Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng vào Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.96 KB, 42 trang )

lời mở đầu
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ xuất phát thấp: nền kinh tế
chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc, còn ở trong tình trạng phổ biến của
sản xuất giản đơn, lực lượng sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp,
quan hệ sản xuất yếu kém, cản trở cho sự phát triển và tăng trưởng; kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần đang trong quá trình hình thành; thu nhập quốc
dân bình quân đầu người thấp, là một trong số các quốc gia nghèo và chậm
phát triển.
Vì vậy trong thời kỳ quá độ cần phải động viên được mọi nguồn lực
tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế
thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt
khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hóa phát triển kể cả trong
điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp.
Để sử dụng nguồn lực tổng hợp này một cách tối ưu chúng ta phải
sử dụng các đòn bẩy kinh tế như các quy luật kinh tế hoạt động trong nền
kinh tế thị trường.
Quy luật giá cả là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng hoá, là
một đòn bẩy quan trọng để phát triển và củng cố nền sản xuất xã hội chủ
nghĩa. Việc sử dụng quy luật giá cả để thúc đẩy nền sản xuất xã hội chủ
nghĩa tiến tới, có một tầm quan trọng lớn lao.
Từ nhận thức về vai trò của quy luật giá cả, chúng ta thực hiện việc
nghiên cứu quy luật giá cả và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta để vận dụng có hiệu qủa cho sự phát triển kinh tế, hạn chế những
khuyết tật thị trường.
Với đề tài: "Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng vào Việt Nam hiện
nay"
Do trình độ có hạn, đề tài này không tránh khỏi những hạn chế nhất
định.Em mong thầy cô giáo xem xét giúp để bài viết của em hoàn chỉnh
hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã giúp em hoàn thành đề tài


này.

chương 1
những lý luận chung về quy luật giá cả và vai trò của quy luật giá cả
trong nền kinh tế hàng hoá
1.1 Quy luật giá cả -quy luật kinh tế căn bản của nền sản xuất hàng
hoá.
1.1.1 Tính lịch sử của quy luật giá cả
Quy luật giá cả như đa số các quy luật kinh tế khác đều có tính lịch
sử. Nó chỉ xuất hiện, tồn tại dựa trên những cơ sở kinh tế xác định. Sự tồn
tại và hoạt động của nó không lâu dài như các quy luật tự nhiên.Đây là một
đặc điểm hoạt động của quy luật giá cả. Chúng ta nghiên cứu về tính lịch
sử để thấy được sự khác biệt giữa quy luật giá cả và các quy luật tự nhiên.
“Quy luật giá cả là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi
hàng hoá. Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn
quy luật giá cả.”
<Trường đại học kinh tế quốc dân,bộ môn kinh tế chính trị học, kinh tế
chính trị mác-lênin, nhà xuất bản giáo dục, 1997>
Từ nhận định trên ta thấy rằng cơ sở kinh tế xác định cho sự xuất
hiện và tồn tại của quy luật giá cả là sản xuất hàng hoá. Vì vậy thông qua
những điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá, chúng ta hiểu rõ
được tính lịch sử của quy luật giá cả.
Sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm
được sản xuất ra để bán trên thị trường. Cơ sở kinh tế xã hội cho sự ra đời
của sản xuất hàng hoá là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt giữa
2
2
2
người sản xuất này và người sản xuất khác do các quan hệ sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất quy định.

