Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Nho giáo và tư tưởng đạo đức của nho giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.83 KB, 20 trang )

CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

Mở đầu

Nho giáo là một trong những dòng triết học ra đời từ thời Cổ đại ở Trung
Quốc, nhng ảnh hởng của nó đối với Trung Hoa thì vô cùng lớn. Thậm chí, chúng
ta không thể nghiên cứu Trung Quốc tách rời Nho giáo. Ban đầu khi đợc truyền
bá vào Việt Nam, Nho giáo đã đợc sử dụng nh một thứ vũ khí để thể hiện sức
mạnh và tham vọng đồng hoá ngời Phơng Nam của phong kiến Phơng Bắc. Triết
học Nho giáo chủ yếu bàn về các vấn đề chính trị, đạo đức luân lý. Nếu lợc bỏ đi
âm mu, tham vọng xâm lợc của phong kiến Phơng Bắc ẩn mình trong Nho giáo
thì Nho giáo cũng là một học thuyết rất tuyệt vời cho một tộc ngời còn rất non trẻ
trong phát triển t tởng, văn hoá, tính dân tộc nh ngời Phơng Nam lúc bấy giờ. Ngời Việt đã rất thông minh nắm lấy cơ hội đó làm cho quá trình "Hán hoá" và
truyền bá Nho giáo của ngời Hán vào Việt Nam thật đặc biệt. Văn hoá Hán và
Nho giáo đợc ngời Việt tiếp biến có chọn lọc. Qua lăng kính của ngời Việt, Nho
giáo bị "khúc xạ" và mang những nội hàm mới. Nói về Việt Nam và văn hoá Việt
Nam lại không thể không kể đến Nho giáo. Trong quá trình du nhập, tồn tại và
phát triển ở Việt Nam, Nho giáo đã góp phần to lớn trong việc kiến tạo bộ mặt
văn hoá Việt Nam. Đặc biệt, chúng ta lại không thể không nói tới con ngời Việt
bởi con ngời với các giá trị tinh thần, đạo đức, thẩm mỹ chính là biểu hiện rõ
nhất của cái gọi là " Văn hoá của một dân tộc".
Lịch sử sản xuất, đấu tranh dựng nớc và giữ nớc của dân tộc Việt đã hình
thành các giá trị đạo đức cho ngời Việt nhng không thể phủ nhận vai trò của Nho
giáo. Nếu sản xuất và đấu tranh giữ nớc là thực tiễn hình thành các giá trị đạo đức
truyền thống của ngời Việt thì Nho giáo chính là hệ thống lý luận làm cho các giá
trị đạo đức đó đợc khái quát lại, thâu tóm lại một cách sâu sắc, có tính "tự giác"
và trở thành chuẩn mực cho các thế hệ ngời Việt. Quan hệ giữa t tởng đạo đức
của Nho giáo và đạo đức của ngời Việt là quan hệ có tính hai chiều. T tởng đạo
đức của Nho giáo đợc từng chọn làm chuẩn mực để giáo dục đạo đức cho ngời
Việt và đặt dấu ấn rất rõ ràng vào nhân cách ngời Việt. Ngợc lại, qua thực tiễn


1


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

phát triển t tởng đạo đức xuất phát từ nhu cầu tự thân của ngời Việt, các phạm trù
đạo đức của Nho giáo đợc mở rộng nội hàm và trở nên phong phú, thể hiện tính
phù hợp trong nhiều thời đại. Việc nghiên cứu t tởng đạo đức Nho giáo và vai trò,
ảnh hởng của nó trong việc xây dựng, hoàn thiện đạo đức con ngời Việt Nam
trong lịch sử và hiện nay nhằm khẳng định những giá trị đạo đức tốt đẹp, bền
vững mà con ngời Việt Nam đã bồi đắp trong lịch sử và rút ra những giá trị, đóng
góp của t tởng đạo đức Nho giáo trong hoàn thiện đạo đức con ngời Việt Nam
trong lịch sử và hiện nay. Đặc biệt , trong bối cảnh hội nhập và sự thay đổi trong
định hớng giá trị nhân cách của ngời Việt Nam, việc phát triển con ngời Việt
Nam bền vững cần có cơ sở triết học vững chắc nhằm vừa đảm bảo, duy trì các
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp mà vẫn chứa đựng yếu tố năng động, hiện
đại.

