thực trạng này cho thấy thị trường liên ngân hàng chưa phát triển,
chưa có tác dụng điều hoà lãi suất trong nền kinh tế. Từ đó đòi hỏi ngân hàng
thương mại phải có các giải pháp để điều hành chính sách tiền tệ phù hợp.
2. Công cụ tỷ giá
Từ năm 1992, tỷ giá của Việt Nam được điều hành theo quy luật cung cầu
ngoại tệ trên thị trường có sự quản lý của Nhà nước thay cho chế độ tỷ giá cố
định trước đó. Đầu năm 1999, quản lý tỷ giá lại có thêm bước tiến nữa với việc
công bố tỷ giá giao dịch bình quân ngày hôm trước làm căn cứ cho NHTM tự ấn

định tỷ giá giao dịch cho mình. Tỷ giá chính thức cũng đã được nới lỏng dần
dần và đến nay giữ ổn định xê dịch trên dưới 16.000 VND/USD. Bên cạnh đó,
tỷ lệ kết hối cũng liên tục được nới lỏng từ mức 80% nay chỉ còn 20%, cũng
đang tạo động lực khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu cũng
như nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu. Gần đây tuy tỷ
giá có tăng lên vượt mức 16.000 VND/USD, nhưng theo NHNN đây là sự vận
7


động bình thường của thị trường, chưa gây biến động cho nền kinh tế và hoàn
toàn nằm trong tầm kiểm soát. Tỷ giá VND/USD ổn định tạo thuận lợi cho cả
xuất khẩu và cả nhập khẩu, nhất là vay nợ nước ngoài của Việt Nam. Đồng thời,
với chính sách điều hành tỷ giá biến động 2 chiều nên hầu như loại bỏ được yếu
tố đầu cơ, lại càng làm cho thị trường ngoại tệ ổn định, cầu ngoại tệ tăng chậm.
Có thể nói, cơ chế quản lý tỷ giá đã góp một phần quan trọng trong việc duy trì
ổn định kinh tế vĩ mô, tạo đà cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao trong những
năm qua của Việt Nam.
Nhằm ổn định cán cân thanh toán quốc tế, trong những năm qua Việt Nam
theo đuổi mục tiêu tăng cường củng cố dự trữ ngoại tệ đạt mức dự trữ an toàn.
NHTW chịu trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ động thái và trạng thái dự trữ ngoại
hối quốc gia; thống nhất một đầu mối dự trữ ngoại hối tại NHTW và tại các
NHTM. Dự trữ ngoại hối quốc gia ngày càng ổn định, đủ khả năng điều tiết thị
trường trong trường hợp tình hình thị trường có biến động lớn. Năm 2005, dự
trữ ngoại tệ của ta đạt mức lớn nhất từ trước tới nay, đạt trên 14 tuần nhập khẩu.
Tuy nhiên con số này là rất nhỏ bé khi so sánh với các nước, ước chỉ bằng 1%
lượng dự trữ của các quốc gia như Nhập Bản, Trung Quốc (từ 700 – 1.000 tỷ
USD).
Tuy đạt được những bước tiến quan trọng trong tăng dự trữ ngoại tệ quốc
gia, song về chính sách quản lý ngoại tệ vẫn còn nhiều điều cần xem xét. Hiện
nay cách tính quỹ dự trữ ngoại hối chủ yếu được xác định theo tuần nhập khẩu.

Theo cách tính này, nguồn ngoại hối dự trữ chỉ mới dừng lại ở việc sẵn sàng
cung ứng ngoại tệ để cân bằng cán cân thương mại, trong khi đó cán cân vãng
lai, cán cân vốn đang ngày càng tăng, tạo lên một áp lực lớn về ngoại hối do mất
cân bằng trong thời gian gần đây. Do phải trả nợ nước ngoài, lợi nhuận của các
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhu cầu chuyển vốn ra nước ngoài
kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam đang có xu hướng tăng. Đây là
những nhu cầu ngoại tệ hợp lý mà Chính phủ phải thỏa mãn.NHNN đã rất linh
hoạt trong sử dụng công cụ này.
8