Phân công lao động xã hội là việc chuyên môn hoá người sản xuất vào
các nghành nghề khác nhau của xã hội, mỗi một người chỉ sản xuất một
hay một vsì sản phẩm nhất định. song nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của
mỗi người cần nhiều loại sản phẩm. Vì vậy đòi hỏi họ phải có mối liên hệ
trao đổi sản phẩm cho nhau,phụ thuộc vào nhau.
Quá trình trao đổi này tuân theo một quy luật nhất định, đó là quy luật
giá cả.
Ví dụ: trong điều kiện sản xuất tự cung tự cấp, một người vừa
trồng dâu,nuôi tằm vừa dệt vải. Khi có sự phân công lao động xã hội thì
người nông dân trồng dâu, nuôi tằm,người thợ dệt dệt vải.Người thợ dệt có
nhu cầu về tơ sợi, người nông dân có nhu cầu về may mặc.Điều đó làm cho
người nông dân và người thợ dệt có mối liên hệ trao đổi với nhau.Sự trao
đổi này dựa trên một quy ước.Một quy ước có cơ sở khoa học là tuân theo
những yêu cầu của quy luật giá rrị.
Quy luật giá cả còn xuất hiện trên cơ sở của sự tách biệt về kinh tế
giữa những người sản xuất do các quan hệ sở hữu khác nhau quy định. Mỗi
người chủ sở hữu tư liệu sản xuất có quyền quyết định việc sử dụng tư liệu
sản xuất và những sản phẩm họ tạo ra. Như vậy quan hệ sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất đã tách người sản xuất ra riêng rẽ, khác biệt nhau. Trong
điều kiện đó người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người khác
thì phải thông qua trao đổi sản phẩm lao động cho nhau dưới hình thức
mua- bán. Khi đó quy luật giá cả xuất hiện là một cơ sở khoa học để quá
trình trao đổi được diễn ra.
Các hoạt động kinh tế diễn ra đòi hỏi phải có một cơ sở khoa học.
Sự xuất hiện của quy luật giá cả mang tính khách quan là phù hợp với lý
thuyết kinh tế. Cho đến nay nền kinh tế hàng hoá vẫn tỗn tại và phát triển,
3
3
3
quy luật giá cả vẫn tồn tại và phát triển cùng với cơ sở kinh tế xác định của

nó.
1.1.2 Quy luật giá cả và tính khách quan của nó
“Quy luật kinh tế là những mối quan hệ nhân quả, tất yếu bản chất và
thường xuyên lặp đi lặp lại trong những hiện tượng và quá trình kinh tế
khách quan.”
<trường đại học kinh tế quốc dân, bộ môn kinh tế chính trị học, kinh tế
chính trị mác- lênin tập 1, nhà xuất bản giáo dục, năm 1997.>
Vì vậy quy luật kinh tế là một quy luật có tính khách quan.
Quy luật giá cả là một quy luật kinh tế chung. Nó hoạt động trong
tất cả các phương thức sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do đó nó có tính
khách quan. Quy luật giá cả xuất hiện, tồn tại, phát huy tác dụng và mất đi
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Người ta không thể
tự ý tạo ra quy luật giá cả đồng thời cũng không thể xoá bỏ nó. Tính khách
quan của quy luật giá cả là một mặt quan trọng cần chú ý trong các hoạt
động kinh tế. Có như vậy mới tránh được tình trạng chủ quan duy ý chí,
nâng cao được hiệu quả kinh tế xã hội của những hoạt động kinh tế.Từ đó
mới tạo được phương pháp luận khoa học để tiếp tục phát hiện thêm những
quy luật mới, cũng như những hình thức mới trong sự hoạt động của các
quy luật kinh tế tránh sự phủ định khả năng của mọi dự kiến.
Để vận dụng tốt quy luật giá cả trong hoạt động kinh tế, chúng ta
cần phải nhận thức rõ về những đặc điểm hoạt động của quy luật giá cả
trong nền kinh tế hàng hoá.
1.1.3 Đặc điểm hoạt động của quy luật giá cả
Là một quy luật kinh tế chung, quy luật giá cả cũng như các quy
luật kinh tế khác, nó có những đặc điểm sau:
4
4
4
Một là quy luật giá cả hoạt động thông qua hoạt động kinh tế của
con người.Động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động kinh tế của con người là

