Lời mở đầu
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới của nớc ta trong thời gian qua
đã tạo ra thế và lực mới. Nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hoá và hiện
đại hoá đã đợc tạo ra. Quan hệ của nớc ta với các nớc trên thế giới mở rộng hơn
bao giờ hết. Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh với trình độ
ngay càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội.
Tuy nhiên u thế về vốn, công nghệ, thị trờng thuộc các nớc phát triển, khiến cho
những nớc chậm phát triển và đang phát triển đứng trớc những thử thách to lớn.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nớc trong khu vực vẫn là thử
thách to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của chúng ta quá thấp, lại đi lên trong
môi trờng cạnh tranh quyết liệt.
Trớc tình hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và nhà nớc
ta cần liên tục tiến hành và đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nớc,
trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt và chủ đạo. Đồng thời đổi mới về
chính trị cũng mang tính cấp bách bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Chính vì vậy, tìm hiểu mối
quan hệ giữ vật chất và ý thức sẽ cho phép ta vận dụng nó vào mối quan hệ giữ
kinh tế và chính trị của đất nớc, giúp cho công cuộc xây dựng nền kinh tế nớc ta
ngày càng giàu mạnh.
Sau một thời gian nghiên cứu và học tập, cùng với sự hớng dẫn nhiệt tình
của thầy giáo, em đã chọn đề tài:"Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất ý thức
và sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới kinh
tế". Do thời gian có hạn và kiến thức của bản thân em còn nhiều hạn chế do đó
bài viết sẽ không tránh khỏi thiếu sót, vậy em kính mong sự chân thành góp ý
của thầy giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn.
1
Phần I
Lý luận chung về mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức
1. Khái niệm Vật chất.
Vật chất là phạm trù rất phức tạp và có rất nhiều quan niệm khác nhau về
vật chất đứng trên các giác độ khác nhau. Nhng theo Lênin định nghĩa: vật chất
là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đợc đem lại cho con
ngời trong cảm giác, đợc cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có không do ai sinh ra, không thể tiêu
diệt đợc, nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con ngời,
vật chất là một thực tại khách quan. Phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát
các sự vật, hiện tợng có thật, hiện thực, và do đó các đối tợng vật chất có thật,
hiện thực đó có khả năng tác động vào giác quan để gây ra cảm giác, và nhờ đó
mà ta có thể biết đợc, hiểu đợc, nắm bắt đợc đố tợng này.
2. Khái niệm ý thức
Cũng nh vật chất, có rất nhiều quan niệm về ý thức theo các trờng phái khác
nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức
là đặc tính và là sản phẩm của vật chất, ý thức là sự phản ánh thế giới khách
quan vào bộ óc của con ngời thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn mạnh
rằng tinh thần, ý thức chẳng qua chỉ là vật chất đợc di chuyển vào trong bộ óc
của con ngời và đợc cải biến đi trong nó.
ý thức là một tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý thức, tri thức,
tình cảm, ý trí, trong đó tri thức là quan trọng nhất là phơng thức tồn tại của ý
thức.
Quan niệm triết học Mác Lênin, ý thức không phải là hiện tợng thần bí ở
con ngời, trái lại chính là sự phản ánh sáng tạo về thế giới khách quan. Sự sáng
tạo đợc thể hiện ở chỗ là trong sự phản ánh của ý thức nó bao hàm các nhân tố
tới trí thức (đó là sự hiểu biết của con ngời). Thực chất nói về ý thức là nói về tri
thức của con ngời. Theo Mac tri thức là nhân tố quan trọng nhất nó là phơng thức
tồn tại của ý thức, bởi vì sự phản ánh sáng tạo của con ngời phân biệt với mọi sự
phản ánh khác, đó chính là nhờ vào nhân tố tri thức.
2
3. Mối quan hệ giữa vật chất ý thức.
Vật chất và ý thức có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau thông
qua hoạt động thực tiễn của con ngời trong đó vật chất giữ vai trò quyết định, ý
thức giữ vai trò tác động trở lại đối với vật chất.