2


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

Nội dung
i. nho giáo và t tởng đạo đức của Nho giáo
1. Khái quát sự ra đời và phát triển của Nho giáo.
Nho giáo là hệ thống giáo lý của các nhà Nho nhằm mục đích tổ chức xã
hội ổn định. Những cơ sở đầu tiên của Nho giáo đợc hình thành từ thời Tây Chu,
đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán- con thứ của Chu Văn Vơng, là cố
vấn văn hoá và chính trị của nhà Chu. Đến thời Xuân thu- Chiến quốc, Khổng Tử

(551TCN- 479TCN) đã hệ thống hoá những t tởng và tri thức trớc đây thành học
thuyết gọi là Nho giáo hay Nho học.
Vào thời Xuân thu- Chiến quốc từ thế kỷ VIII TCN đến thế kỷ III TCN, xã
hội Trung Hoa có sự chuyển biến mạnh mẽ. Về kinh tế: công cụ lao động là đồ
sắt trở nên phổ biến, phân công lao động ngày càng sâu sắc; các ngành nghề mới
hình thành; tiền tệ xuất hiện; chế độ sở hữu t nhân về t liệu sản xuất hình thành.
Thời đại của Khổng Tử là thời kỳ loạn lạc. Mối quan hệ giữa Thiên Tử với các nớc ch hầu lỏng lẻo. Chế độ Tông pháp nhà Chu bị xoá bỏ; mâu thuẫn xã hội sâu
sắc; chiến tranh với quy mô lớn xảy ra liên miên; đạo đức, luân lý suy đồi; đời
sống nhân dân cùng cực, lòng dân ly tán. Điều kiện lịch sử đặt ra hàng loạt các
vấn đề triết học, chính trị, đạo đức...cần giải quyết. Trớc những yêu cầu của xã
hội , Khổng Tử đã đa ra các t tởng triết học nhằm bình ổn xã hội.
Nho giáo, Nho gia là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ " Nho". Theo
Hán tự " Nho" đợc ghép từ chữ "nhân" (nghĩa là ngời ) đứng cạnh chữ "nhu"
(cần, chờ đợi). Nho giáo hiểu theo nghĩa trực diện nhất đó là học thuyết mà bất
cứ ngời nào trong xã hội cũng phải cần tới . Nho gia hay nhà nho là ngời đọc
thấu sách thánh hiền đợc thiên hạ cần để dạy bảo ngời đời ăn ở cho hợp với luân
thờng đạo lý. Nho gia hay nhà nho còn đợc gọi là "sĩ". "Sĩ" có nhiều cách giải
thích khác nhau. "Sĩ"đợc ghép từ 2 chữ: nhất ( ) (một) và thập ( ) (mời). Kẻ
"sĩ" là ngời học một hiểu mời, từ mời thâu tóm vào một. "Sĩ" so với chữ Vơng (

3


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

) (vua, thiên tử) thì thiếu một mối liên hệ với trời. Kẻ sĩ là ngời thấu suốt tam tài:
thiên, địa, nhân; am tờng cõi trần nhất.
Trong quan niệm về thế giới, Khổng Tử cho rằng sự tơng tác giữa 2 yếu tố
âm, dơng tạo nên sự biến đổi vô tận gọi là Đạo. Theo Khổng Tử, Đạo là cái
huyền vi sâu kín, đúng đắn quy định vạn vật và con ngời. Đạo có Thiên đạo và