lợi ích kinh tế. Chúng vốn không giống nhau ở mỗi người, mỗi tập đoàn xã
hội, vì vậy kết quả tác động của quy luật giá cả chỉ mang tính xu hướng, có
thể kết quả không hoàn toàn giống nhau. Cũng vì vậy khi vận dụng quy
luật giá cả, điều cốt yếu là thực hiện và kết hợp tốt lợi ích của các chủ thể
tham gia các hoạt động kinh tế. Sự vận dụng quy luật giá cả của con người
hoạt động vì lợi ích kinh tế là một phương tiện cho chúng ta biết được sự
hoạt động của quy luật giá cả.
Hai là quy luật giá cả hoạt động thông qua sự vận động của giá cả
trên thị trường. Đặc điểm này đòi hỏi việc vận dụng quy luật giá cả, điều
cốt yếu là phải biết lựa chọn, tổ chức thực hiện tốt phạm trù giá cả. Giá cả
là sự biểu hiện bằng tiền của giá cả. Giá cả phụ thuộc vào giá cả, vì giá cả
là cơ sở của giá cả. Nhưng do tác động của quy luật cung cầu,tình trạng độc
quyền trên thị trường và các nhân tố khác làm cho giá cả hàng hoá trên thị
trường có thể tách rời giá cả, lên xuống xung quanh giá cả của nó. C.Mác
gọi đó là “vẻ đẹp” của quy luật giá cả. Trong ‘vẻ đẹp” này, giá cả hàng hoá
là trục, giá cả của hàng hoá trên thị trường lên xuống quanh trục đó. Đối
với mỗi hàng hoá riêng biệt, giá cả của nó có thể cao hơn, thấp hơn hoặc
phù hợp với giá cả. Nhưng cuối cùng, tổng giá cả phù hợp với giá cả của
chúng. Chính nhờ phương thức vận động như vậy của giá cả mà quy luật
giá cả phát huy tác dụng.
Ví dụ khi sản xuất ra một cái rìu theo định nghĩa là lượng tiền đúng
bằng hao phí lao động xã hội cần thiết của người thợ thủ công. Nhưng do
tác dụng của quan hệ cung cầu làm cho lượng tiền để mua được cái rìu lớn
hơn( cầu lớn hơn cung) hoặc nhỏ hơn( cầu nhỏ hơn cung) giá cả của nó.
Tuy nhiên vai trò quyết định là quy luật giá cả, còn quy luật cung cầu chỉ
mang tính phụ trợ cho sự hoạt động của quy luật giá cả vì Mác chứng minh
5
5
5
rằng ngay cả khi cung cầu cân bằng nhau giá vẫn biến động. “Mác khẳng

định: dù giá cả hàng hoá được điều tiết như thế nào thì quy luật giá cả vẫn
chi phối sự vận động của chúng”
<Tư bản quyển III, tập 1, nhà xuất bản sự thật, hà nội 1978, trang 309>
Ba là tính lịch sử của quy luật giá cả.Đặc điểm này nhấn mạnh đến
cơ sở xác định của sự xuất hiện và tồn tại của quy luật giá cả từ đó đòi hỏi
việc vận dụng quy luật giá cả phải tính đến điều kiện lịch sử cụ thể của
những cơ sở tồn tại của nó để có những hình thức và biện pháp phù hợp.Cơ
chế thị trường tự điều tiết là cơ chế vận động của hệ thống quy luật kinh tế
trước hết là quy luật giá cả. quy luật giá cả là “thống soái” chi phối cơ chế
thị trường. Vận dụng quy luật giá cả như một đòn bẩy cho sự phát triển của
kinh tế thị trường là một chính sách đúng đắn.
1.1.4 Những yêu cầu của quy luật giá cả trong nền kinh tế hàng hoá
Nói đến hàng hoá là nói đến hai đặc tính của nó là giá cả và giá cả
sử dụng. Hàng hoá được sản xuất ra để bán trên thị trường nên giá cả hàng
hoá là đặc tính quan trọng nhất. Trong nền kinh tế hàng hoá muốn thúc đẩy
sự phát triển của nó thì cần phải tuân theo những yêu cầu của quy luật giá
cả trong sản xuất và trong lưu thông.
Quy luật giá cả quyđịnh mặt chất và sự vận động về mặt lượng của
giá cả hàng hoá. Theo quy luật này:
“sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá cả hàng hoá hay
thời gian lao động xã hội cần thiết”.
<Đại học kinh tế quốc dân, bộ môn kinh tế chính trị học, kinh tế chính
trị mác lênin tập 1, nhà xuất bản giáo dục, năm 1997 >
Điều đó có nghĩa là:
Trong sản xuất: quy luật giá cả yêu cầu hao phí lao động xã hội cá biệt
để sản xuất ra hàng hoá phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết.
6
6
6
Ví dụ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một kg thóc