Lê-nin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có ý nghĩa tuyệt đối
trong phạm vi hết sức hạn chế, trong trờng hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề
nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trớc cái gì là cái có sau. Ngoài
giới hạn đó thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó chỉ là tơng đối. Nh
vậy, để phân ranh giới chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để xác định bản
tính và sự thống nhất của thế giới, cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý
thức trong khi trả lời câu hỏi cái nào có trớc, cái nào quyết định. Không nh vậy
sẽ lẫn lộn hai đờng lỗi cơ bản trong triết học, lẫn lộn vật chất và ý thức và cuối
cùng sẽ là quan điểm duy vật. Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là tơng
đối nếu nh chúng ta chỉ xét chúng nh là những nhân tó những mặt không thể
thiếu đợc trong hoạt động của con ngời, đặc biệt là hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới của con ngời. Bởi vì, ý thức tự nó không thể cải biến đợc sự vật, không
có khả năng tự biến thành hiện thực, nhng thông qua hoạt động thực tiễn của con
ngời, ý thức có thể cải biến đợc tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiên thực hoá
những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình. Điều này bắt nguồn từ
chính ngay bản tính phản ánh, sáng tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản
tính đó mà chỉ có con ngời có ý thức mới có khả năng cải biến và thống trị tự
nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang rã thành tự nhiên trù phú và sinh động, tự nhiên
của con ngời. Vì vậy tính tơng đối trong sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể
hiện tính độc lập tơng đối tính năng động của ý thức. Mặt khác đời sống con ngời là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống vật chất và đời sóng tinh
thần trong đó ngững nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng, những
nhu cầu vật chất cũng bị nhu cầu tinh thần hoá. Khanửg định tính tơng đối của
sự đối lập giữa vật chất và ý thức không có nghĩa là khẳng định rằng cả hai nhân
tố có vai trò nh nhau trong đời sống và hoạt động của con ngời. Trái lại triết học
Mác-Lênin khẳng định rằng trong hoạt động của con ngời những nhân tố vật
chất và ý thức có tác động qua lại song sự tác động diễn ra trên cơ sở tính thứ
nhất của nhân tố vật chất so với tính thứ hai của nhân tố ý thức.
4. Vai trò của nhân tố vật chất và ý thức
Trong hoạt động của con ngời, nhân tố vật chất giữ vai trò cơ sở, quyết
định. Điều đó trớc hết thể hiện ở chỗ, hoạt động của con ngời bao giờ cũng phải
dựa trên cơ sở các phơng tiện vật chất hiện có. Con ngời không thể dùng ý thức
trực tiếp tác động vào các đối tợng vật chất để đạt đợc kết quả mong muốn.
Trong hoạt động của con ngời, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ
cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định mục đích hoạt động bởi vì con
3
ngời trớc hết phải ăn, ở, mặc... rồi mới nghĩ đến vui chơi, giải trí. Hoạt động
nhận thức của con ngời trớc hết hớng tới mục tiêu cải biến tự nhiên nhằm thoả
mãn nhu cầu sống.
Vai trò cơ sở và quyết định của vật chất còn thể hiện ở chỗ nó quy định khả
năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt động của con ngời. Nó tạo
điều kiện cho nhân tố tinh thần này hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện
thực và qua đó quy định mục đích, chủ trơng, biện pháp mà con ngời đề ra cho
hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa, bổ sung, cụ thể hoá các mục
đích, chủ trơng biện pháp đó. Hoàn cảnh vật chất, phơng tiện vật chất cùng các
quy luật khách quan của chúng luông luôn giữ vai trò chi phối, quyết định nội
dung và hình thức của các nhân tố tinh thần tham gia vào hoạt động cải tạo thế
giới.
Khẳng định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của nhân tố vật chất, triết học
Mác - Lênin đồng thời không coi nhẹ vai trò của nhân tố tinh thần, của tính năng
động chủ quan.
Vai trò của ý thức thể hiện ở vai trò của tri thức, trí tuệ, tình cảm và ý chí.
Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà còn là động lực của
thực tiễn. Không có sự thúc đẩy của tình cảm, ý chí, hoạt động thực tiễn sẽ diễn
ra một cách chậm chạp, thậm chí không thể diễn ra đợc. Nhờ ý chí và tình cảm,
ý thức quy định tốc độ và bản sắc của hoạt động thực tiễn. Tinh thần dũng cảm,
dám nghĩ dám làm, lòng nhiệt tình, chí quyết tâm, tình yêu, niềm say mê đối với
công việc, khả năng sáng tạo và vợt qua khó khăn nhằm đạt tới mục tiêu xác
định... đều có ảnh hởng to lớn đến hoạt động thực tiễn, làm cho nó diễn ra nhanh
hay chậm, quy định tính đặc thù và bản sắc riêng của những hoạt động cụ thể
xác định. Tuy nhiên, cũng cần chú ý rằng, vai trò của ý chí, tình cảm chỉ là động
lực mà không thể là định hớng, kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Sự thành
công hay thất bại của hoạt động thực tiễn, tác dụng tích cực hay tiêu cực của ý
thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ
của ý thức. Do đó, nếu vai trò chỉ đạo mà sai lầm thì tinh thần dũng cảm, lòng
nhiệt tình, chí quyết tâm... chỉ có tác dụng dẫn hoạt động thực tiễn đến thất bại
nhanh hơn. Chính vì vậy, tình cảm, ý chí phải gắn liền với trí thức, trí tuệ, khoa
học. Nh vậy, nhân tố ý thức có tác dụng trở lại quan trọng đối với nhân tố vật
chất.
Song, cũng cần thấy rõ ràng, xét đến cùng tác dụng của ý thức cũng chỉ là tơng đối, có điều kiện. Vai trò tích hay tiêu cực của ý thức chỉ đợc trong một thời
gian nhất định và điều kiện cụ thể. Thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận động
theo quy luật khách quan đòi hỏi ý thức phải biến đổi phù hợp với nó; và nh vậy,
nếu là tiêu cực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của sự vật, hiện tợng trong
thời gian và không gian xác định nhng bản thân yêu cầu khách quan của tiến
trình vận động chung sớm muộn sẽ đào thải ý thức lạc hậu. Mặt khác, xét về bản
4
chất, ý thức là cái có sau, là cái phản ánh; hơn nữa, vai trò của nó còn tuỳ thuộc
vào mức độ chính xác trong quá trình phản ánh hiện thực, do vậy, xét về toàn cụ,
ý thức vẫn là nhân tố thứ hai, bị quyết định.
5. ý nghĩa phơng pháp luận
Nguyên lý triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức có
ý nghĩa phơng pháp luận quan trọng. Nó đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ thực
tế khách quan nhng đồng thời cũng phải phát huy tính năng động chủ quan.
Tính khách quan đặt ra hai yêu cầu. Thứ nhất, phải xem xét sự vật nh chính
nó đang tồn tại, phải xuất phát từ thực tế, từ điều kiện, hoàn cảnh vật chất hiện
có, chống thái độ xuyên tạc, bóp méo sự vật, chống tác phong quan liêu, qua loa,
đại khái, xem xét sự vật một cách chung chung, trừu tợng. Yêu cầu này không
những đòi hỏi chủ thể nhận thức và hành động phải trung thực, thật sự cầu thị, cụ
thể, tỉ mỉ mà còn phải có tri thức khoa học vì nếu không hiểu biết sự vật thì
không có khả năng phản ánh sự vật nh chính nó đang tồn tại. Thứ hai, phải tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan, không thể tuỳ tiện, bất chấp quy
luật, chống chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí. Yêu cầu này đòi hỏi chủ yếu nhận
thức và hành động phải tích luỹ kinh nghiệm, phải học tập phơng pháp, phải
nghiên cứu khoa học để có tri thức ngày càng chính xác hơn, đầy đủ hơn về hệ
thống các quy luật khách quan.
Tính khách quan cũng đòi hỏi đấu tranh chống chủ nghĩa chủ quan. Đấu
tranh chống chủ nghĩa chủ quan không chỉ có ý nghĩa khẳng định và giữ vững
thế giới quan duy vật mà còn có ý nghĩa giúp chúng ta tránh khỏi thất bại trong
hành động thực tế vì chủ nghĩa chủ quan dẫn tới bệnh duy ý chí, t tởng nóng vội,
phiên lu, mạo hiểm, bất chấp quy luật khách quan, đôi khi hành động mù quáng,
kết quả thờng thất bại.
Phát huy vai trò năng động sáng tạo của ý thức có cơ sở lý luận ở bản chất
phản ánh sáng tạo và bản tính xã hội của ý thức, ở tính độc lập tơng đối, ở vai trò
chỉ đạo hoạt động thực tiễn của nó, ở vai trò của lý luận, ý chí, của nhân tố chủ
quan, ở tính tự giác của hoạt động ngời trong trong quá trình xây dựng xã hội.
