Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng lý luận trên vào nền ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.65 KB, 43 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, bất kỳ một nền sản xuất nào cũng phải giải quyết ba
vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Câu trả
lời này chỉ có thể có được thông qua xem xét các mối quan hệ thị trường và yếu tố
giá cả thị trường. Có lẽ vì tầm quan trọng đó của giá cả mà hầu như các trường
phái kinh tế từ cổ điển đến hiện đại đều cố gắng đưa ra nhiều cách định nghĩa và
lý giải khác nhau về giá cả thị trường, để từ đó rút ra những quy tắc chung cho
điều hành sản xuất và lưu thông. Việc nắm vững nội dung, quy luật, nguyên tắc
hình thành giá cả thị trường có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn hoạt động
kinh tế hiện nay với mọi quốc gia. Đặc biệt với Việt Nam chúng ta, khi vừa mới
gia nhập kinh tế thế giới, dù thời cơ thuận lợi có nhiều song thách thức cũng không
ít, trước những biến động phức tạp của tình hình giá cả hiện nay, chúng ta cần có
một nhận thức đúng đắn nhằm chỉ đạo hoạt động điều hành giá cả một cách có
hiệu quả nhất. Nhận thức điều đó, qua quá trình học tập môn Kinh tế chính trị, em
đã có điều kiện nghiên cứu ba đại diện có nhiều đóng góp tích cực vào lý thuyết
giá trị là C.Mác. Vì vậy em chọn đề tài “Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng
lý luận trên vào nền ở nước ta hiện nay” để trình bày một số ý tưởng của mình.
Trong giới hạn thời gian và yêu cầu môn học, em chỉ xin nêu ra những quan
điểm tưởng chính của các nhà kinh tế và liên hệ với thực tế công tác điều hành giá
cả tại nước ta, qua đó trình bày một số nhận định và kiến nghị một số giải pháp đối
với công tác điều hành giá cả hiện nay tại nước ta. Em rất mong nhận được ý kiến
góp ý của các thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn!
Em xin chân thành cảm ơn!

CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÝ LUẬN GIÁ CẢ VÀ VAI TRÒ CỦA
LÝ LUẬN GIÁ CẢ TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ
1. Lý luận giá cả - lý luận kinh tế căn bản của nền sản xuất hàng hoá.
K. Mác là một trong những người đầu tiên sáng lập ra kinh tế chính
trị học Macxit. Lần đầu tiên, ông đã nêu ra đối tượng của kinh tế chính trị
là quan hệ sản xuất, tức là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản


xuất, mà trước hết là các quan hệ sở hữu và phân phối. Từ xuất phát điểm
đó, ông đi nghiên cứu về sản xuất và lưu thông hàng hóa trong xã hội. Trên
cở sở phê phán và kế thừa các học thuyết của các trường phái kinh tế trước
đó cộng với thiên tài bẩm sinh, Mác đã xây dựng cho mình một học thuyết
kinh tế chính trị hoàn bị. Trong đó, thành tựu đầu tiên phải kể đến là phát
hiện ra quy luật giá trị - quy luật kinh tế cơ bản của mọi nền sản xuất và lưu
thông hàng hóa.
Bằng việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa,
Mác đã phân biệt được hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá
trị. Giá trị sử dụng là công dụng một vật, là thuộc tính tự nhiên của nó làm
thỏa mãn nhu cầu nào đó của cong người, còn giá trị là hao phí lao động để
làm ra hàng hóa đó. Đặc trưng của giá trị sử dụng là phải được tiêu dùng,
thông qua trao đổi hàng hóa. Trong quá trình trao đổi trên thị trường, sự
cạnh tranh nội bộ ngành sẽ dẫn tới hình thành giá trị trao đổi hay giá cả. Do
vậy giá cả chính là giá trị thị trường của hàng hóa. Mác cho rằng giá trị là
cơ sở, là nội dung còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện. Giá cả là hình
thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả tách khỏi giá trị, vận
động xoay quanh trục giá trị. Khi giá trị thay đổi thì giá cả - giá trị trao đổi
cũng thay đổi theo.
2
2
2
Nghiên cứu nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, Mác đưa ra
phạm trù chi phí sản xuất. Trước đây, khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả
sản xuất thì giá cả hàng hóa xoay quanh giá trị hàng hóa. Giờ đây, giá cả
hàng hóa sẽ xoay quanh giá cả sản xuất. Trong mối quan hệ này thì giá trị
vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả sản xuất là cơ
sở của giá cả thị trường, và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.
1.1.1. Đặc điểm hoạt động của lý luận giá cả
Là một lý luận kinh tế chung, lý luận giá cả cũng như các lý luận kinh