Từ 1/7/2002 NHNN quyết định nới lỏng biên độ quy định tỷ giá của các
TCTD trong giao dịch mua bán ngoại tệ đối với khách hàng, quyết định này đã
giảm dần những quy định mang tính chất hành chính can thiệp vào quyền tự chủ
kinh doanh của các TCTD. Ngày 13/9/2003 Thống đốc NHNN đã ra quyết định
958/2002/QĐ-NHNN về quản lý ngoại hối đối với việc mua bán chứng khoán
của các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Từ
tháng 10/2002 NHNN đã có qui định mới về trạng thái ngoại tệ đối với các
NHTM…Cùng với việc ban hành các chính sách nói trên, NHNN vẫn duy trì và
vận hành có hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại tệ, liên ngân hàng, thực
hiện nghiệp vụ Swap trong giao dịch hoán đổi ngoại tệ lấy đồng Việt Nam giữa
NHTM và NHNN.
Với các biện pháp nêu trên, thị trường ngoại hối Việt Nam trong thời gian
qua tương đối ổn định, tỷ giá biến động không nhiều góp phần ổn định tiền tệ,
ổn định kinh tế.
3. Công cụ hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và
chỉ tiêu lạm phát dự kiến hàng năm, ngoài ra còn dựa vào một số tín hiệu thị
trường khác: tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá, thâm hụt ngân sách nhà nước, tốc độ lưu
thông tiền tệ,… Trên cơ sở đó, hạn mức tín dụng được phân bổ cho các ngân

hàng thương mại, cho từng thời kì phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ. Để
hạn chế việc tạo tiền quá mức của ngân hàng thương mại làm tăng khối lượng
tiền tệ trong nền kinh tế, Ngân hàng trung ương quy định hạn mức tín dụng tối
đa cho từng ngân hàng thương mại. Trong phần lớn các trường hợp, những hạn
mức riêng này được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ
so với tổng mức cho vay của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng thương mại chỉ
được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng quy định.
Hạn mức tín dụng được Ngân hàng trung ương sử dụng như một công cụ
quan trọng của chính sách tiền tệ, khi mà các công cụ truyền thống khác kém
hiệu quả. Tuy nhiên, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất thị
9


trường tăng lên, làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, làm lệch
lạc cơ cấu đầu tư của các ngân hàng thương mại, làm phát sinh các thị trường tài
chính “ngầm” ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng trung ương, gây khó khăn về
vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đây là công cụ được coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu của
thời kì đổi mới. Hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm phát.
Năm 1990 – 1991, do mức độ lạm phát còn ở tỉ lệ cao (67,6%) nên ngân hàng
nhà nước đã chủ trương thi hành chính sách chặt ngay từ đầu. Năm 1992, tăng
trưởng kinh tế đạt 8.65% mức lạm phát chỉ là 17,6%. Những năm sau đó, đặc
biệt là từ 1995 – 1997, ngân hàng nhà nước tiếp tục thực hiện chính sách thắt
chặt. Tuy nhiên, từ năm 1998 tới nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai
trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán nên từ
quý II – 1998, ngân hàng nhà nước đã không áp dụng công cụ này như một công
cụ thường xuyên để điều hành chính sách tiền tệ.
4. Công cụ dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại, mà không
được dùng để cho vay hoặc đầu tư. Mức dự trữ này do Ngân hàng trung ương

quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng tại
các tổ chức tín dụng. Chế độ dự trữ bắt buộc ở các nước khác nhau, ở các thời kì
khác nhau thì có thể khác nhau. Song nhìn chung, dự trữ bắt buộc đều mang tính
pháp luật, được gửi ở Ngân hàng trung ương và không được hưởng lãi. Ngân
hàng trung ương sử dụng dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền cung ứng
trên hai phương diện:
Thứ nhất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các
ngân hàng thương mại. Theo thuyết tạo tiền, từ một lượng tiền dự trữ ban đầu,
hệ thống ngân hàng thương mại có thể tạo ra một lượng tiền gửi lớn gấp nhiều
lần, với công thức tổng quát:
Tiền gửi mới được tạo ra = tiền dự trữ ban đầu x 1/ tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Trong đó 1/ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là hệ số nhân tiền với hai giả thiết
10