là 2000 đồng. Người nông dân muốn bán được với thu lợi thì hao phí lao
động cá biệt để sản xuất ra một kg thóc phải nhỏ hơn 2000 đồng.
Thực hiện yêu cầu này, các chủ thể sản xuất hàng hoá phải định mức
hao phí lao động, vật tư máy móc… sao cho hao phí lao động của mình phù
hợp hoặc nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết. Như vậy nghành sản
xuất nào áp dụng kinh tế mới trước nhất thì hao phí lao động cá biệt sẽ nhỏ
hơn hao phí xã hội cần thiết, nhưng họ bán hàng phù hợp với hao phí lao
động xã hội cần thiết thì sẽ phát tài.
Trong lưu thông: quy luật giá cả yêu cầu trao đổi ngang giá.
Ví dụ một cái rìu đổi được 20kg thóc tức là hao phí lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra một cái rìu phải phù hợp với hao phí lao động xã hội
cần thiết để sản xuất ra 20kg thóc. Quy luật giá cả đòi hỏi phải căn cứ vào
giá cả xã hội để tiến hành trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Người bán
đảm bảo: đúng số lượng, chất lượng, giá cả sử dụng, người mua phải trả
đúng giá cả hàng hoá đảm bảo sự bình đẳng,công bằng không vi phạm lợi
ích của nhau giữa người sản xuất và tiêu dùng hàng hoá.
Muốn vận dụng tốt quy luật giá cả trong việc phát triển kinh tế hàng
hoá thì ngoài những nghiên cứu về sự xuất hiện, tồn tại cùng với những đặc
điểm, tính chất của quy luật giá cả-quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá
chúng ta còn phải nghiên xem xét đến vai trò của quy luật giả trị trong cơ
sở kinh tế xác định của nó.
1.2 Vai trò của quy luật giá cả trong nền kinh tế hàng hoá
Quy luật giá cả là quy luật kinh tế chung, nó hoạt động trong tất cả
các phương thức sản xuất và lưu thông hàng hoá.Với ba tác dụng cơ bản,
quy luật giá cả có vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá.
Một là quy luật giá cả có tác dụng tự phát điều tiết sản xuất và lưu
thông hàng hoá. Trong sản xuất, quy luật giá cả điều tiết việc phân phối tư
7
7
7

liệu sản xuất và sức lao động giữa các nghành sản xuất thông qua sự biến
động của giá cả hàng hoá.
Tác dụng này của quy luật giá cả do nguyên nhân sự biến động của giá
cả hàng hoá xung quanh giá cả của hàng hoá. Do quan hệ cung cầu, giá cả
hàng hóa trên thị trường lên xuống xung quanh giá cả của nó. Chỉ rõ những
sự mất cân đối trong việc phân phối lao động xã hội đối với các nghành sản
xuất. Nếu ngành nào đó cung không đáp ứng cầu, giá cả hàng hoá lên cao
thì người sản xuất sẽ đổ xô vào nghành đó. Ngược lại, khi nghành nào đó
thu hút quá nhiều lao động xã hội, cung vượt quá cầu, giá cả hàng hoá hạ
xuống, thì người sản xuất sẽ phải chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao
động ra khỏi nghành này để đầu tư vào nơi có giá cả hàng hoá cao.Nhờ vậy
mà tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối qua lại một cách tự
phát vào các nghành sản xuất khác nhau. Sự vận động của giá cả là do quy
luật giá cả chi phối. Vai trò quyết định là quy luật giá cả, còn quy luật cung
cầu chỉ có tính chất phụ trợ cho quy luật giá cả hoạt động. Quy luật cung
cầu giải thích sự biến dạng của quy luật giá cả trong đời thường.
Trong lĩnh vực lưu thông, quy luật giá cả có tác dụng điều tiết
nguồn hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. Tác dụng này của quy luật tạo
nên sự cân bằng về hàng hoá trên thị trường.
Hai là quy luật giá cả tự phát kích thích sản xuất phát triển. Vì lao
động xã hội cần thiết là cơ sở của giá cả hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng
hoá, người sản xuất nào mà hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao
động xã hội cần thiết thì thu lợi, còn người nào có hao phí lao động cá biệt
lớn hơn hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết
thì sẽ bị thiệt, vì không thu về được toàn bộ lao động đã hao phí. Muốn
đứng vững và thắng lợi trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất đều phải luôn
tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt thông qua cải
tiến kỹ thuật, tăng suất lao động. Vì thế, trong nền kinh tế hàng hoá, lực
8
8