tế khác, nó có những đặc điểm sau:
Một là lý luận giá cả hoạt động thông qua hoạt động kinh tế của con
người.Động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động kinh tế của con người là lợi
ích kinh tế. Chúng vốn không giống nhau ở mỗi người, mỗi tập đoàn xã
hội, vì vậy kết quả tác động của lý luận giá cả chỉ mang tính xu hướng, có
thể kết quả không hoàn toàn giống nhau. Cũng vì vậy khi vận dụng lý luận
giá cả, điều cốt yếu là thực hiện và kết hợp tốt lợi ích của các chủ thể tham
gia các hoạt động kinh tế. Sự vận dụng lý luận giá cả của con người hoạt
động vì lợi ích kinh tế là một phương tiện cho chúng ta biết được sự hoạt
động của lý luận giá cả.
Hai là lý luận giá cả hoạt động thông qua sự vận động của giá cả trên
thị trường. Đặc điểm này đòi hỏi việc vận dụng lý luận giá cả, điều cốt yếu
là phải biết lựa chọn, tổ chức thực hiện tốt phạm trù giá cả. Giá cả là sự
biểu hiện bằng tiền của giá cả. Giá cả phụ thuộc vào giá cả, vì giá cả là cơ
sở của giá cả. Nhưng do tác động của lý luận cung cầu,tình trạng độc quyền
trên thị trường và các nhân tố khác làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường
có thể tách rời giá cả, lên xuống xung quanh giá cả của nó. C.Mác gọi đó là
“vẻ đẹp” của lý luận giá cả. Trong ‘vẻ đẹp” này, giá cả hàng hoá là trục, giá
cả của hàng hoá trên thị trường lên xuống quanh trục đó. Đối với mỗi hàng
hoá riêng biệt, giá cả của nó có thể cao hơn, thấp hơn hoặc phù hợp với giá
cả. Nhưng cuối cùng, tổng giá cả phù hợp với giá cả của chúng. Chính nhờ
phương thức vận động như vậy của giá cả mà lý luận giá cả phát huy tác
dụng.
3
3
3
Ví dụ khi sản xuất ra một cái rìu theo định nghĩa là lượng tiền đúng
bằng hao phí lao động xã hội cần thiết của người thợ thủ công. Nhưng do
tác dụng của quan hệ cung cầu làm cho lượng tiền để mua được cái rìu lớn
hơn( cầu lớn hơn cung) hoặc nhỏ hơn( cầu nhỏ hơn cung) giá cả của nó.

Tuy nhiên vai trò quyết định là lý luận giá cả, còn lý luận cung cầu chỉ
mang tính phụ trợ cho sự hoạt động của lý luận giá cả vì Mác chứng minh
rằng ngay cả khi cung cầu cân bằng nhau giá vẫn biến động. “Mác khẳng
định: dù giá cả hàng hoá được điều tiết như thế nào thì lý luận giá cả vẫn
chi phối sự vận động của chúng”
<Tư bản quyển III, tập 1, nhà xuất bản sự thật, hà nội 1978, trang 309>
Ba là tính lịch sử của lý luận giá cả.Đặc điểm này nhấn mạnh đến cơ sở
xác định của sự xuất hiện và tồn tại của lý luận giá cả từ đó đòi hỏi việc
vận dụng lý luận giá cả phải tính đến điều kiện lịch sử cụ thể của những cơ
sở tồn tại của nó để có những hình thức và biện pháp phù hợp.Cơ chế thị
trường tự điều tiết là cơ chế vận động của hệ thống lý luận kinh tế trước hết
là lý luận giá cả. lý luận giá cả là “thống soái” chi phối cơ chế thị trường.
Vận dụng lý luận giá cả như một đòn bẩy cho sự phát triển của kinh tế thị
trường là một chính sách đúng đắn.
1.1.2. Những yêu cầu của lý luận giá cả trong nền kinh tế hàng hoá
Nói đến hàng hoá là nói đến hai đặc tính của nó là giá cả và giá cả sử
dụng. Hàng hoá được sản xuất ra để bán trên thị trường nên giá cả hàng hoá
là đặc tính quan trọng nhất. Trong nền kinh tế hàng hoá muốn thúc đẩy sự
phát triển của nó thì cần phải tuân theo những yêu cầu của lý luận giá cả
trong sản xuất và trong lưu thông.
Lý luận giá cả quyđịnh mặt chất và sự vận động về mặt lượng của giá
cả hàng hoá. Theo lý luận này:
“sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá cả hàng hoá hay thời
gian lao động xã hội cần thiết”.
<Đại học kinh tế quốc dân, bộ môn kinh tế chính trị học, kinh tế chính trị
mác lênin tập 1, nhà xuất bản giáo dục, năm 1997 >
Điều đó có nghĩa là:
4
4
4