+ Các ngân hàng thương mại không có tiền dự trữ dư thừa so với tỷ lệ dự
trữ bắt buộc mà Ngân hàng trung ương yêu cầu.
+ Các khoản tiền gửi do các ngân hàng thương mại tạo ra đều được giữ lại
trong hệ thống ngân hàng.
Do vậy, nếu Ngân hàng trung ương quyết định tăng hoặc giảm tỷ lệ dụ trữ
bắt buộc sẽ làm cho hệ số tạo tiền thu hẹp hoặc tăng lên. Ví dụ, nếu tỉ lệ dự trữ
bắt buộc là 10% thì với một lượng tiền dự trữ ban đầu, hệ thống ngân hàng
thương mại tạo ra một lượng tiền gửi gấp 10 lần. Tương tự như vậy, nếu tỷ lệ dự
trữ bắt buộc tăng lên 20% thì lượng tiền gửi mới do hệ thống ngân hàng thương
mại tạo ra tăng lên 5 lần, nếu dự trữ bắt buộc giảm xuống 5% thì lượng tiền mới
do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra tăng 20 lần
Thứ hai, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống
ngân hàng thương mại. Như đã nói ở trên, tiền dự trữ bắt buộc đều phải mở tài
khoản và gửi ở Ngân hàng trung ương và không được hưởng lãi suất, cho dù các
ngân hàng thương mại vẫn phải trả lợi tức cho các khoản tiền gửi ở ngân hàng

của mình. Vì vậy, khi mức dự trữ tăng lên, đòi hỏi các ngân hàng thương mại
phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay đắt hơn, khả
năng cho vay của các ngân hàng thương mại giảm xuống và theo đó lượng tiền
cung ứng cũng giảm xuống. Ngược lại, khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm xuống, các
ngân hàng thương mại có cơ hội giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá
các khoản vay rẻ hơn, tăng khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại và
theo đó lượng tiền cung ứng tăng lên.
Công cụ dự trữ bắt buộc được không ngừng đổi mới và hoàn thiện từ
6/1992, và là công cụ tiền tệ chủ yếu trong điền hành CSTT trong thời gian qua
nhất là từ năm 1999 đến nay, công cụ này đã đóng vai trò tương đối quan trọng
để điều tiết thị trường tiền tệ. Từ năm 1992, việc duy trì DTBB được tính theo
cơ sở hàng ngày và được duy trì trên 1 tài khoản riêng. Đến tháng 10/1995, tiền
DTBB được duy trì trên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của Hội Sở chính
TCTD tại NHNN. Điều này đã giúp cho các TCTD sử dụng vốn linh hoạt hơn.
11


Từ tháng 12/1997 đến nay, tiền DTBB được tính trên cơ sở bình quân, phù hợp
với thông lệ quốc tế. Đến tháng 3/1999, tỷ lệ DTBB được quy định phù hợp với
tính chất hoạt động của từng loại hình TCTD và từng loại tiền gửi. Mới đây,
NHNN đã có quy định cho phép tính tiền gửi tại các chi nhánh TCTD là tiền duy
trì DTBB nhằm tạo điều kiện cho các TCTD sử dụng vốn hiệu quả hơn. Có thể
nói, đến nay, công cụ DTBB đã được xây dựng theo hướng phù hợp với xu thế
chung của quốc tế khi sử dụng công cụ này. Tỷ lệ DTBB được điều chỉnh phù
hợp với diễn biến tiền tệ nhằm khai thác khả năng điều tiết của công cụ này..
Tháng 7/2001, để khắc phục tình trạng các TCTD gặp khó khăn về vốn khả
dụng VND, NHNN bắt đầu thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (SWAP) như
một công cụ CSTT.
Ngày nay, để đáp ứng yêu cầu hội nhập của nền kinh tế, định hướng chung
của Ngân hàng Nhà nước là từng bước chuyển điều hành từ công cụ tiền tệ trực

tiếp sang công cụ tiền tệ gián tiếp. Quá trình này gắn với quá trình tự do hóa lãi
suất, và điều hành linh hoạt tỷ giá. Đồng thời với việc không sử dụng công cụ
hạn mức tín dụng có tính điều hành và can thiệp trực tiếp từ năm 1994; thay vào
đó các công cụ tiền tệ điều hành gián tiếp khác như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn,
thị trường mở... ngày càng được củng cố và hoàn thiện.
5.

Nghiệp vụ thị trường mở

Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua và bán các
chứng khoán có giá mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc nhà nước, nhằm làm thay
đổi lượng tiền cung ứng. Sở dĩ Ngân hàng trung ương tiến hành đại bộ phận
nghiệp vụ thị trường tự do của mình với tín phiếu kho bạc nhà nước là vì thị
trường tín phiếu kho bạc có dung lượng lớn, rủi ro thấp, tính lỏng cao.
Ngân hàng trung ương mua bán chứng khoán trên thị trường sẽ làm thay
đổi cơ số tiền tệ (tiền đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng và tiền dự trữ
trong hệ thống ngân hàng ). Đó là nguồn gốc chính gây nên sự biến động trong
cung ứng tiền tệ.