Phát huy vai trò năng động sáng tạo của ý thức thể hiện ở sự hình thành một
lý thức đúng đắn với sự vật, ở việc phát huy nhiệt tình và ý chí hành động, ở tinh
thần quyết tâm khắc phục khó khăn, ở sáng kiến trong hành động. Nó đối lập với
thái độ tiêu cực, thụ động, trông chờ vào hoàn cảnh cũng nh thái độ đổ lỗi cho
điều kiện khách quan thái độ đầu hàng chịu bó tay trớc khó khăn của hoàn cảnh.
5
Phần II
Sự Vận dụng mối quan hệ vật chất và ý
thức của đảng cộng sản Việt Nam trong
công cuộc đổi mới nền kinh tế
1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối
quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị:
Nh chúng ta đã biết vật chất và ý thức có quan hệ biện chứng với nhau.
Nhân tố vật chất giữ vai trò cơ sở quyết định, còn nhân tố ý thức có tác dụng trở
lại đối với nhân tố vật chất. Vai trò tích cực hay tiêu cực của ý thức chỉ đợc trong
một thời gian nhất định và điều kiện cụ thể vì thế giới vẫn tồn tại khách quan và
vận động theo quy luật khách quan đòi hỏi ý thức phải biến đổi phù hợp với nó,
nếu là tiêu cực ý thức sớm muộn cụng bị đào thải. Mặt khác ý thức là cái có sau,
là cái phản ánh hơn nữa vai trò cảu nó còn tuỳ thuộc vào mức độ chính xác trong
phản ánh hiện thực. Do vậy xét tàon cục ý thức vẫn là nhân tố thứ hai bị quyết
định, cần chú ý rằng vai trò của ý thức chỉ có đợc nếu nó thâm nhập vào quần
chúng và tổ chức xã hội. Nếu nh chúng ta đa nó vào điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể thì chúng ta có thể thấy rằng giữa kinh tế (biểu hiện của vật chất) và chính
trị(biểu hiện của ý thức) cũng có mối quan hệ dàng buộc lẫn nhau. Bởi vì chúng
ta thấy rằng tình hình kinh tế của một nớc là cơ bản quyết định còn chính trị là
cơ bản. Nếu kinh tế của một nớc mà giàu mạnh nhng chính trị thì luôn bất ổn:
đấu tranh giai cấp, tôn giáo, giữa các đảng phái khác nhau của một quốc gia thì
cũng không thể tồn tại lâu dài đợc, cuộc sống của nhân dân sung túc, đầy đủ nhng luôn phải sống trong lo âu sợ hãi vì chiến tranh và chết chóc. Do đó chính trị
của một nớc mà ổn định, tuy nhiều đảng khác nhau nhng vẫn quy về một chính
đảng thống nhất đất nớc và đảng này vẫn đem lại sự yên ấm cho nhân dân, đất nớc đó giàu mạnh cuộc sống nhân dân ấm lo hạnh phúc, ngợc lại nếu nh đất nớc
đó nghèo cho dù chính trị ổn định đến đâu thì cuộc sống của nhân dân cũng trở
lên khó khăn và ắt sẽ dẫn đến đảo chính sụp đổ chính quyền để thay thể một
chính quyền mới đem lại nhiều lợi ích cho nhân dân hơn.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thay đổi theo từng hình thái kinh tế
chính trị xã hội. Trình độ tổ chức quản lý và tính chất hiện đại của nền sản xuất
sẽ là nhân tố quy định trình độ hiện đại và mức sống của xã hội. Sản xuất vật
chất còn nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần xã
hội. Hiện thức lịch sử đã chỉ ra răng mọi quan hệ của đời sống xã hội bao gồm:
quan hệ chính trị, nhà nớc pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ thuật tôn
giáo, ... đều hình thành và biến đổi và phát triển gắn liền với cơ sở kinh tế và sản
xuất nhất định. Trong xã hội đó theo Mác quan hệ giữa ngời với ngời trong quá
trính sản xuất (quan hệ kinh tế)là quan hệ cơ bản nhất quyết định tất các quan hệ
cơ bản khác. Một khi sản xuất phát triển cách thức sản xuất của con ngời thay
6
đổi, năng suất lao động tăng, mức sống đợc năng cao thì các mối quan hệ và mọi
mặt của đời sống cũng đợc thay đổi theo. Sản xuất vật chất hay kinh tế là cơ sở
đầu tiên quan trọng nhất tham gia vào quá trình phân hoá và hoàn thiện chức
năng của con ngời, thoả mãn nhu cầu của con ngời và xã hội. Sự phong phú và
đa dạng của những quan hệ vật chất, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ký
thuật và đời sống tinh thần trong quá trình sản xuất vật chất là cơ sở nảy sinh sự
phong phú và đa dạng trong sự phát triển thể chất năng lực và tinh thần của con
ngời.