Trong sản xuất: lý luận giá cả yêu cầu hao phí lao động xã hội cá biệt để
sản xuất ra hàng hoá phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết.
Ví dụ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một kg thóc là
2000 đồng. Người nông dân muốn bán được với thu lợi thì hao phí lao
động cá biệt để sản xuất ra một kg thóc phải nhỏ hơn 2000 đồng.
Thực hiện yêu cầu này, các chủ thể sản xuất hàng hoá phải định mức hao
phí lao động, vật tư máy móc… sao cho hao phí lao động của mình phù
hợp hoặc nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết. Như vậy nghành sản
xuất nào áp dụng kinh tế mới trước nhất thì hao phí lao động cá biệt sẽ nhỏ
hơn hao phí xã hội cần thiết, nhưng họ bán hàng phù hợp với hao phí lao
động xã hội cần thiết thì sẽ phát tài.
Trong lưu thông: lý luận giá cả yêu cầu trao đổi ngang giá.
Ví dụ một cái rìu đổi được 20kg thóc tức là hao phí lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra một cái rìu phải phù hợp với hao phí lao động xã hội
cần thiết để sản xuất ra 20kg thóc. Lý luận giá cả đòi hỏi phải căn cứ vào
giá cả xã hội để tiến hành trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Người bán
đảm bảo: đúng số lượng, chất lượng, giá cả sử dụng, người mua phải trả
đúng giá cả hàng hoá đảm bảo sự bình đẳng,công bằng không vi phạm lợi
ích của nhau giữa người sản xuất và tiêu dùng hàng hoá.
Muốn vận dụng tốt lý luận giá cả trong việc phát triển kinh tế hàng hoá
thì ngoài những nghiên cứu về sự xuất hiện, tồn tại cùng với những đặc
điểm, tính chất của lý luận giá cả-lý luận kinh tế của sản xuất hàng hoá
chúng ta còn phải nghiên xem xét đến vai trò của lý luận giả trị trong cơ sở
kinh tế xác định của nó.
1.2. Vai trò của lý luận giá cả trong nền kinh tế hàng hoá
Lý luận giá cả là lý luận kinh tế chung, nó hoạt động trong tất cả các
phương thức sản xuất và lưu thông hàng hoá.Với ba tác dụng cơ bản, lý
luận giá cả có vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá.
Một là lý luận giá cả có tác dụng tự phát điều tiết sản xuất và lưu thông
hàng hoá. Trong sản xuất, lý luận giá cả điều tiết việc phân phối tư liệu sản

xuất và sức lao động giữa các nghành sản xuất thông qua sự biến động của
giá cả hàng hoá.
5
5
5
Tác dụng này của lý luận giá cả do nguyên nhân sự biến động của giá cả
hàng hoá xung quanh giá cả của hàng hoá. Do quan hệ cung cầu, giá cả
hàng hóa trên thị trường lên xuống xung quanh giá cả của nó. Chỉ rõ những
sự mất cân đối trong việc phân phối lao động xã hội đối với các nghành sản
xuất. Nếu ngành nào đó cung không đáp ứng cầu, giá cả hàng hoá lên cao
thì người sản xuất sẽ đổ xô vào nghành đó. Ngược lại, khi nghành nào đó
thu hút quá nhiều lao động xã hội, cung vượt quá cầu, giá cả hàng hoá hạ
xuống, thì người sản xuất sẽ phải chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao
động ra khỏi nghành này để đầu tư vào nơi có giá cả hàng hoá cao.Nhờ vậy
mà tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối qua lại một cách tự
phát vào các nghành sản xuất khác nhau. Sự vận động của giá cả là do lý
luận giá cả chi phối. Vai trò quyết định là lý luận giá cả, còn lý luận cung
cầu chỉ có tính chất phụ trợ cho lý luận giá cả hoạt động. Lý luận cung cầu
giải thích sự biến dạng của lý luận giá cả trong đời thường.
Trong lĩnh vực lưu thông, lý luận giá cả có tác dụng điều tiết nguồn
hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. Tác dụng này của lý luận tạo nên sự
cân bằng về hàng hoá trên thị trường.
Hai là lý luận giá cả tự phát kích thích sản xuất phát triển. Vì lao động
xã hội cần thiết là cơ sở của giá cả hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá,
người sản xuất nào mà hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động
xã hội cần thiết thì thu lợi, còn người nào có hao phí lao động cá biệt lớn
hơn hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì
sẽ bị thiệt, vì không thu về được toàn bộ lao động đã hao phí. Muốn đứng
vững và thắng lợi trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất đều phải luôn tìm
cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt thông qua cải

tiến kỹ thuật, tăng suất lao động. Vì thế, trong nền kinh tế hàng hoá, lực
lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn nhiều so với trong
nền kinh tế tự cấp, tự túc.
Tuy nhiên tác dụng này còn có khuyết tật là do chạy theo sản xuất
những hàng hóa có giá cả cao, cho nên tạo ra tình trạng có một loại hàng
hoá nào đó được sản xuất ra quá nhiều, dẫn đến hiện tượng dưa thừa, làm
6
6
6
lãng phí lao động xã hội. Mặt khác nhiều người sản xuất chỉ chú ý đến lợi
nhuận nên hàng hoá có chất lượng kém.
Ba là thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá người sản xuất
thành kẻ giàu, người nghèo. Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá cả, lao
động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã
hội cần thiết. Những người làm tốt làm giỏi có hao phí lao động cá biệt
thấp hơn hao phí lao động cần thiết, nhờ đó phát tài, làm giàu, mua sắm
thêm tư liệu sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng doanh nghiệp của
mình. Đây cũng chính là tác động kích thích lực lượng sản xuất phát triển.
Những người làm tốt có thể là những người biết ứng dụng những thành tựu
mới của khoa học vào sản xuất để giảm hao phí lao động xã hội cá biệt.
Bên cạnh đó, những người làm ăn kém cỏi không gặp may, không biết áp
dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hao phí lao động cá biệt cao hơn hao
phí lao động xã hội cần thiết, nên họ bị lỗ vốn, thậm chí đi đến phá sản. Ví
dụ hai công ty dệt may sử dụng dây truyền sản xuất khác nhau. Công ty nào
sử dụng dây dây truyền công nghệ mới thì hao phí lao động cá biệt sẽ nhỏ
hơn của dây truyền cũ, sản phẩm làm ra có giá thành rẻ hơn mà vẫn bán
đúng theo giá thị trường thì công ty đó có lãi. Như vậy lý luận giá cả bảo
đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất. tuy nhiên ngay trong quá trình
thực hiện sự bình tuyển người sản xuất, lý luận giá cả đã phân hoá người
sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo. Người giàu trở thành ông chủ, người