8
lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn nhiều so với trong
nền kinh tế tự cấp, tự túc.
Tuy nhiên tác dụng này còn có khuyết tật là do chạy theo sản xuất
những hàng hóa có giá cả cao, cho nên tạo ra tình trạng có một loại hàng
hoá nào đó được sản xuất ra quá nhiều, dẫn đến hiện tượng dưa thừa, làm
lãng phí lao động xã hội. Mặt khác nhiều người sản xuất chỉ chú ý đến lợi
nhuận nên hàng hoá có chất lượng kém.
Ba là thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá người sản xuất
thành kẻ giàu, người nghèo. Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá cả, lao
động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã
hội cần thiết. Những người làm tốt làm giỏi có hao phí lao động cá biệt
thấp hơn hao phí lao động cần thiết, nhờ đó phát tài, làm giàu, mua sắm
thêm tư liệu sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng doanh nghiệp của
mình. Đây cũng chính là tác động kích thích lực lượng sản xuất phát triển.
Những người làm tốt có thể là những người biết ứng dụng những thành tựu
mới của khoa học vào sản xuất để giảm hao phí lao động xã hội cá biệt.
Bên cạnh đó, những người làm ăn kém cỏi không gặp may, không biết áp
dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hao phí lao động cá biệt cao hơn hao
phí lao động xã hội cần thiết, nên họ bị lỗ vốn, thậm chí đi đến phá sản. Ví
dụ hai công ty dệt may sử dụng dây truyền sản xuất khác nhau. Công ty nào
sử dụng dây dây truyền công nghệ mới thì hao phí lao động cá biệt sẽ nhỏ
hơn của dây truyền cũ, sản phẩm làm ra có giá thành rẻ hơn mà vẫn bán
đúng theo giá thị trường thì công ty đó có lãi. Như vậy quy luật giá cả bảo
đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất. tuy nhiên ngay trong quá trình
thực hiện sự bình tuyển người sản xuất, quy luật giá cả đã phân hoá người
sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo. Người giàu trở thành ông chủ, người
nghèo dần trở thành người làm thuê. Lịch sử phát triển của sản xuất hàng
hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần sinh ra quan hệ sản xuất tư
9

9
9
bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa kẻ giàu- người nghèo, quan hệ giữa chủ- thợ,
quan hệ giữa tư sản- vô sản là quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế. Sự đối
kháng đó tất yếu dẫn đến đấu tranh giữa người nghèo chống lại kẻ giàu, thợ
chốnglại chủ, vô sản chống lại tư sản. Ngay trong cùng lớp giàu hoặc cùng
lớp nghèo với nhau, cũng xảy ra cạnh tranh chèn ép, thôn tính lẫn nhau “cá
lớn nuốt cá bé”, gây thiệt hại lợi ích kinh tế của đối thủ một cách tàn nhẫn.
Đó cũng là một khuyết tật của nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường.
Từ những tác dụng của quy luật giá cả ta thấy được mặt trái của quy
luật này trong cạnh tranh, do đó cần phải xem xét biểu hiện của nó trong
cạnh tranh để có những giải pháp khắc phục khuyết tật.
1.3 Biểu hiện của quy luật giá cả trong cạnh tranh
Cạnh tranh là một hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người
sản xuất hàng hoá đựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nhằm giành
giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Cơ sở của
cạnh tranh là chế độ tư hữu.
Vì quy luật giá cả hoạt động thông qua hoạt động kinh tế của con
người nên trong cạnh tranh nó biểu hiện ở hoạt động cạnh tranh trong nội
bộ nghành và cạnh tranh giữa các nghành.
Cạnh tranh trong nội bộ nghành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp
trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra loại hàng hoá có lợi hơn để thu
được lợi nhuận siêu nghạch. Lợi nhuận siêu nghạch này có đặc điểm tạm
thời, không ổn định với từng nhà tư bản. Lợi nhuận siêu nghạch là phần
giá cả thặng dư thu được trội hơn so với giá cả thặng dư bình thường nhờ
giá cả cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá cả xã hội của hàng hoá. Như vậy
hoạt động kinh tế của các nhà tư bản trong cạnh tranh trong nội bộ nghành
mà thực hiện theo yêu cầu của quy luật giá cả thì sẽ thu được lợi nhuận siêu
nghạch. Biện pháp cạnh tranh của các nhà tư bản là thường xuyên cải tiến
kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản, nâng cao năng xuất lao động