12


+ Khi Ngân hàng trung ương mua chứng khoán, làm tăng cơ số tiền tệ, qua
đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
+ Khi Ngân hàng trung ương bán chứng khoán, thu hẹp cơ số tiền tệ, qua
đó giảm lượng cung ứng.
Thị trường mở là công cụ quan trọng nhất của Ngân hàng trung ương trong
việc điều tiết lượng tiền cung ứng bởi những ưu thế vốn có của nó
+ Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát được hoàn toàn lượng nghiệp vụ
thị trường tự do

+ Linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào, điều
chỉnh một lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ
+ Ngân hàng trung ương dễ dàng đảo ngược lại tình thế của mình
+ Thực hiênh nhanh chóng, ít tốn kém về mặt chi phí và thời gian,…
Ngày 12/7/2000, NHNN Việt Nam chính thức đưa công cụ nghiệp vụ thị
trường mở vào hoạt động, đây là một sự chuyển biến quan trọng trong điều hành

chính sách tiền tệ của NHNN, từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các
công cụ gián tiếp theo tín hiệu của thị trường, phù hợp với thông lệ Quốc tế. Qua
hơn 2 năm triển khai thực hiện, đến nay đã có 22 TCTD được cấp giấy chứng
nhận là thành viên nghiệp vụ thị trường mở trong đó có 4 NHTMQD, 10 NHTM cổ
phần, 1 ngân hàng liên doanh, 5 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1 công ty Tài
chính và quỹ tín dụng nhân dân Trung ương. Từ tháng 5/2002 nghiệp vụ thị trường
mở được đưa vào giao dịch hàng tuần, quy mô và doanh số ngày càng tăng, lãi

suất ngày càng linh hoạt. Trong các hình thức giao dịch của nghiệp vụ thị trường
mở thì việc NHNN mua các giấy tờ có giá là chủ yếu( NHNN bơm tiền ra);

chiếm tỷ lệ khoảng từ 71% lên trên 90%. Như vậy, đây chính là một “kênh”
quan trọng của NHNN nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam (SBV) cũng dự định tiến tới bỏ lãi suất chỉ đạo trong điều hành nghiệp
vụ thị trường mở. Việc này, theo SBV, nhằm nâng cao tính thị trường, đơn giản hoá các kỳ
hạn giao dịch; hoàn thiện phương pháp dự báo để nâng cao chất lượng dự báo vốn khả dụng.
Sở dĩ cần thực hiện các công việc trên là bởi SBV cho rằng nghiệp vụ thị trường mở của Việt
13


Nam còn những hạn chế, đó là sự thiếu tính linh hoạt. Ví như hoạt động thị trường mở