nghèo dần trở thành người làm thuê. Lịch sử phát triển của sản xuất hàng
hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần sinh ra quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa kẻ giàu- người nghèo, quan hệ giữa chủ- thợ,
quan hệ giữa tư sản- vô sản là quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế. Sự đối
kháng đó tất yếu dẫn đến đấu tranh giữa người nghèo chống lại kẻ giàu, thợ
chốnglại chủ, vô sản chống lại tư sản. Ngay trong cùng lớp giàu hoặc cùng
lớp nghèo với nhau, cũng xảy ra cạnh tranh chèn ép, thôn tính lẫn nhau “cá
lớn nuốt cá bé”, gây thiệt hại lợi ích kinh tế của đối thủ một cách tàn nhẫn.
Đó cũng là một khuyết tật của nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường.
7
7
7
Từ những tác dụng của lý luận giá cả ta thấy được mặt trái của lý luận
này trong cạnh tranh, do đó cần phải xem xét biểu hiện của nó trong cạnh
tranh để có những giải pháp khắc phục khuyết tật.
1.3 Biểu hiện của lý luận giá cả trong cạnh tranh
Cạnh tranh là một hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản
xuất hàng hoá đựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nhằm giành giật
những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Cơ sở của
cạnh tranh là chế độ tư hữu.
Vì lý luận giá cả hoạt động thông qua hoạt động kinh tế của con người
nên trong cạnh tranh nó biểu hiện ở hoạt động cạnh tranh trong nội bộ
nghành và cạnh tranh giữa các nghành.
Cạnh tranh trong nội bộ nghành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp
trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra loại hàng hoá có lợi hơn để thu
được lợi nhuận siêu nghạch. Lợi nhuận siêu nghạch này có đặc điểm tạm
thời, không ổn định với từng nhà tư bản. Lợi nhuận siêu nghạch là phần
giá cả thặng dư thu được trội hơn so với giá cả thặng dư bình thường nhờ
giá cả cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá cả xã hội của hàng hoá. Như vậy
hoạt động kinh tế của các nhà tư bản trong cạnh tranh trong nội bộ nghành

mà thực hiện theo yêu cầu của lý luận giá cả thì sẽ thu được lợi nhuận siêu
nghạch. Biện pháp cạnh tranh của các nhà tư bản là thường xuyên cải tiến
kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản, nâng cao năng xuất lao động
nhằm làm cho giá cả cá biệt của hàng hoá xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn
giá cả xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Các nhà tư bản là những
nhà sản xuất giỏi vì đã vận dụng tốt lý luận giá cả trong kinh doanh. Kết
quả của cạnh tranh là hình thành nên giá cả xã hội
( giá cả thị trường) của từng loại hàng hoá. giá cả này theo C.Mác: “Một
mặt, phải coi giá cả thị trường là giá cả bình quân của những hàng hoá
được sản xuất ra trong một khu vực nào đó; mặt khác, lại phải coi giá cả thị
trường là giá cả cá biệt của những hàng hoá đã được sản xuất ra trong
những điều kiện trung bình của khu vực đó chiếm một khối lượng lớn trong
số những sản phẩm của khu vực này.”
<C.Mác, Tư bản, nhà suất bản sự thật, Hà nội, 1992, q III, t1, tr. 265-266.>
8
8
8
Cạnh tranh giữa các nghành là sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản trong
nghành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Để
đạt được mục đích các nhà tư bản sử dụng biện pháp tự do di chuyển tư bản
tức là phân phối tư bản vào các nghành sản xuất khác nhau. Kết quả của
cuộc cạnh tranh này là giá cả hàng hoá trở thành giá cả sản xuất đi kèm với
sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Trong cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh giữa các nghành sự hoạt động của
lý luận giá cả thông qua sự vận động của giá cả lại có hình thức biểu hiện
khác. Đó là giá cả không xoay quanh giá cả hàng hoá nữa mà nó lại xoay
quanh giá cả sản xuất. Thực chất hoạt động của lý luận giá cả sản xuất là sự
biểu hiện của lý luận giá cả trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư
bản. Lý luận giá cả là lý luận “thông soái” chi phối cơ chế thị trường và lý
luận giá cả sản xuất chỉ là sự biểu hiện yêu cầu của quy luật giá cả mà thôi.