10
10
10
nhằm làm cho giá cả cá biệt của hàng hoá xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn
giá cả xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Các nhà tư bản là những
nhà sản xuất giỏi vì đã vận dụng tốt quy luật giá cả trong
kinh doanh. Kết quả của cạnh tranh là hình thành nên giá cả xã hội
( giá cả thị trường) của từng loại hàng hoá. giá cả này theo C.Mác:
“Một mặt, phải coi giá cả thị trường là giá cả bình quân của những hàng
hoá được sản xuất ra trong một khu vực nào đó; mặt khác, lại phải coi giá
cả thị trường là giá cả cá biệt của những hàng hoá đã được sản xuất ra trong
những điều kiện trung bình của khu vực đó chiếm một khối lượng lớn trong
số những sản phẩm của khu vực này.”
<C.Mác, Tư bản, nhà suất bản sự thật, Hà nội, 1992, q III, t1, tr. 265-
266.>
Cạnh tranh giữa các nghành là sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản
trong nghành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Để đạt được mục đích các nhà tư bản sử dụng biện pháp tự do di chuyển tư
bản tức là phân phối tư bản vào các nghành sản xuất khác nhau. Kết quả
của cuộc cạnh tranh này là giá cả hàng hoá trở thành giá cả sản xuất đi kèm
với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Trong cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh giữa các nghành sự hoạt động
của quy luật giá cả thông qua sự vận động của giá cả lại có hình thức biểu
hiện khác. Đó là giá cả không xoay quanh giá cả hàng hoá nữa mà nó lại
xoay quanh giá cả sản xuất. Thực chất hoạt động của quy luật giá cả sản
xuất là sự biểu hiện của quy luật giá cả trong thời kỳ tự do cạnh tranh của
chủ nghĩa tư bản. Quy luật giá cả là quy luật “thông soái” chi phối cơ chế
thị trường và quy luật giá cả sản xuất chỉ là sự biểu hiện yêu cầu của quy
luật giá cả mà thôi.
Trung tâm của cơ chế thị trường là quy luật giá cả quyết định giá cả.

xoay quanh trung tâm đó có các quy luật kinh tế khác như công cụ, phương
11
11
11
tiện để thực hiện yêu cầu của quy luật giá cả. Do đó nó có sức mạnh tự điều
chỉnh, A.Smith gọi là cánh tay vô hình.
1.4 Biểu hiện của quy luật giá cả trong độc quyền
Quy luật giá cả là quy luật hoạt động trong các phương thức sản
xuất có sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy cần xem xét sự hoạt động
của quy luật giá cả trong giai đoạn độc quyền.
Quy luật giá cả vận động thông qua hoạt động của con người và sự
vận động của giá cả. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền tối đa hoá
lợi nhuận không phải chủ yếu do sử dụng các biện pháp kinh tế như cải tiến
kỹ thuật, phương pháp quản lý…mà chủ yếu là do địa vị, quyền lực thống
trị của độc quuyền tạo ra. Ngày nay, độc quyền vẫn là bản chất sâu xa của
chủ nghĩa tư bản, song tự do cạnh tranh vẫn tồn tại như một đặc điểm cơ
bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.Theo V.I.Lênin: Tổ chức độc quyền
không thủ tiêu cạnh tranh tự do là cái đã sinh ra nó: nó tồn tại ở trên sự
cạnh tranh tự do và cùng với cạnh tranh tự do, do đó mà gây ra một số mâu
thuẫn,va chạm và xung đột gay gắt. Bởi vậy trong các nước tư bản hiện
nay, khoa học phát vẫn có tác động phát triển nhanh. So với thời kỳ trước,
cạnh tranh đã mở ra môi trường rộng lớn cho sự tiến bộ khoa học- công
nghệ.
Giá cả độc quyền là hình thức biểu hiện của giá cả hàng hoá trong
giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nó bao gồm chi phí sản xuất cộng
với lợi nhuận độc quyền. Thông thường, khi bán hàng hoá thì giá cả cao
hơn giá cả hàng hoá, khi mua hàng hoá thì giá cả thấp hơn giá cả hàng hoá-
đó là cơ chế mua bán theo giá cả độc quyền. Nhờ vậy mà các tổ chức độc
quyền thu được lợi nhuận độc quyền. Giá cả thị trường độc quyền được
hình thành do sự kiểm soát được cung( hoặc cầu), nên nhà độc quyền quyết