Nhân đạo. Ngời hiểu đợc Đạo là ngời hoàn thiện nhất. Con đờng thực hiện Đạo
vô cùng gian truân đòi hỏi cần có ngời am hiểu Đạo, gánh vác Đạo truyền cho
thiên hạ, thay đổi thiên hạ đó là đại nghĩa của Sĩ.
Trớc thời Xuân thu - Chiến quốc, kẻ Sĩ chuyên học văn chơng, lục nghệ
góp phần trị vì đất nớc. Trong thời loạn lạc xã hội nhiều biến động, tầng lớp Sĩ là
tầng lớp trung gian giữa dân thờng và quý tộc. Thân phân kẻ sĩ bấp bênh. Khổng
Tử đa ra học thuyết của mình dành cho kẻ sĩ thích ứng với hoàn cảnh. Kẻ sĩ luôn
Trung dung giữa cuộc đời, siêu thoát khỏi quyền lực dù thân phận có lênh đênh.
Khi đợc làm quan thì "hoằng dơng Đạo" (phát triển Đạo), khi xuống thứ dân thì
"duy hộ Đạo" (bảo lu đợc đạo nên không đau khổ, an bần lạc đạo). Chính vì vậy,
Nho giáo còn đợc coi là Đạo của kẻ Sĩ quân tử.
Nho giáo là sản phẩm của nền văn minh Trung Hoa- nền văn minh vốn là
sự tổng hợp văn hoá lu vực sông Hoàng Hà (đợc cấu tạo từ văn hoá du mục Tây
Bắc và văn hoá nông nghiệp khô Trung Nguyên) với văn hoá nông nghiệp Đông
Nam á. Vậy nên, Nho giáo thực chất là sản phẩm của truyền thống văn hoá du
mục Phơng Bắc và truyền thống văn hoá nông nghiệp Phơng Nam. Hình thành từ
những nguồn gốc nh vậy nên đặc điểm của Nho Giáo mang đậm nét của chất du
mục Phơng Bắc và chất nông nghiệp Phơng Nam
Chất du mục Phơng Bắc đợc Nho giáo nguyên thuỷ tiếp thu thể hiện ở các
điểm: Tham vọng "bình thiên hạ", trọng sức mạnh, chính danh. Còn chất
nông nghiệp Phơng Nam đợc Nho giáo nguyên thuỷ tiếp thu thể hiện: Đề cao
chữ "Nhân" và nguyên lý "Nhân Trị".Ngời nông nghiệp Phơng Nam có lối sống
giản dị, hoà ái với thiên nhiên, cộng đồng. Lối sống trọng tình khiến cho quan hệ
gia đình của ngời Việt nông nghiệp rất bền chặt. Nho giáo rất đề cao chữ Hiếu,

4


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688


Tam cơng ngũ thờng. Ngời quân tử trị nớc đề cao chữ Đức. Nho giáo chủ dùng
Đức trị và Nhân trị.
T tởng Kính đức bảo dân là quan niệm cơ bản để trị dân.
Các quan hệ trong đạo "ngũ luân" là quan hệ 2 chiều bình đẳng, tôn trọng
con ngời: Quân minh thần trung ( vua sáng, bề tôi trung thành); Phụ từ tử hiếu
(cha hiền từ, con hiếu thảo); Phu nghĩa phụ kính (chồng có nghĩa, vợ kính trọng);
Huynh lơng đệ đễ( anh tốt, em nhờng); Bằng hữu hữu tín (bạn bè tin cậy nhau).
Nho giáo tiên Tần coi trọng văn hoá, đặc biệt là văn hoá tinh thần. Các bộ kinh
điển của Nho giáo (Thi, Th, Lễ, Xuân thu, Dịch). Kinh thi bàn nhiều đến tình ngời, cái gốc của điều Nhân. Thấu hiểu đợc Nhạc để dỡng tâm trí thì đức nhã nhặn
sẽ phát triển dễ dàng.
Sự đối lập của hai truyền thống du mục và gốc nông nghiệp cho thấy: một
bên coi trọng võ "Dũng" (phơng Bắc), một bên coi trọng văn thơ Thi, Nhạc
( phơng Nam); một bên chủ trơng xây dựng một xã hội tôn ti trật tự, kỷ cơng rõ
ràng (Chính danh), một bên mong muốn xây dựng một xã hội lấy tình cảm làm
hàng đầu, coi trọng chữ Nhân, quan hệ trong "ngũ luân" có tính hai chiều...
Trong hoàn cảnh xã hội có nhiều biến động nh thời Xuân thu - Chiến
quốc, t tởng của Khổng Tử đa ra không tránh khỏi sự đối lập chứa đựng nhân tố
mâu thuẫn.
Năm 202 TCN, Hán Cao Tổ Lu Bang lên làm vua ban đầu cũng a dùng vũ
lực cai trị ( nặng chất du mục), coi trờng trí thức văn hoá.
Đến thời Hán Vũ Đế ( 140TCN- 87TCN), để phục vụ mục đích xây dựng
nhà nớc Phong kiến, nhà nho Đổng Trọng Th đã đa ra những t tởng bổ sung Nho
giáo ( thiên nhân tơng cảm, tam cơng ngũ thờng, tuyệt đối hoá các quan hệ có
tính một chiều từ trên xuống). Nhà Hán đã sử dụng Nho giáo là hệ t tởng xây
dựng nhà nớc phong kiến. Thực chất, bên ngoài là Nho bên trong là Pháp ("dơng
Nho hành Pháp", "biểu Nho lý Pháp"). Đổng Trọng Th đã "chế biến" Nho Tiên
Tần làm cho Nho giáo bị "nghèo nàn" đi. So với Nho Tiên Tần, Hán Nho là một
bớc lùi nghiêm trọng, tạo ra phong cách học, suy t giáo điều, tớc bỏ sự chủ động