Trung tâm của cơ chế thị trường là lý luận giá cả quyết định giá cả.
xoay quanh trung tâm đó có các lý luận kinh tế khác như công cụ, phương
tiện để thực hiện yêu cầu của lý luận giá cả. Do đó nó có sức mạnh tự điều
chỉnh, A.Smith gọi là cánh tay vô hình.
1.4 Biểu hiện của giá cả trong độc quyền
Lý luận giá cả là lý luận hoạt động trong các phương thức sản xuất có
sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy cần xem xét sự hoạt động của lý
luận giá cả trong giai đoạn độc quyền.
Lý luận giá cả vận động thông qua hoạt động của con người và sự vận
động của giá cả. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền tối đa hoá lợi
nhuận không phải chủ yếu do sử dụng các biện pháp kinh tế như cải tiến kỹ
thuật, phương pháp quản lý…mà chủ yếu là do địa vị, quyền lực thống trị
của độc quuyền tạo ra. Ngày nay, độc quyền vẫn là bản chất sâu xa của chủ
nghĩa tư bản, song tự do cạnh tranh vẫn tồn tại như một đặc điểm cơ bản
của chủ nghĩa tư bản độc quyền.Theo V.I.Lênin: Tổ chức độc quyền không
thủ tiêu cạnh tranh tự do là cái đã sinh ra nó: nó tồn tại ở trên sự cạnh tranh
tự do và cùng với cạnh tranh tự do, do đó mà gây ra một số mâu thuẫn,va
chạm và xung đột gay gắt. Bởi vậy trong các nước tư bản hiện nay, khoa
9
9
9
học phát vẫn có tác động phát triển nhanh. So với thời kỳ trước, cạnh tranh
đã mở ra môi trường rộng lớn cho sự tiến bộ khoa học- công nghệ.
Giá cả độc quyền là hình thức biểu hiện của giá cả hàng hoá trong giai
đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nó bao gồm chi phí sản xuất cộng với lợi
nhuận độc quyền. Thông thường, khi bán hàng hoá thì giá cả cao hơn giá cả
hàng hoá, khi mua hàng hoá thì giá cả thấp hơn giá cả hàng hoá- đó là cơ
chế mua bán theo giá cả độc quyền. Nhờ vậy mà các tổ chức độc quyền thu
được lợi nhuận độc quyền. Giá cả thị trường độc quyền được hình thành do
sự kiểm soát được cung( hoặc cầu), nên nhà độc quyền quyết định được giá

cả. Họ có thể tăng giá bán hàng hoá dịch vụ bằng cách giảm cung, tạo nên
sự khan hiếm hàng hoá dịch vụ.
Trong giai đoạn độc quyền lý luận giá cả vẫn còn phát huy tác dụng.
Việc các tổ chức độc quyền mua bán theo giá cả độc quyền xét về thực
chất chỉ là sự biểu hiện mới, cao hơn, nó không làm giảm hiệu lực của lý
luận giá cả. Giá cả hàng hoá vẫn lên xuống xunh quanh giá cả của chúng
nhưng do ưu thế độc quyền. Doanh nghiệp độc quyền có thể quyết định và
kiểm soát giá cả, ít quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất như đổi
mới công nghệ sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã chất lượng
sản phẩm. Do vậy xét về phương diện xã hội, độc quyền là hiện tượng kinh
tế không hiệu quả, gây trở ngại cho việc phát triển sản xuất xã hội và
phương hại đến người tiêu dùng.
Việc nhận thức và vận dụng lý luận giá cả là cần thiết khách quan.
Nhưng muốn vận dụng tốt thì việc nhận thức không chỉ dừng ở nhận thức
cảm tính, kinh nghiệm mà phải có trình độ nhận thức lý tính. Vì vậy cần
phải nghiên cứu sự vận dụng lý luận giá cả trong nền kinh tế thị trường ở
một số nước để rút ra bài học kinh nghiệm cho nước ta.
1.5 Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc vận dụng lý luận giá cả vào
nền kinh tế thị trường
Trong bài “Châu Á đang hồi phục?” của tác giả Anh Sa đăng trên Thời
Báo Kinh tế Sài gòn số 16-2002, có nhận định “Trung Quốc sẽ tiếp tục là
người khỏe trong khu vực”.
10
10
10
Trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp, một số nước muốn
nền kinh tế phát triển nhanh hơn bằng cách sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái.
Do đó hiện nhiều nước, đặc biệt là nhiều nước Châu Á, lo ngại Trung Quốc
phá giá đồng nhân dân tệ để khuyến khích xuất khẩu. Nếu Trung Quốc phá
giá đồng nhân dân tệ, điều đó đồng nghĩa với việc hàng hoá Trung Quốc sẽ