định được giá cả. Họ có thể tăng giá bán hàng hoá dịch vụ bằng cách giảm
cung, tạo nên sự khan hiếm hàng hoá dịch vụ.
12
12
12
Trong giai đoạn độc quyền quy luật giá cả vẫn còn phát huy tác
dụng. Việc các tổ chức độc quyền mua bán theo giá cả độc quyền xét về
thực chất chỉ là sự biểu hiện mới, cao hơn, nó không làm giảm hiệu lực của
lý luận giá cả. Giá cả hàng hoá vẫn lên xuống xunh quanh giá cả của
chúng nhưng do ưu thế độc quyền. Doanh nghiệp độc quyền có thể quyết
định và kiểm soát giá cả, ít quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất
như đổi mới công nghệ sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã
chất lượng sản phẩm. Do vậy xét về phương diện xã hội, độc quyền là hiện
tượng kinh tế không hiệu quả, gây trở ngại cho việc phát triển sản xuất xã
hội và phương hại đến người tiêu dùng.
Việc nhận thức và vận dụng quy luật giá cả là cần thiết khách quan.
Nhưng muốn vận dụng tốt thì việc nhận thức không chỉ dừng ở nhận thức
cảm tính, kinh nghiệm mà phải có trình độ nhận thức lý tính. Vì vậy cần
phải nghiên cứu sự vận dụng quy luật giá cả trong nền kinh tế thị trường ở
một số nước để rút ra bài học kinh nghiệm cho nước ta.
1.5 Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc vận dụng quy luật giá cả
vào nền kinh tế thị trường
Trong bài “Châu á đang hồi phục?” của tác giả Anh Sa đăng trên
Thời Báo Kinh tế Sài gòn số 16-2002, có nhận định “Trung Quốc sẽ tiếp
tục là người khỏe trong khu vực”.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp, một số nước
muốn nền kinh tế phát triển nhanh hơn bằng cách sử dụng công cụ tỷ giá
hối đoái. Do đó hiện nhiều nước, đặc biệt là nhiều nước Châu á, lo ngại
Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ để khuyến khích xuất khẩu. Nếu
Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ, điều đó đồng nghĩa với việc hàng

hoá Trung Quốc sẽ rẻ hơn và tràn ngập thị trường. Nhưng Thống đốc Ngân
hàng Nhân dân Trung Quốc đã tuyên bố trên baó chí là Trung Quốc không
cần thiết phá giá đồng nhân dân tệ. Sự khẳng định như vậy là do Trung
13
13
13
Quốc có dự trữ một lượng ngoại tệ mạnh đứng thứ hai trên thế giới sau
Nhật Bản. Lượng dự trữ này luôn vượt nợ nước ngoài. Ngoài ra Trung
Quốc còn lựa chọn giải pháp khác là cắt giảm lãi xuất. Giải pháp này dựa
trên sự vận dụng quy luật giá cả vì lãi suất giảm sẽ khuyến khích đầu tư,
sản xuất hàng hoá sẽ sử dụng nhiều công nghệ mới tạo ra hàng hoá có giá
rẻ hơn các nước khác. Đây là giải pháp làm tăng tính cạnh tranh trong xuất
khẩu hàng hoá. Một nhân tố khác giúp hàng hoá Trung Quốc lấy lại tính
cạnh tranh là chi phí lao động rất thấp so với nhiều nước phát triển khác
trong khu vực. chính vì vậy mà Trung Quốc đã duy trì được thặng dư
thương mại liên tục.

<Thời báo Kinh tế Sài gòn, số 11-2002, trang 47>
Đây cũng là một bài học kinh nghiệm cho nước ta trong việc vận
dụng quy luật giá cả trong sản xuất và khuyến khích đầu tư.
Có nhà kinh tế đã gọi “năm 2002 là năm Trung Quốc”, vì Trung
Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8% trong bối cảnh kinh tế
thế giới phục hồi chậm chạp sau cuộc suy giảm và chỉ đạt được tốc độ tăng
trưởng bình quân khoảng 2,5%. Năm 2002 còn là năm Trung Quốc ra nhập
tổ chức thương mại thế giới( WTO). Những thành tựu thu được trong năm
2002 trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, đối ngoại đã tạo đà cho nhân dân
trung quốc chuyển sang năm 2003. Vì vậy nghiên cứu sự vận dụng quy luật
giá cả trong việc hoạch định những chính sách của chính phủ Trung Quốc
trong năm 2002 cho nước ta những bài học kinh nghiệm tốt để phát triển.
Những thành tựu mà Trung Quốc đạt được do rất nhiều những