5



CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

sáng tạo, đẻ ra những tấm gơng ngu trung, ngu hiếu của nhiều thế hệ Nho gia
sau này.
Từ thời nhà Đờng, Tống (đặc biệt thời Tống), Nho giáo đợc phát triển và
thể hiện sự pha tạp với các dòng t tởng khác nh Đạo giáo, Phật giáo
Sách kinh điển của Nho giáo gồm 2 bộ: Bộ lục kinh (gồm 6 cuốn: Kinh
thi, Kinh th, Kinh lễ (Lễ ký), Kinh dịch, Kinh Xuân Thu, Kinh Nhạc). Về sau
Kinh Nhạc bị thất lạc chỉ còn lại một ít đợc làm thành một thiên ghép chung với
Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Vì vậy Lục kinh thành ra chỉ còn ngũ kinh. Bộ tứ th
(gồm 4 cuốn: Đại học, Trung dung, Mạnh Tử, Luận ngữ. "Ngũ kinh" và "Tứ Th"
là hai bộ sách gối đầu giờng của các nhà Nho.
2. T tởng đạo đức của Nho giáo
Nho giáo là hệ thống triết học bàn đến nhiều vấn đề nh bản thể luận, t tởng đạo đức, chính trịCác vấn đề đó đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
thành một hệ thống nhất quán.
Khi bàn về khởi nguồn của thế giới, Khổng Tử cho rằng, khởi nguồn của
thế giới là hai yếu tố âm và dơng. Sự tơng tác chuyển hoá âm- dơng tạo nên sự
biến đổi gọi là Đạo hay Dịch, hay Thiên lý ( quy luật điều khiển trời đất và
thiên hạ).
Âm, Dơng tạo ra thanh khí và trọng khí. Tuỳ vào mức bẩm thụ thanh khí
và trọng khí ít nhiều mà làm: Trời, Thần, Quỷ thần, Ngời và vạn vật.
Đạo, Thiên lý là cái huyền vi sâu kín có phép màu quy định vạn vật gọi là
Thiên mệnh. Thiên mệnh quy định vận mệnh xã hội, con ngời. Hiểu đợc thiên
mệnh là ngời hoàn thiện.( "bất tri thiên mệnh vô dĩ quân tử dã")
Nho giáo ra đời xuất phát từ nhu cầu bình ổn xã hội nên trọng tâm của
Nho giáo bàn đến các vấn đề chính trị, đạo đức.
Trong t tởng chính trị, Khổng Tử đa ra thuyết Chính danh và Đức trị. Theo
thuyết Chính danh, mỗi vật, ngời sinh ra đều có địa vị, công dụng nhất định gọi