rẻ hơn và tràn ngập thị trường. Nhưng Thống đốc Ngân hàng Nhân dân
Trung Quốc đã tuyên bố trên baó chí là Trung Quốc không cần thiết phá
giá đồng nhân dân tệ. Sự khẳng định như vậy là do Trung Quốc có dự trữ
một lượng ngoại tệ mạnh đứng thứ hai trên thế giới sau Nhật Bản. Lượng
dự trữ này luôn vượt nợ nước ngoài. Ngoài ra Trung Quốc còn lựa chọn
giải pháp khác là cắt giảm lãi xuất. Giải pháp này dựa trên sự vận dụng lý
luận giá cả vì lãi suất giảm sẽ khuyến khích đầu tư, sản xuất hàng hoá sẽ sử
dụng nhiều công nghệ mới tạo ra hàng hoá có giá rẻ hơn các nước khác.
Đây là giải pháp làm tăng tính cạnh tranh trong xuất khẩu hàng hoá. Một
nhân tố khác giúp hàng hoá Trung Quốc lấy lại tính cạnh tranh là chi phí
lao động rất thấp so với nhiều nước phát triển khác trong khu vực. chính vì
vậy mà Trung Quốc đã duy trì được thặng dư thương mại liên tục.
<Thời báo Kinh tế Sài gòn, số 11-2002, trang 47>
Đây cũng là một bài học kinh nghiệm cho nước ta trong việc vận dụng
lý luận giá cả trong sản xuất và khuyến khích đầu tư.
Có nhà kinh tế đã gọi “năm 2002 là năm Trung Quốc”, vì Trung Quốc
đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8% trong bối cảnh kinh tế thế giới
phục hồi chậm chạp sau cuộc suy giảm và chỉ đạt được tốc độ tăng trưởng
bình quân khoảng 2,5%. Năm 2002 còn là năm Trung Quốc ra nhập tổ
chức thương mại thế giới( WTO). Những thành tựu thu được trong năm
2002 trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, đối ngoại đã tạo đà cho nhân dân
trung quốc chuyển sang năm 2003. Vì vậy nghiên cứu sự vận dụng lý luận
giá cả trong việc hoạch định những chính sách của chính phủ Trung Quốc
trong năm 2002 cho nước ta những bài học kinh nghiệm tốt để phát triển.
Những thành tựu mà Trung Quốc đạt được do rất nhiều những nguyên
nhân chủ quan và khách quan. Chính phủ Trung Quốc đã tìm cách kích
11
11
11
thích nhu cầu trong nước, nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu đầu tư, đồng thời

áp dụng các chính sách khuyến khích xuất khẩu. Sau khi gia nhập WTO,
môi trường ngoại thương của Trung Quốc thuận lợi hơn. Các xí nghiệp
vốn ngoại đã mạnh dạn đưa nhiều dây chuyền sản xuất tại Trung Quốc, và
bán ra nhiều sản phẩm sản xuất tạ Trung Quốc. Tình hình chính trị ổn định
của Trung Quốc cũng là nguyên nhân dẫn đến thành công của kinh tế Trung
Quốc. Trong đó sự quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường
XHCN ở trung quốc là một nguyên nhân dẫn đến kết quả đáng mong đợi
đó. Trung Quốc đã sử dụng những phương pháp, những công cụ quản lý
một cách hữu hiệu nhất dựa trên một lý luận kinh tế “thống soái” trong cơ
chế thị trường đó là lý luận giá cả. Xét về từng khía cạnh mà Trung Quốc
đã vận dụng lý luận giá cả để có thể tránh những sai lầm và học được
những kinh nghiệm tốt cho sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Các phương pháp chủ yếu mà Trung Quốc sử dụng trong quản lý nhà
nước về kinh tế là: phương pháp hoạch định chiến lược, phương pháp kinh
tế, phương pháp hành chính, phương pháp giáo dục. Trong đó phương pháp
kinh tế là việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế( như thuế, lợi nhuận...) tác động
đến chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh, thông qua việc đạt được các lợi
ích kinh tế để thực hiện các mục tiêu quản lý của mình. Ví dụ như để
khuyến khích xuất khẩu, Trung Quốc đã sử dụng các biện pháp như tài trợ
tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, giảm/ miễn thuế cho doanh nghiệp
mở rộng được thị phần hay có kim ngạch lớn. Lý luận giá cả được vận
dụng trong hoạt động khuyến khích xuất khẩu tạo cho các doanh nghiệp có
được nhiều thuận lợi trong xuất khẩu hàng hoá, lợi nhuận thu được cao hơn
các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển khác mặc dù cùng sản xuất
với mức hao phí lao động như nhau.
Có nhiều công cụ quản lý nhà nước được Trung Quốc sử dụng trong
quản lý nền kinh tế thị truờng XHCN như Tài chính, Pháp luật. Về tài
chính: các công cụ như giá cả và các đòn bẩy khác như lợi nhuận, thuế, lãi
suất... được sử dụng khá phổ biến. Trung Quốc đã thực hiện cắt giảm lãi
suất, tài trợ tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, giảm miễn thuế cho