Nguyên lý triết học Mác-Lênin là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và
ý thức đòi hỏi chúng ta phải xem xét tình hình các sự vật ( ở đây là nên kinh tế)
từ thực tế khách quan, tránh chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, đồng thời phát huy
vai trò năng động sáng tạo của ý thức, phát huy nỗ lực hoạt động chủ quan trong
hoạt động của con ngời (nh trong hoạt động kinh tế của nớc ta, trong công cuộc
đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xớng đã rất chú trọng trong việc đề
cao yếu tố của con ngời, làm cho ý thức thay đổi mới thâm nhập vào cơ sơ kinh
tế, và động viên quần chúng).
2. Sự vận dụng mối quan hệ vất chất và ý thức trong công
cuộc đổi mới kinh tế của đảng cộng sản Việt Nam
Nh chúng ta đã biết, sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nớc, nền
kinh tế Việt Nam còn nhiều nhợc điểm. Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, cơ cấu
kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng xuất lao động thấp, sản xuất cha đảm bảo
nhu cầu đời sống, sản xuất nông nghiệp cha cung cấp đủ thực phẩm cho nhân
dân, nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hoá cho xuất khẩu.
Trớc tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những chỉ tiêu kế hoạch
năm 1976-1980 quá cao và phát triển sản xuất vợt quá khả năng của nền kinh tế.
Đặc biệt là đã đề ra việc xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng,
đặc biệt là cơ khí và đặt nhiệm vụ hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa
ở miền Nam. Những chủ trơng sai lầm đó cùng với cơ chế quản lý tập chung
quan liêu bao cấp đã tác động xấu đến nền kinh tế, ảnh hởng không tốt tới đời
sống của nhân dân... Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng
50-60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trởng rất chậm chạp: tổng sản phẩm xã hội
tăng bình quân 1,5%, công nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%.
Đại hội Đảng lần thứ V cũng cha tìm ra đợc đầy đủ những nguyên nhân
đích thực củ sự trì trệ trong nền kinh tế của nớc ta và cũng cha đề ra các chủ trơng chính sách và toàn diện về đổi mới, nhất là về kinh tế. Trong 5 năm 19811985 chúng ta cha kiên quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh
tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, lại phạm những sai lầm mới
nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối lu thông.
7
Trong cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội
đã nhận định: Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng
nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đờng lối, xác định đúng mục tiêu và phơng hớng
xã hội chủ nghĩa. Nhng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy
luật khách quan: Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh
tế nhiều thành phần: có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công việc nặng:
duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, có nhiều chủ trơng
sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lơng.
Tất nhiên, ngoài những khuyết điểm chủ quan nêu trên, còn có những
nguyên nhân khách quan nh hậu quả của nhiều năm chiến tranh, bối cảnh quốc
tế... song chủ yếu là do chúng ta phạm sai lầm chủ quan, những sai lầm cùng với
trì trệ trong công tác tổ chức, cán bộ đã kìm hãm lực lợng sản xuất và triệt tiêu
nhiều động lực phát triển.
Nhắc lại tình hình trên để thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức (ở đây là các
chủ trơng chính sách về quản lý) đối với vật chất (là nền kinh tế) và thấy tác
động qua lại giữa kinh tế và chính trị trớc khi có công cuộc đổi mới. Phép biện
chứng duy vật khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào
thải.