là Danh. Ngời, vật mang Danh nào phải thực hiện đúng Danh đó gọi là Chính

6


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

Danh ( chính danh là làm cho mọi việc ngay thẳng). Nguồn gốc xã hội rối ren là
do sự sa đoạ của nhà cầm quyền làm cho Danh không đợc Chính."Danh bất
chính, ngôn bất thuận, sự bất thành, xã tắc loạn" (
). Thuyết Đức trị chỉ ra rằng, ngời cai trị phải Thợng Hiền
(có đức). Vua phải có lối sống giản dị, xây dựng lực lợng quân sự hùng hậu,
chiếm đợc lòng tin của nhân dân.
Để thực hiện đợc Chính danh thì Đạo đức là công cụ. Chính vì vậy, các
vấn đề trong học thuyết của Khổng Tử lại bàn đến nhiều nhất, quan trọng nhất là
Đạo đức luân lý.
Khổng Tử cho rằng, ngời hoàn thiện phải có 3 đức lớn gọi là "tam đạt
đức" Trí, Nhân, Dũng.
Thứ nhất, Trí (

)

Trí là sự minh mẫn sáng suốt nói chung để phân biệt, đánh giá con ngời và
tình huống, qua đó xác định cách ứng xử cho phải Đạo.
Bàn về điều Trí, Khổng Tử giảng cho Phàn Trì: "Trí là biết ngời". "dùng
ngời trực, bỏ kẻ gian. Nh vậy có thể giáo hoá kẻ gian thành ngời trực" (Luận
Ngữ). ở hoàn cảnh khác, Khổng Tử lại dạy học trò: "Kẻ tìm chỗ ở không biết
dựng nhà nơi lý tốt sao có thể gọi là ngời có trí".
Ngời có Trí mới hiểu đợc đạo lý phân biệt đợc phải trái, thiện ác, trau dồi
đạo đức và hành động theo luân lý.

Nguồn gốc của trí theo quan điểm của Nho giáo chứa đựng nhiều yếu tố
duy tâm. Chịu sự chi phối của t tởng thiên mệnh, Khổng Tử cho rằng Trí có đợc
do con ngời bẩm sinh bẩm thụ khí trời không cần học cũng hiểu đợc đạo lý. Tuy
nhiên, Khổng Tử còn cho rằng Trí có đợc còn do quá trình học hỏi, rèn luyện, tu
dỡng. Nếu không học dù thiện tâm đến đâu cũng bị cái mê muội phóng đãng làm
cho lầm lạc.
Trí trong quan hệ với các đức khác, Khổng Tử cho rằng: " a làm điều
Nhân mà không a học thì cái hại che lấp là sự ngu muội; a trí xảo mà không a
học thì cái hại che lấp là sự phóng đãng lầm lạc; a dũng cảm mà không a học thì
cái hại che lấp là sự phản loạn; a cờng bạo mà không a học thì cái hại che lấp là
7


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

sự cuồng bạo" (Luận Ngữ). Khổng Tử đề ra chủ trơng giáo dục. Nếu không giáo
dục bản tính tốt của con ngời sẽ mất đi. Trừ có bậc thợng trí và hạ ngu là không
thay đổi đợc bản tính của mình. Con ngời có trí mới vơn đợc tới đức Nhân,
không thể là ngời có nhân nếu không có trí.
Thứ hai, Nhân ( )
Theo hán tự, Nhân ( ) đợc ghép từ bộ nhân đứng (

) và chữ nhị (

). Hai

ngời sống gần nhau sẽ nảy sinh quan hệ ngời với ngời. Ngời với ngời sống gần
nhau, ăn ở hợp lẽ vừa lòng nhau là rất khó. Nhân tức là duy trì quan hệ giữa ngời
với ngời.
Điều Nhân là đạo lý của con ngời, quy định bản tính của con ngời và mối