12
12
12
doanh nghiệp mở rộng thị phần hay có kinh nghạch lớn. Việc thực hiện đều
dựa trên các yêu cầu của lý luận giá cả.
Trong công tác quản lý nhà nước Trung Quốc đã đạt được một số thành
công. Trong xây dựng hệ thống điều tiết vĩ mô, Nhà nước đã không buông
lỏng cơ thị trường mà từng bước vững chắc xây dựng hệ thống điều tiết vĩ
mô. Trong cơ chế tài chính, Nhà nước thực hiện phân rõ thu chi, phân cấp
đảm nhận, xây dựng chế độ phân chia thuế khoá thích ứng với yêu cầu thị
trường. Đó là do sử dụng lý luận giá cả một cách linh hoạt.
Tuy nhiên không tránh khỏi những hạn chế đó là do sự can thiệp của
chính phủ qua nhiều trong kiểm soát và đầu tư vi phạm tính khách quan của
lý luận giá cả.
Từ thực tiễn có thể rút ra một số kinh nghiệm cho việc vận dụng lý luận
giá cả trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế ở việt nam.
Trước hết là tạo lập môi trường kinh tế ổn định, thuận lợi để tăng trưởng
kinh tế nhanh,vững chắc, đưa ra được khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh đối với các thành phần kinh tế như: có quy định về thu
thuế thu nhập doanh nghiệp sao cho khuyến khích doanh nghiệp sản xuất,
xuất khẩu nhưng cũng hạn chế sự dư thừa hàng hoá trên thị trường; có
những quy định ưu đãi về các nguyên liệu đầu vào đối với các xí nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh trong các đặc
khu kinh tế...Tiếp sau đó là đổi mới chính sách tài chính và tiền tệ. Nhà
nước nên tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế quản lý tài chính của các doanh
nghiệp nhà nước gắn với quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp đó. Đổi
mới chính sách tiền tệ càn hướng vào mục tiêu: ổn định giá cả đồng nội
tệ,ổn định tỷ giá hối đoái thực tế, đảm bảo tín dụng hợp lý với nhu cầu kinh
tế và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động tài chính trong nền kinh tế.
Đổi mới chính sách thu nhập đi đôi với chính sách giá cả thông qua thị

trường, như vậy qua thị trường mới cân bằng giữa lương và giá. Theo kinh
nghiệm của Trung Quốc, tam giác giá-lương-thị trường là tam giác “thần”
đẩy nền kinh tế phát triển. Phối hợp tốt ba yếu tố này là tuân theo những
yêu cầu của lý luận giá cả và đảm bảo tính khách quan.
13
13
13
Nhìn chung nền kinh tế thị trường ở Việt Nam vẫn còn chưa hoàn
thiện.Muốn thúc đẩy nền kinh tế phát triển cần sử dụng hiệu quả các đòn
bẩy kinh tế.
14
14
14
CHƯƠNG 2
SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN GIÁ CẢ V À VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG
NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ VÀ VẬN DỤNG NÓ TRONG NỀN KINH
TẾ NƯỚC TA THỜI GIAN QUA.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM VẬN DỤNG TỐT LÝ LUẬN
GIÁ CẢ Ở VIỆT NAM.

2.1 Thực trạng sự vận dụng lý luận giá cả ở nước ta trong thời gian
qua
Cơ chế thị trường tự điều tiết là cơ chế vận động của hệ thống các lý
luận kinh tế. Lý luận giá cả là lý luận “thống soái” chi phối cơ chế thị
trường. Lý luận giá cả quyết định giá cả hàng hoá dịch vụ mà giá cả là tín
hiệu nhạy bén nhất của cơ chế thị trường. Hoạt động của lý luận giá cả
được thể hiện bằng hững đòn bẩy kinh tế như giá cả, lãi suất, thuế, tín
dụng, tiền tệ…Do đó sự vận dụng lý luận giá cả trong nền kinh tế chính là
việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế trên, trong nền kinh tế thị trường, tuân
theo nội dung lý luận.

2.1.1 Vận dụng lý luận giá cả trong công cuộc đổi mới chính sách giá cả
Nghị quyết đại hội đảng lần thứ VI đã chỉ đạo: “phấn đấu thi hành
chính sách một giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp. Chính sách giá cả
phải vận dụng tổng hợp các lý luận, trong đó lý luận giá cả có tác động trực
tiếp. Giá cả phải phù hợp với giá cả, đồng thời phải phù hợp với sức mua
của đồng tiền và tính đến quan hệ cung cầu, không thể ổn định giá bằng
cách giữ giá cả cứng nhắc, bất chấp sức mua của đồng tiền, bất chấp quan
hệ cung cầu và sự biến động của các yếu tố hình thành giá cả.”
<tạp chí TT-GC, 1/2001,tr 4>
Thực hiện phương hướng trên đây, trong những năm 1978-1988, nhà
nước đã tiếp tục điều chỉnh giá mua nông sản, giá bán tư liệu sản xuất, giá
bán lẻ hàng tiêu dùng, và việc điều chỉnh được làm dần từng bước. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân trong đó có hậu quả của cuộc tổng điều chỉnh
giá tháng 10-1985 cộng với sự bao cấp qua vốn đã làm cho “lạm phát
15
15
15
ngầm” trong nền kinh tế nổi lên bề mặt của đời sống kinh tế xã hội và tạo
nên lạm phát cao phi mã. Để chống được lạm phát hàng loạt các biện pháp
được đề ra và tổ chức thực hiện. Đặc biệt là những biện pháp chống bao
cấp.
Về giá Nhà nước đã từng bước chuyển hệ thống giá mua nông sản, giá
bán lẻ và giá bán vật tư sang cơ chế kinh doanh( đầu năm 1989 thực hiện
mua nông sản, bán vật tư nông nghiệp theo giá thoả thuận sát giá thị
trường; thực hiện cơ chế một giá kinh doanh đối với hàng tiêu dùng; thực
hiện tính đúng tính đủ đối với các loại vật tư cơ bản để chuyển sang cơ chế
một giá kinh doanh…). Giá thị trường xoay quanh giá cả hàng hoá của nó,
điều này là do tác động của lý luận cung cầu. Nhưng lý luận cung cầu chỉ
thực hiện yêu cầu của lý luận giá cả. Do đó việc chuyển hệ thống giá mua
nông sản, giá bán lẻ và giá bán vật tư nông nghiệp theo giá thoả thuận sát