Trớc tình hình ngày càng nghiêm trọng trong khủng hoảng kinh tế xã hội ở
nớc ta, Đảng và nhà nớc đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tình hình, lấy ý kiến
rộng rãi của cơ sở, của nhân dân. và đặc biệt là đổi mới t duy về kinh tế. Đại hội
lần thứ VI của Đảng đã rút ra bốn kinh nghiệm lớn, trong đó kinh nghiệm: phải
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Đảng đã đề ra đờng lối đổi mới, mở ra bớc ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nớc ta. Đảng đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, đã phân tích
đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội, đề ra các định hớng
lớn và xác định chủ trơng đổi mới, đặc biệt là đổi mới về kinh tế. Và đến Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII, ta đã đánh giá tình hình chính trị xã hội Việt nam
sau hơn bốn năm thực hiện đờng lối đổi mới: công cuộc đổi mới bớc đầu đã đạt
đợc những thành tựu bớc đầu rất quan trọng. Tình hình chính trị của đất nớc ổn
định, nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bớc đầu hình thành nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà
nớc, nguồn lực sản xuất của xã hội đợc huy động tốt hơn, tốc độ lạm phát đợc
hạn chế bớt: đời sống vật chất tinh thần của một bộ phận nhân dân có phần đợc
cải thiện.
Không chủ quan với những thành tựu đã đạt đợc. Đại hội VII chỉ ra những
tồn tại lớn cần giải quyết, đặc biệt về mặt kinh tế đó là: lạm phát còn ở mức cao
nhiều cơ sở sản xuất đình đốn kéo dài, lao động thiếu việc làm tăng lên... , đồng
thời cũng tự phê bình về việc chậm xác định rõ yêu cầu và nội dung đổi mới, còn
8
nhiều núng túng và nhiều sơ hở trong điều hành, quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trờng
Nh vậy, rõ ràng Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày càng vận dụng đúng đắn
phơng pháp luận duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào
công cuộc đổi mới, tiến hành đổi mới kinh tế trớc để tạo điều kiện đổi mới trong
lĩnh vực chính trị. Đại hội VII, sau khi đã phân tích sâu sắc đặc điểm tình hình
quốc tế và trong nớc đã đề ra mục tiểu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, những
phơng châm chỉ đạo trong năm năm 1991-1995, đặc biệt đáng chú ý là phơng
châm kết hợp động lực kinh tế và động lực chính trị tinh thần.
Lạm phát đợc đẩy lùi từ 67% năm 1991 xuống 17, 5% năm 1992 và còn 5,
2% năm 1993. Tổng sản lợng trong nớc GDP tăng bình quân 8, 2%(mức đề ra
trong năm 1991-1995 là 5, 5-6, 5%). Sản xuất nông nghiệp phát triển tơng đối
toàn diện, sản lợng lơng thực năm năm qua đã tăng 26% so với năm năm trớc,
tạo điều kiện cơ bản để ổn định đời sống nhân dân, phát triển ngành nghề,
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vấn đề lơng thực đợc giải
quyết tốt. Sản xuất công nghiệp đạt nhịp độ tăng trởng bình quân hàng năm 13,
3% (mức kế hoách là 7, 5-8, 5%). Quan hệ kinh tế đối ngoại mở rộng theo hớng
đa dạng hoá và đa phơng hoá, thị trờng xuất nhập khẩu đợc củng cố và mở rộng,
nguồn đầu t vốn từ nớc ngoài tăng mạnh... tăng trởng kim ngạch xuất khẩu trong
5 năm 1991-1995 đạt trên 17 tỉ USD (kế hoạch 12-15 tỉ USD), đảm bảo nhập các
loại vật t, thiết bị và hàng hoá đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống, góp
phần cải thiện cán cân thanh toán thơng mại... Khoa học công nghệ có bứơc phát
triển, đã tập chung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi
mới và phát triển của nớc ta, phục vụ cho việc xây dựng đờng lối, chính sách của
Đảng và Nhà nớc. Lĩnh vực văn hoá- xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, đời
sống nhân dân đợc cải thiện một bớc. Quốc phòng an ninh đợc giữ vững.
Nh vậy, ở đây lại càng thấy rõ tác động của kinh tế đối với chính trị và xã
hội, đối với công tác đối ngoại và công tác quốc phòng an ninh... Đổi mới kinh tế
quyết định nhng các nhân tố chính trị, xã hội, đối ngoại, ... cũng ảnh hởng tích
cực trở lại một cách biên chứng đối với kinh tế.