quan hệ giữa ngời với ngời trong xã hội. Nhân đợc coi là nguyên lý đạo đức cơ
bản nhất trong triết học của Khổng Tử. Cơ sở để Khổng Tử lấy chữ Nhân làm
nguyên lý cơ bản là: Một, xuất phát từ quan điểm cho khởi nguyên của thế giới
là hai yếu tố âm, dơng. Sự tác động yếu tố âm, dơng tạo nên sự biến đổi gọi là
Đạo hay Thiên lý hay Dịch. Con ngời bẩm thụ khí âm, dơng của đất trời nên phải
tuân theo Thiên lý, hợp với đạo "Trung hoà". đạo sống của con ngời phải "Trung
dung"- sống đúng với mình, sống phải với ngời. Hai, Thời đại của Khổng Tử
loạn lạc, đạo lý nhân luân suy đồi. Khổng Tử chủ trơng dùng Nhân để giáo hoá
con ngời. Nhân đợc nhìn theo hai chiều hớng: hớng nội tu kỷ và hớng ngoại thi
hành ra thiên hạ.
Chữ Nhân theo quan niệm của Khổng Tử, không chỉ riêng một đức tính
nào mà chỉ chung mọi đức tính. Ngời có Nhân đồng nghĩa với ngời hoàn thiện
nhất. Điều Nhân có ý nghĩa bao hàm nhiều mặt trong đời sống xã hội. Tuỳ mỗi
hoàn cảnh mà Khổng Tử bàn về nội dung chữ Nhân khác nhau. Trong Luận Ngữ
có khoảng 60 lần Khổng Tử nói về chữ Nhân . Quan niệm về Nhân của Khổng
Tử không nhất quán song có thể thấy trong các lời dạy với các đệ tử.
Giáo huấn về điều Nhân, Khổng Tử giảng cho học trò của mình: Nhân là
ái nhân, yêu ngời. Con ngời khác loài cầm thú chính là ở Nhân vậy. Theo Thầy
Khổng Tử, ái nhân là coi ngời nh mình. Làm ngời có nhiều điều chung quy lại

8


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

chỉ là điều đối với mình và đối với ngời. Yêu ngời, coi ngời nh bản thân: đem
mình ra suy xét mọi việc. Xuất phát từ thuyết "cầu kỷ" và "chấp lỡng đoan", Nho
giáo cho rằng Nhân là phải "Trung" và "Thứ" ( kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục
đạt nhi đạt nhân và kỷ sở bất dục vật thi nhân - Nghĩa là: cái gì mình muốn làm,
muốn đạt đợc hãy làm cho ngời khác; điều gì không muốn thì đừng làm cho ngời

khác). Đây cũng là nguyên tắc mỗi ngời phải thực hiện suốt đời.
Nhan Uyên ( học trò của Khổng Tử ) hỏi về điều Nhân. Thầy Khổng Tử
đáp: "Khắc kỷ phục lễ vi nhân. Nhất nhật khắc kỷ phục Lễ, thiên hạ quy nhân
yên. Vi nhân do kỷ, nhi do nhân hồ tai? ". Nghĩa là chế ớc bản thân thực hành
theo Lễ tức là làm điều Nhân. hàng ngày khắc chế đợc dục vọng của bản thân
làm cho hành động và lời nói của mình hợp với Lễ, thiên hạ sẽ thừa nhận là
mình có điều nhân. Làm điều Nhân là do mình chứ đâu phải do ngời. Lễ là
những quy tắc ứng xử phù hợp với địa vị của mình. Xã hội rối ren suy đồi cũng
là do con ngời không "chính danh", "tiếm quyền việt vị" không thực hành đúng
Lễ . Để xã hội ổn định, đạo đức cơng thờng đợc giữ vững cần thực hành theo Lễ.
Nhân là nội dung, Lễ là hình thức. Ngời có Nhân trớc hết phải theo hớng nội tu
kỷ. Làm đợc điều Nhân là do mỗi ngời tự ý thức. Làm điều Nhân trớc hết làm
cho mình trở thành ngời có Nhân, thiên hạ tất sẽ công nhận.
Nhan Uyên hỏi sâu hơn về điều Nhân Thầy vừa giảng, Khổng Tử giải
thích: "phi Lễ vật thị, phi Lễ vật thính, phi Lễ vật ngôn, phi Lễ vật động" nghĩa
là điều gì trái với Lễ thì không nhìn, điều gì trái với Lễ thì không nghe, điều gì
trái với Lễ thì không nói, điều gì trái với Lễ thì không làm).
Khi nói với Tử Trơng, Khổng Tử dạy: Ngời có Nhân phải thực hiện đợc 5
đức lớn gọi là "ngũ giả" là cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung là cung kính,
nghiêm túc giữ mình, không buông thả. Khoan là đối xử với mọi ngời rộng rãi.
Tín là thực hiện điều mình nói, hành động phải thống nhất với lời nói. Mẫn là
chăm chỉ. Huệ là từ huệ, biết cách ban ơn. Nếu thực hiện Cung thì không bị
khinh nhờn, Khoan thì đợc lòng ngời, Mẫn thì có công, Huệ thì sai khiến đợc ngời.