vẫn còn bất cập trong đặt thầu, xét thầu; các thủ tục về đăng ký, lưu ký giấy tờ

có giá, thủ tục về lập hợp đồng... và đôi khi vẫn phải áp dụng lãi suất chỉ đạo
trong các phiên giao dịch. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa lãi suất nghiệp vụ thị
trường mở cũng như các lãi suất của SBV nói chung với lãi suất thị trường còn
chưa thực sự gắn kết. Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở cũng vẫn còn bất cập
trong đặt thầu, xét thầu. Các thủ tục về đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá, thủ tục về
lập hợp đồng mua bán giấy tờ có giá, quy trình giao dịch qua mạng chưa thực sự
đơn giản hoá... Ngân hàng Nhà nước cũng cho rằng, hạn chế khác nữa của
nghiệp vụ thị trường mở còn do cơ sở hạ tầng thông tin, đường truyền chưa đáp
ứng được so với yêu cầu thực tế. Vì thế, thời gian giao dịch còn kéo dài, có lúc
bị tắc nghẽn.
Tuy nhiên, nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam còn mới và các yếu tố
tích cực vẫn được các thành viên trong Hội nghị đánh giá cao. Phó Thống đốc
Ngân hàng Trung ương - ông Nguyễn Đồng Tiến - cho biết, qua 5 năm thực
hiện, nghiệp vụ thị trường mở bước đầu đã phát huy vai trò điều tiết vốn khả
dụng của các tổ chức tín dụng. Khối lượng giao dịch nghiệp vụ thị trường mở
theo cả 2 chiều mua và bán giấy tờ có giá tăng mạnh qua các năm. Trong 6
tháng đầu năm 2005, SBV đã tổ chức 68 phiên giao dịch (cùng kỳ năm 2004 là
56 phiên) với khối lượng trúng thầu đạt 51.711 tỷ, tăng 171% so với cùng kỳ
năm trước. Mỗi phiên giao dịch thường có 5-7 thành viên đặt thầu, bao gồm cả ngân hàng
thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài.Tổng doanh số giao dịch năm 2004 gấp 3 lần năm 2003 và gấp 16 lần năm 2001; 6
tháng đầu năm 2005 doanh số giao dịch đã gần bằng 90% cả năm 2004. Khối lượng giao dịch
trong từng phiên cũng tăng bình quân từ 82 tỷ đồng/phiên (năm 2000) lên 725 tỷ đồng/phiên
trong 6 tháng đầu năm 2005, cá biệt có phiên lên tới 3.500 tỷ đồng/phiên (thời điểm giáp Tết).
Bên cạnh đó, tỷ trọng doanh số mua qua nghiệp vụ thị trường mở trong tổng doanh số hỗ trợ
vốn của NHNN qua các kênh (cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá, nghiệp vụ thị trường mở và
hoán đổi ngoại tệ) ngày càng tăng (từ khoảng 45% năm 2001 lên 75% năm 2003 và 80% từ
năm 2004 đến nay)... Đến cuối năm 2005, đã có 14 tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ thị
14



trường mở, bao gồm cả ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước, NHTM cổ phần, ngân
hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo đánh giá của SBV, nghiệp vụ thị
trường mở tiếp tục trở thành kênh chủ yếu để SBV bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ
lưu thông, góp phần quan trọng điều hoà vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại với số
lượng thành viên tham gia đặt thầu, số phiên và khối lượng giao dịch đều tăng hơn trước.Để
hỗ trợ nguồn vốn ngắn hạn cho các ngân hàng, bên cạnh nghiệp vụ thị trường mở, SBV đã
thực hiện tái cấp vốn cho các ngân hàng. Riêng nghiệp vụ chiết khấu 6 tháng đầu năm 2005,
các ngân hàng thương mại đã sử dụng khoảng 85% hạn mức chiết khấu được SBV phân bổ
.Trong thực tế, với sự cố gắng của NHNN mặc dù nghiệp vụ thị trường mở đã

hoạt động ổn định, và NHNN đã có những thành công bước đầu trong việc đưa
một công cụ mới vào điều hành chính sách tiền tệ, nhằn tác động tới vốn khả
dụng của các TCTD, nhưng với thực trạng quy mô thị trường nhỏ, nhiễu phiên
giao dịch của thị trường không có thành viên nào đăng ký giao dịch, thị trường
mở hầu như chỉ là sân riêng của các NHTMQD lớn còn các NHTM cổ phần vốn
ít, NH liên doanh, chi nhánh NH nước ngoài ít vốn nội tệ hầu như đứng ngoài,
điều này cho thấy việc vận hành nghiệp vụ thị trường mở chưa thông suốt, lãi suất
trên thị trường mở ít có tác động đến lãi suất trên thị trường. Do đó cần phải có
giải pháp điều chỉnh hoạt động thị trường mở, phát triển thị trường này để trong
thời gian tới nó sẽ thực sự trở thành công cụ điều hành chính sách tiền tệ.
Tóm lại, chính sách tiền tệ với những đổi mới, hoàn thiện các công cụ
của nó đã tác động tích cực tới quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam trong những năm qua. Chính sách tiền tệ đã duy trì sự ổn định và
tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, vượt qua sự ảnh hưởng tiêu cực của
những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, tạo cơ sở
vững chắc cho Việt Nam mở cửa và hội nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực
và thế giới an toàn và hiệu quả.
II. MỘT SỐ MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC ÁP DỤNG LÝ
LUẬN TIỀN TỆ VÀO VIỆT NAM