Với sự thành công của công cuộc đổi mới hơn mời năm (1986 - 1995),
chúng ta càng có cơ sở để khẳng định rằng, công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà
nớc ta là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển khách quan của
lịch sử tức là chúng ta phải thừa nhận giai đoạn phát triển kinh tế thị trờng mà trớc đây chúng ta đã phủ nhận nó mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ
nghĩa t bản. Trớc đây, Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan duy ý trí, vi phạm quy
luật khách quan: nóng vội trong cải tạo chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ ngay nền kinh
tế nhiều thành phần; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng;
duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp; có nhiều chủ
trơng sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lơng; công tác t tởng và quản lý
9
cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng. Quán triệt nguyên tắc khách quan
khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta,
nhiệm vụ này chỉ đợc thực hiện nếu chúng ta kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình
cách mạng và tri thức khoa học.
Trên tinh thần đó, cùng với những kinh nghiệm đã thu đợc những năm đổi
mới, ở Đại hội VIII lần này cũng đã đi từ thực tế khách quan, đánh giá những
đặc điểm của tình hình kinh tế, chính trị xã hội Việt nam, những thuận lợi và khó
khăn, thời cơ và nguy cơ. Đảng ta cũng đã nhận định thuận lợi và khó khăn, thời
cơ và nguy cơ đan xen nhau vì vậy chúng ta phải chủ động nắm thời cơ, vơn lên
phát triển nhanh và vững chắc, tạo ra thế và lực mới; đồng thời luôn luôn tỉnh
táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, kể cả những nguy cơ mới nảy
sinh, bảo đảm phát triển đúng hớng. Xuất phát từ tình hình nói trên và căn cứ vào
Cơng lĩnh của Đảng, cần tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lợc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạch công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây
dựng nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững
chắc, dân giàu, nớc mạnh xã hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra
sức phấn đấu đa nớc ta cơ bản trở thành một nớc công nghiệp.
Và thực tế trong những năm qua, với những chính sách, chơng trình phát
triển kinh tế chính trị xã hội, chính sách ngoại giao hợp lý, chúng ta đã đạt đợc
những bớc tiến rất quan trọng, bình thờng hoá quan hệ với Mỹ, là thành viên của
khối ASEAN (Hiệp hội các nớc Đông Nam á), đặc biệt năm 1998 ta đã trở thành
thành viên của khối APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dơng)... từ chỗ bị bao vây cấm vận nay đã đợc bình thờng hoá đợc tất cả các nớc
lớn, có quan hệ ngoại giao với 167 nớc, quan hệ thơng mại với 120 nớc. Đồng
thời cân bằng quan hệ với các nớc lớn, phát triển quan hệ tốt đẹp với các nớc
láng giềng khu vực. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong việc giữ vững môi trờng hoà
bình ổn định, là nền tảng xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tăng trởng GDP tiếp tục tăng cao, năm 1996 là 9, 3%, năm 1987 là 8, 2%,
năm 1998 là 5, 8% (Do ảnh hởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu
vực). Lạm phát vẫn đợc giữ ở mức dới 10%. Tốc độ tăng trởng của công nghiệp
vẫn đạt hai con số... Đời sống của nhân dân ngày càng đợc ổn định và nâng cao.
Tại Đại hội IX với sự nhất trí cao, Đại hội đã thông qua 5 nghị quyết quan
trọng:
"Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể".
"Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát
triển kinh tế t nhân".
10
"Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ
2001 - 2010".
"Nhiệm vụ chủ yếu của công tác t tởng, lý luận trong tình hình mới".
"Đổi mới và nâng cao chất lợng hệ thống chính trị ở cơ sơ xã, phờng, thị
trấn".
Thực hiện tốt mục tiêu "phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm và xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt". Sau hơn 15 năm tiến hành công cuộc đổi
mới, những thành tựu thu đợc đã chứng minh giá trị to lớn của sự vận dụng đúng
đắn và sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa vật chất - ý thức. Trong công cuộc
đổi mới ở nớc ta, khi thực tiễn đất nớc nảy sinh những vấn đề cần đợc giải đáp về
mặt lý luận, Đảng ta đã đứng trên quan điểm, phơng pháp luận của mối quan hệ
biện chứng để xem xét. Nhờ đó Đảng ta đã hiểu đợc quy luật và định ra đợc đờng lối, phơng châm, bớc đi cụ thể thích hợp với thực tiễn nớc ta.