9


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

Theo quan niệm của Nho giáo, điều kiện để con ngời trau dồi điều Nhân là

phải chất phác, thuần hậu, tình cảm chân thực, hết lòng vì nghĩa, lời nói chậm rãi
.('xảo ngôn, lãnh sắc tiển hỹ nhân").
ở những chỗ khác, Khổng Tử lại cho rằng ngời có Nhân phải làm việc trớc rồi mới hởng sau, sẵn sàng an bần lạc đạo.
Đức Nhân có vai trò đặc biệt quan trọng, là gốc rễ của các đức tính khác.
Đức Nhân yên lặng, vững trãi nh núi, bao nhiêu đức khác bởi đó mà sinh ra. Nếu
Tâm con ngời luôn hớng về điều Nhân con ngời khắc sống tốt, nhân luân đợc giữ
gìn, trật tự xã hội đợc đảm bảo.
Thứ ba, Dũng (

)

Dũng là lòng dũng cảm, không sợ, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn. Nho
giáo cho rằng: "Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã"( thấy việc nghĩa mà không làm
không phải là ngời có Dũng). Con ngời phải có Dũng mới làm trọn đợc điều
Nhân. Còn " Hữu nhân tất hữu dũng, hữu dũng bất tất hữu nhân" (nghĩa là:có
điều Nhân tất có Dũng, có Dũng cha chắc đã có Nhân).
Trong sách Trung Dung, Khổng Tử trả lời Tử lộ về "cờng": " Nam phơng
chi cờng d, Bắc phơng chi cờng d, ức nh cờng d? Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô
đạo. Nam phơng chi cờng dã, Quân tử c chi. Nhẫm kim cách, tử nhi bất yếm.
Bắc phơng chi cờng dã, nhi cờng giả c chi" ( nghĩa là cái mạnh của ngời phơng
Nam chăng, cái mạnh của ngời phơng Bắc chăng hay cái mạnh nào đây? Khoan
dung mềm mỏng để giáo dục, không báo thù kẻ vô đạo đó là cái mạnh của ngời
phơng Nam. Điều quân tử chính là ở chỗ đó. Nằm lên gơm giáo, chết mà không
sợ đó là cái mạnh của ngời phơng Bắc.Điều quân tử là ở chỗ đó.
Cốt lõi của Nho giáo là học thuyết Chính trị nhằm bình ổn xã hội. Để tổ
chức xã hội có hiệu quả điều cốt lõi là đào tạo những ngời cai trị kiểu mẫu đó là
ngời quân tử. Không chủ trơng dùng pháp luật cai trị xã hội, Khổng Tử đã thấy
đợc sức mạnh đạo đức, dùng sức mạnh đạo đức để bình ổn xã hội. Học thuyết
đạo đức của Nho giáo đặt ra nhằm đào tạo mẫu ngời quân tử. Vì vậy, Nho giáo
còn gọi là Đạo của sỹ quân tử.