với giá thị trường là thực hiện yêu cầu của lý luận giá cả.
Có thể khẳng định, sự thành công trên được đường lối mới của Đại hội
Đảng VI soi đường thông qua việc chúng ta đã thực hiện việc chuyển đổi
cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị
trường; thực hiện cải cách toàn bộ hệ thống giá theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và coi đây là khâu
đột phá của tiến trình đổi mới cơ chế kinh tế. Cơ chế kinh tế mới với đặc
trưng cơ bản của nó là nhà nước đã tự rời bỏ quyền can thiệp sâu, quyết
định mọi vấn đề của sản xuất kinh doanh và trao lại quyền đó cho đúng
người chủ và đúng địa chỉ của nó. Người sản xuất kinh doanh được tự chủ
trong quá trình sản xuất kinh doanh trên cơ sở những tín hiệu khách quan
của thị trường.Nhà nước đã giải phóng cơ chế giá kế hoạch, không còn
công bố những tỷ lệ trao đổi hiện vật định sẵn, chủ quan để buộc thị trường
chấp nhận chuyển sang thực hiện cơ chế giá thị trường.
Cơ chế giá kế hoạch là một cơ chế cứng nhắc, nó vi phạm tính khách quan
của lý luận giá cả. Thực hiện cơ chế giá thị trường, một cơ chế giá linh
động, sự vận động của giá cả thị trường là tuân theo những lý luận kinh tế
hoạt động trong cơ chế kinh tế thị trường. Chính sách của Đảng đã chú ý
16
16
16
đến tính khách quan của lý luận giá cả, một khía cạnh quan trọng, có tác
động rất lớn trong việc phát triển kinh tế.
Trong năm 1991-1995, trên cơ sở những thành quả và kinh nghiệm đạt
được trong những năm đầu của cuộc cải cách kinh tế nói chung và cải cách
nói riêng, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII tiếp tục chỉ đạo:
“Kiên trì vận dụng cơ chế thị trường đối với giá hàng tiêu dùng, tư liệu sản
xuất, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng; điều chỉnh từng bước mặt bằng giá
và quan hệ tỷ giá cho phù hợp với sự thay đổi của giá quốc tế với các loại
vật tư, nguyên liệu, thiết bị nhập khẩu, song phải đảm bảo sản xuất phát

triển, kiểm tra và giám sát các loại vật tư, hàng hoá dịch vụ, quan trọng
nhất là giá của một số đơn vị độc quyền kinh doanh. Tiếp tục xoá bỏ các
hình thức phân phối hiện vật, tính đủ giá cả đối với tài sản đất đai tài
nguyên…đưa vào sử dụng”.
Thực hiện nghị quyết trên, về cơ chế quản lý giá, chúng ta xác định rõ:
việc quản lý sẽ được thực hiện thông qua các hình thức can thiệp gián tiếp
bằng các biện pháp quản lý vĩ mô ngoài công cụ giá(điều hoà cung cầu,
chính sách thuế, tỷ giá hối đoái, lưu thông tiền tệ, xuất nhập khẩu, kinh
doanh nội địa…để tác động đến giá thị trường xã hội chủ nghĩa và giá hàng
hoá quan trọng thiết yếu cho sản xuất đời sống,hướng sự hình thành và vận
dụng giá cả thị trường vào thực hiện các mục tiêu định hướng của nền kinh
tế ! Can thiệp trực tiếp với mức độ khác nhau phù hợp với tính chất của
từng loại hàng hoá dịh vụ như định giá chuẩn hoặc giá giới hạn đối với đất
đai, tài nguyên và một số ít hàng hoá dịch vụ quan trọng độc quyền, hàng
hoá dịch vụ chi từ nguồn ngân sách Nhà nước. Đảng ký giá đối với một số
hàng hoá quan trọng cho sản xuất và đời sống… Hiệp thương giá theo yêu
cầu của doanh nghiệp… Thực hiện niêm yết giá…
Đặc biệt, để chủ động thực hiện tốt công tác bình ổn giá ngày 12/4/1993
Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 151/TTG về việc: “hình thành và
quản lý quỹ bình ổn giá”.
Cùng với việc hình thành Quỹ bình ổn giá, trong những năm 1991-
1995, Nhà nước đã chủ động từng bước điều chỉnh giá một số vật tư, hàng
hoá thuộc danh mục Nhà nước định giá cho phù hợp với chi phí sản xuất,
17
17
17

×