Nh vậy công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt nam khởi xớng và lãnh
đạo ngày càng đợc cụ thể hoá và đi vào chiều sâu đợc nhân dân nhiệt liệt hởng
ứng và hăng hái thực hiện, chính vì Đảng ngày càng nắm vững và vận dụng đúng
đắn sáng tạo phơng pháp luận triết học toàn diện Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí
Minh. Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới
nhằm tăng trởng nền kinh tế là rất rõ ràng.
Đổi mới là sự nghiệp khó khăn cha có tiền lệ nhng thực tiễn những năm qua
đã chứng tỏ đờng lối đổi mới, chủ trơng chính sách lớn về đổi mới, chủ trơng
chính sách lớn về đổi mới là rất đúng đắn, bớc đi là thích hợp. Những diễn biến
phức tạp của tình hình thế giới, những biến động nhiều mặt của đất nớc ta trong
quá trình đổi mới toàn diện xã hội càng đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, giữ vững
lòng tự tin, quyết tâm khắc phục khó khăn đồng thời phải tỉnh táo, thông minh,
nhậy bén để thích ứng kịp thời với tình hình thực tế biến đổi từng ngày, từng giờ.
Để phát huy tính năng động chủ quan phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách
mạng và tri thức khoa học. Rõ ràng việc đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệt tình, ý
thức cách mạng và tri thức khoa học là hết sức cấp bách và cần thiết. Bởi vì, tri
thức khoa học có đợc hay không cũng nhờ lòng hiểu biết, trí thông minh, ý trí
quyết tâm học tập và nhận thức khoa học; ngợc lại nếu trí thức khoa học phát
huy đợc tác dụng trong thực tế thì nó lại trở thành động lực tăng thêm ý trí và
nhiệt tình cách mạng.
11
Kết luận
Quán triệt phơng pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin và t tởng Hồ Chí
Minh, vận dụng thành thạo mối quan hệ biện chứng vào việc nghiên cứu và
quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trởng nền kinh tế quốc dân, tạo
điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam cất cánh, để từ đó nâng cao hơn nữa vị trí
của Việt Nam trên chính trờng quốc tế, góp phần củng cố hơn nữa sự ổn định
về chính trị đất nớc.
Đòi hỏi Đảng và nhà nớc ta phải kiên trì, kiên định, giữ vững lòng tin,
quyết tâm khắc phục khó khăn đồng thời phải tỉnh táo, thông minh, nhạy bén
để thích ứng kịp thời với tình hình thực tế biến đổi từng ngày, từng giờ.
12
13
Tài liệu tham khảo
1. V. I. Lênin toàn tập
2. Đảng cộng sản Việt Nam - Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ
quá độ lên XHCN.
NXB Sự thật/1991
3. Chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000
NXB Sự thật 1991.
4. Giáo trình triết học Mác - Lênin
NXB Chính Trị Quốc Gia
5. Bài giảng triết học - TS. Đặng Văn Sinh
6. Tài liệu hỏi đáp về các nghị quyết hội nghị lần thứ 5 - Ban chấp hành
TW Đảng khoá IX
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
8. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
10.
Thời báo kinh tế Việt Nam
11.
Tạp chí cộng sản.
14
Mục lục
Lời mở đầu............................................................................................................1
Phần I....................................................................................................................2
Lý luận chung về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức....................2
1. Khái niệm Vật chất......................................................................................2
2. Khái niệm ý thức..........................................................................................2
3. Mối quan hệ giữa vật chất ý thức.................................................................3
4. Vai trò của nhân tố vật chất và ý thức.........................................................3
5. ý nghĩa phơng pháp luận..............................................................................5
Phần II...................................................................................................................6
Sự Vận dụng mối quan hệ vật chất và ý thức của đảng cộng sản Việt Nam
trong công cuộc đổi mới nền kinh tế...................................................................6
1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện
chứng giữa kinh tế và chính trị:.......................................................................6
2. Sự vận dụng mối quan hệ vất chất và ý thức trong công cuộc đổi mới kinh
tế của đảng cộng sản Việt Nam.......................................................................7
Kết luận...............................................................................................................12
Tài liệu tham khảo..............................................................................................14
15