nguyên nhân chủ quan và khách quan. Chính phủ Trung Quốc đã tìm cách
kích thích nhu cầu trong nước, nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu đầu tư, đồng
thời áp dụng các chính sách khuyến khích xuất khẩu. Sau khi gia nhập
WTO, môi trường ngoại thương của Trung Quốc thuận lợi hơn. Các xí
14
14
14
nghiệp vốn ngoại đã mạnh dạn đưa nhiều dây chuyền sản xuất tại Trung
Quốc, và bán ra nhiều sản phẩm sản xuất tạ Trung Quốc. Tình hình chính
trị ổn định của Trung Quốc cũng là nguyên nhân dẫn đến thành công của
kinh tế Trung Quốc. Trong đó sự quản lý nhà nước về kinh tế trong nền
kinh tế thị trường XHCN ở trung quốc là một nguyên nhân dẫn đến kết quả
đáng mong đợi đó. Trung Quốc đã sử dụng những phương pháp, những
công cụ quản lý một cách hữu hiệu nhất dựa trên một quy luật kinh tế
“thống soái” trong cơ chế thị trường đó là quy luật giá cả. Xét về từng khía
cạnh mà Trung Quốc đã vận dụng quy luật giá cả để có thể tránh những sai
lầm và học được những kinh nghiệm tốt cho sự phát triển kinh tế thị trường
ở Việt Nam.
Các phương pháp chủ yếu mà Trung Quốc sử dụng trong quản lý nhà
nước về kinh tế là: phương pháp hoạch định chiến lược, phương pháp kinh
tế, phương pháp hành chính, phương pháp giáo dục. Trong đó phương pháp
kinh tế là việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế( như thuế, lợi nhuận...) tác động
đến chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh, thông qua việc đạt được các lợi
ích kinh tế để thực hiện các mục tiêu quản lý của mình. Ví dụ như để
khuyến khích xuất khẩu, Trung Quốc đã sử dụng các biện pháp như tài trợ
tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, giảm/ miễn thuế cho doanh nghiệp
mở rộng được thị phần hay có kim ngạch lớn. Quy luật giá cả được vận
dụng trong hoạt động khuyến khích xuất khẩu tạo cho các doanh nghiệp có
được nhiều thuận lợi trong xuất khẩu hàng hoá, lợi nhuận thu được cao hơn
các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển khác mặc dù cùng sản xuất

với mức hao phí lao động như nhau.
Có nhiều công cụ quản lý nhà nước được Trung Quốc sử dụng
trong quản lý nền kinh tế thị truờng XHCN như Tài chính, Pháp luật. Về tài
chính: các công cụ như giá cả và các đòn bẩy khác như lợi nhuận, thuế, lãi
suất... được sử dụng khá phổ biến. Trung Quốc đã thực hiện cắt giảm lãi
15
15
15
suất, tài trợ tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, giảm miễn thuế cho
doanh nghiệp mở rộng thị phần hay có kinh nghạch lớn. Việc thực hiện đều
dựa trên các yêu cầu của quy luật giá cả.
Trong công tác quản lý nhà nước Trung Quốc đã đạt được một số
thành công. Trong xây dựng hệ thống điều tiết vĩ mô, Nhà nước đã không
buông lỏng cơ thị trường mà từng bước vững chắc xây dựng hệ thống điều
tiết vĩ mô. Trong cơ chế tài chính, Nhà nước thực hiện phân rõ thu chi,
phân cấp đảm nhận, xây dựng chế độ phân chia thuế khoá thích ứng với
yêu cầu thị trường. Đó là do sử dụng quy luật giá cả một cách linh hoạt.
Tuy nhiên không tránh khỏi những hạn chế đó là do sự can thiệp
của chính phủ qua nhiều trong kiểm soát và đầu tư vi phạm tính khách quan
của quy luật giá cả.
Từ thực tiễn có thể rút ra một số kinh nghiệm cho việc vận dụng
quy luật giá cả trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế ở việt nam.
Trước hết là tạo lập môi trường kinh tế ổn định, thuận lợi để tăng
trưởng kinh tế nhanh,vững chắc, đưa ra được khuôn khổ pháp lý cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các thành phần kinh tế như: có quy
định về thu thuế thu nhập doanh nghiệp sao cho khuyến khích doanh
nghiệp sản xuất, xuất khẩu nhưng cũng hạn chế sự dư thừa hàng hoá trên
thị trường; có những quy định ưu đãi về các nguyên liệu đầu vào đối với
các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoặc hoạt động sản xuất kinh
doanh trong các đặc khu kinh tế...Tiếp sau đó là đổi mới chính sách tài

chính và tiền tệ. Nhà nước nên tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế quản lý
tài chính của các doanh nghiệp nhà nước gắn với quá trình sắp xếp lại các
doanh nghiệp đó. Đổi mới chính sách tiền tệ càn hướng vào mục tiêu: ổn
định giá cả đồng nội tệ,ổn định tỷ giá hối đoái thực tế, đảm bảo tín dụng
hợp lý với nhu cầu kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động tài
chính trong nền kinh tế. Đổi mới chính sách thu nhập đi đôi với chính sách
16
16
16

×