15


1. Mục tiêu (tài liệu)
a. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ
b. Tạo việc làm
c. Tăng trưởng kinh tế
d. Quan hệ giữa các mục tiêu
2. Một số giải pháp
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, từ này đến năm
2010, môi trường kinh tế vĩ mô trong nước sẽ có những thay đổi lớn, nhu cầu
vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế tăng lên rất nhanh chóng. Kèm theo là
những diễn biến về chính trị và kinh tế thế giới sẽ có những phức tạp và khó dự
đoán trước. Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt
Nam, trong đó có lĩnh vực về tiền tệ. Do vậy, việc phân tích mục tiêu hoạt động
tiền tệ và để từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục là hết sức cần thiết. Để khắc
phục những hạn chế trong lĩnh vực tiền tệ, đồng thời đáp ứng cho nhu cầu hội nhập nền kinh
tế khu vực và thế giới, cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây:

Một là, Chính phủ cần điều hành linh hoạt, có hiệu quả các công cụ CSTT
theo nguyên tắc thị trường như tái cấp vốn, chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở,
dự trữ bắt buộc (DTBB) để khuyến khích các TCTD tại các chi nhánh NHNN là
tiền DTBB; điều chỉnh tỷ lệ DTBB phù hợp với diễn biến tiền tệ và không ảnh
hưởng lớn tới chi phí hoạt động của TCTD.Xây dựng và hoàn thiện cơ chế điều
tiết lãi suất của NHNN theo nguyên tắc thị trường nhằm tác động gián tiếp, có
hiệu quả vào lãi suất của thị trường tiền tệ - tín dụng nói chung. NHNN điều tiết
lãi suất thị trường thông qua lãi suất định hướng của mình, qua đó sẽ hạn chế
cạnh tranh lãi suất huy động vốn như hiện nay và buộc các NHTM tăng cường
khả năng huy động vốn bằng cách mở rộng các tiện ích ngân hàng. Cơ chế điều

hành lãi suất này được thiết kế như sau:Tạo lập khuôn khổ lãi suất điều hành của
NHNN nhằm định hướng cho sự vận động của lãi suất thị trường liên ngân
hàng. Trước mắt xác định lãi suất tái cấp vốn là lãi suất "trần" của thị trường, lãi

16


suất tái chiết khấu là lãi suất "sàn" gắn với việc phân bổ hạn mức chiết khấu cho
các NHTM. Lãi suất thị trường mở sẽ là lãi suất ngắn hạn định hướng cho lãi
suất trên thị trường liên ngân hàng.Lãi suất trái phiếu (tín phiếu) kho bạc cần
được tự do, hình thành trên quan hệ cung cầu (hiện nay lãi suất trong các phiên
đấu thầu tín phiếu kho bạc là lãi suất do Bộ Tài chính chỉ đạo) để lãi suất trái
phiếu (tín phiếu) kho bạc thực sự là lãi suất đầu tư thấp nhất của các NHTM (lãi
suất cho vay có độ rủi ro bằng 0). Nhờ đó, đường cong lãi suất chuẩn trên thị
trường vốn được hình thành để các NHTM xác định được lãi suất huy động dài
hạn ở mức hợp lý; khuyến khích người dân và NHTM đầu tư trái phiếu (tín
phiếu) kho bạc.Từng bước mở rộng biên độ tỷ giá hối đoái nhằm điều hành tỷ
giá linh hoạt trong ngắn hạn, đồng thời giữ tương đối ổn định tỷ giá danh nghĩa
trong dài hạn và phù hợp với tỷ giá thực. Mặt khác, để hạn chế sự phụ thuộc quá
mức của VND vào đồng USD, cần xây dựng cơ chế tỷ giá tính theo rổ tiền tệ
gắn liền với các đối tác thương mại lớn của VN. Điều tiết lãi suất VND và lãi
suất ngoại tệ cần được tính toán trong mối quan hệ hài hoà với tỷ giá để đảm bảo
lợi tức thu được từ đầu tư vào VND hay ngoại tệ tương đương nhau.
Hai là, Chính phủ cần phải kiên quyết không chỉ đạo các ngân hàng thương mại khoanh
nợ, giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ và dùng quỹ dự phòng rủi ro của các ngân hàng thương mại
để bù đắp cho vấn đề này. Đối với các doanh nghiệp thua lỗ kéo dài cần phải giải quyết theo
luật định. Đồng thời Chính phủ cần phải chỉ đạo kiên quyết đẩy nhanh tốc độ sắp xếp các
doanh nghiệp nhà nước hơn nữa, cho phép thực hiện một số giải pháp linh hoạt trong định giá
doanh nghiệp, trong xử lý nợ của doanh nghiệp khi tiên hành cổ phần hoá. Với các doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu lớn, nên tính đến các công cụ

phòng ngừa rủi ro như hoán đổi tiền tệ và hoán đổi lãi suất... Đồng thời sớm tham gia các hiệp
hội ngành hàng trên thế giới để có thể được cung cấp thông tin và nắm bắt kịp thời về diễn
biến cung cầu, giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
Ba là, cần phải tạo hành lang pháp lý cho sự tham gia của các tổ chức tài chính trung
gian phi ngân hàng trên thị trường mở và đẩy mạnh sự tham gia của các tổ chức này trên thị
trường tài chính nói chung. Mặt khác, cần phải tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán hoạt
động thực sự hiệu quả, là kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ yếu cho đầu tư phát triển

17


kinh tế, giảm bớt sức ép về cung ứng vốn đối với hệ thống ngân hàng thương mại như hiện
nay. Mặt khác, Bộ Tài chính cần đa dạng các kỳ hạn của tín phiếu kho bạc nhà nước thay vì
chỉ có một loại kỳ hạn 1 năm như hiện nay. Có như vậy, việc phát hành tín phiếu kho bạc mới
có thể thu được kết quả như mong muốn và khi đó, hàng hoá cho thị trường mở nói riêng, thị
trường tiền tệ nói chung sẽ phong phú hơn.
Bốn là, cần nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam,
có như vậy mới đủ sức bước vào “sân chơi” chung khi hội nhập. Để làm được điều này, theo
chúng tôi cần phải thực hiện quyết liệt hơn nữa đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương
mại của Chính phủ, cụ thể: Tăng vốn điều lệ cho các ngân hàngtm; Nâng cao chất lượng tài
sản có và tăng khả năng an toàn trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là đối với các ngân hàng
thương mại nhà nước; Tăng cường hiện đại hoá, công nghệ ngân hàng; Nâng cao khả năng
quản lý, điều hành ngân hàng...
Năm là, cần phải nâng cao vị thế của Ngân hàng Nhà nước, tăng tính độc lập của Ngân
hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ đối với Chính phủ, mặc dầu vẫn đề Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam thuộc Chính phủ. Có như vậy thì các quyết định của ngân hàng
Trung ương mới khách quan và được thực hiện một cách kịp thời. Đồng thời cần phải đẩy
mạnh tiến trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tăng cường hiệu lực thanh tra, giám sát của cơ
quan thanh tra ngân hàng Trung ương. Ngân hàng Nhà nước nên tổ chức tổng kết hơn 10 năm
điều hành thị trường liên ngân hàng để từ đó rút ra được những thành công, hạn chế còn tồn

tại cũng như nguyên nhân của những hạn chế đó để tìm ra các giải pháp thích hợp nhằm khắc
phục, tiếp tục phát triển thị trường này trở thành thị trường chủ đạo trong thị trường tiền tệ ở
Việt Nam hiện nay cũng như thời gian tới.
Sáu là, Ngân hàng Nhà nước cần xem lại hệ thống công cụ của chính sách tiền tệ, xác
định công cụ nào là chủ yếu, công cụ nào là bổ trợ và sự phối hợp giữa các công cụ đó trong
vận hành. Ngân hàng cần xác định rõ 2 công cụ chủ yếu là: công cụ nghiệp vụ thị trường mở,
công cụ dự trữ bắt buộc. Các công cụ còn lại là các công cụ bổ trợ, bao gồm: công cụ lãi suất,
công cụ tỷ giá hối đoái, công cụ hạn mức tín dụng. Riêng công cụ Hoán đổi ngoại tệ (SWAP),
được Ngân hàng Nhà nước áp dụng năm 2001 để khắc phục tình trạng thiếu vốn VND của các
tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, không nên coi SWAP là công cụ điều hành thường xuyên của
chính sách tiền tệ, mà chỉ nên coi nó là công cụ phòng ngừa rủi ro. Khi đặc biệt cần thiết mới
sử dụng nó với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ. Bởi lẽ, nếu chúng ta sử dụng SWAP
thường xuyên thì các tổ chức tín dụng sẽ không cần phải tăng cường dự trữ giấy tờ có giá, và
cũng sẽ không muốn tham gia thị trường mở. Điều đó có nghĩa là, SWAP đã “góp phần” triệt
18


tiêu công cụ nghiệp vụ thị trường mở, một công cụ chủ yếu trong điều hành chính sách tiền tệ.
Bảy là, công tác dự báo chính sách tiền tệ phải đặc biệt coi trọng thống kê các tài khoản
kinh tế vĩ mô (Thống kê tiền tệ, thống kê cán cân thanh toán, thống kê hệ thống tài khoản
quốc gia, thống kê tài chính Chính phủ). Có như vậy, các nhà phân tích và hoạch định chính
sách tiền tệ mới có thể nắm bắt được một cách tổng thể các thông tin cần thiết để xây dựng
một chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp với những biến động của nền kinh tế. Chính phủ cần
chỉ đạo Tổng cục Thống kê công bố một cách chính thức chỉ số lạm phát trên cơ sở thống
nhất phương pháp tính chỉ số lạm phát theo thông lệ quốc tế với các cơ quan liên quan. Có
như vậy mới đảm bảo cho sự điều hành chính sách tiền tệ được khách quan, không chịu sức
ép của dư luận.
Tám là, tạo hành lang pháp lý cho sự tham gia của các tổ chức tài chính trung gian phi
ngân hàng trên thị trường mở và đẩy mạnh sự tham gia của các tổ chức này trên thị trường mở
và đẩy mạnh sự tham gia của các tổ chức này trên thị trường tài chính nói chung. Mặt khác

cần phải tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán hoạt động thực sự hiệu quả, là kênh huy
động vốn trung và dài hạn chủ yếu cho đầu tư phát triển kinh tế, giảm bớt sức ép về cung ứng
vốn đối với hệ thống ngân hàng thương mại như hiện nay.

Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập với thế giới, là thành viên thứ
150 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới - W.T.O,đánh giấu một mốc quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Vì vậy việc đổi mới chính sách tiền
tệ nói riêng, chính sách kinh tế vĩ mô nói chung có một vai trò hết sức quan
trọng, thể hiện rõ sự quản lý nhà nước về kinh tế, góp phần làm nên thắng lợi
của công cuộc đổi mới kinh tế nước nhà

19


KẾT LUẬN
Như vậy, theo phân tích ở trên, những lý luận về tiên tệ, đặc biệt là chính
sách tiền tệ và các công cụ của nó có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở nước ta, trong
quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì việc áp dụng những lý luận
về tiền tệ luôn đòi hỏi sự chính xác, phù hợp. Trong những năm gần đây, các
công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ đã bộc lộ rõ những hạn chế trong khi các
công cụ gián tiếp chưa thực sự phát huy hết hiệu quả. Từ đó đòi hỏi phải có
những định hướng và giải pháp đúng đắn trong việc hoàn thiện các công cụ đó.
Để có được điều này, bên cạnh sự định hướng đúng đắn của Đảng cần phải có
phát triển đồng bộ về năng lức của Ngân hàng Nhà nước và hệ thống ngân hàng
thương mại cùng các sự phối hợp đồng bộ khác.
Hy vọng những nội dung trên đây sẽ góp phần hoàn thiện và thúc đẩy việc
sử dụng những lý luận về tiền tệ, đem lại hiệu quả tích cực cho việc phát triển và
tăng trưởng của nền kinh tế. Song trong quá trình nghiên cứu, với khả năng có
hạn, đề tài chỉ dừng ở mức nội dung cơ bản , không tránh khỏi những thiếu sót,

rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII,
VIII, IX và X, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia
GS.TS. Chu Văn Cấp, GS.TS. Phạm Quang Phan, PGS.TS. Trần Bình
Trọng, 2006, Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, Nhà xuất bản Chính Trị
Quốc Gia
PGS.TS. Nguyễn Văn Hảo, PGS.TS Nguyễn Đình Kháng, 2003, Giáo trình
kinh tế chính trị Mác – Lênin, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia
(Bổ sung vài tài liệu của trường TMại vào đây)
TS. Nguyễn Hữu Tài, 2002, Giáo trình Lý thuyết tài chính - tiền tệ, Nhà
xuất bản thống kê
N.Gregrory Mankiw, 2000, Kinh tế học Vĩ Mô, Nhà xuất bản Thống Kê

Các trang web:
www.dangcongsan.vn
www.kinhtehoc.com
www.vietnamnet.vn
www.dantri.com.vn
www.moi.gov.vn
www.mof.gov.vn
www.mot.gov.vn

21




×