10


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

Để trở thành ngời quân tử trớc hết phải Tu thân. Tiêu chuẩn của việc tu
thân là đạt đạo ( thực hiện năm đạo là quân-thần, phụ-tử, phu-phụ, huynh-đệ,
bằng-hữu còn gọi là ngũ luân); đạt đức ( có 3 điều Trí, Nhân, Dũng); biết thi - th
- lễ - nhạc. Bổn phận của ngời quân tử là phải hành đạo đem hiểu biết của mình
ra cai trị đất nớc. Quá trình hành đạo bắt đầu từ Tu thân, Tề gia, Trị quốc,
Bình thiên hạ. Phơng trâm của ngời cai trị là dùng Nhân trị và Chính danh.

II. quá trình thâm nhập nho giáo vào việt nam và ảnh hởng, vai trò của t tởng đạo đức nho giáo với việc xây
dựng và hoàn thiện đạo đức con ngời việt nam
1.Quá trình truyền bá, phát triển Nho giáo ở Việt Nam
Năm 179 TCN, Triệu Đà đem quân xâm lợc Âu lạc đã thống trị trên đất
Việt, biến Âu Lạc thành hai quận của Trung Hoa là Giao Chỉ và Cửu Châu. Để
nô dịch nhân dân ta về tinh thần, Nhà Hán đã đa Nho Giáo vào đất Việt, đồng
hoá văn hoá. Buổi đầu, Thái Thú Tích Quang và Nhâm Diên tích cực "dựng học
hiệu, dạy lễ nghĩa" với mục đích đào tạo tầng lớp quan lại phục vụ cho bộ máy
cai trị và dạy lễ nghĩa cho ngời dân. Năm 187-226, Sỹ Nhiếp cai trị Giao Chỉ lần
đầu tiên tổ chức việc học ở Việt Nam ( "Nam giao học tổ"). Thời Sỹ Nhiếp làm
Thái Thú Giao Chỉ, hàng trăm sỹ phu Trung Hoa sang Việt Nam đẩy mạnh
truyền bá Nho giáo và Hán học. Mở trờng ở Luy lâu (Thuận Thành - Bắc Ninh)
và Long Biên. Mục đích phát triển Hán học nhằm Hán hoá và phát triển t tởng
"trung quân" của Nho giáo.
Con đờng truyền bá, học tập Nho, chữ Hán gồm có: các trờng lớp do các
sỹ phu, quan lại ngời Trung Hoa lập nên và nhân dân tự học chữ ở các nhà chùa.
Nho giáo vào Việt Nam là một quá trình đặc biệt từ phản ứng đến tiếp

thu, từ xa lạ đến gần gũi, từ Nho giáo là công cụ thống trị của bên ngoài thành vũ
khí của bản thân.

11


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

Thời Bắc thuộc, đất nớc, con ngời Việt Nam diễn biến theo hai chiều hớng: hớng Hán hoá và chống Hán hoá. Tuy Nho giáo đã đợc đa vào Việt Nam
nhng cha có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam.
Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi bắt tay vào xây dựng nhà nớc Phong
kiến tập quyền. Do nhu cầu xây dựng bộ máy nhà nớc và đòi hỏi về tri thức của
giai cấp thống trị cần phát triển một nền văn hoá phục vụ cho chế độ phong kiến.
Nho giáo đợc đề cao và sử dụng nh là vũ khí sắc bén trên lĩnh vực chính trị, văn
hoá, t tởng.
Đến năm 1070, nhà Lý lập Văn Miếu ở kinh đô Thăng Long thờ Chu
Công và Khổng Tử. Nho giáo đợc xem là tiếp nhận chính thức ở Việt Nam. Thời
nhà Lý ở Việt Nam tơng ứng với thời nhà Tống ở Trung Hoa. Nho giáo ở Việt
Nam là Tống Nho. Nho giáo thời kỳ Lý - Trần ( thế kỷ X-XIV) đợc cải biến
khiến cho nhiều khái niệm mang tính nhân dân và tính dân tộc. Biểu hiện rõ nét
nhất là các phạm trù "trung", "hiếu", "đức trị", "thần quyền"...không mang tính
một chiều.
Đến thời Lê - Nguyễn, cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến, Nho
giáo đợc phát triển, đề cao và đợc tôn làm quốc giáo. Đặc điểm nổi bật của Nho
Giáo Việt Nam thời kỳ này là không chú ý nhiều đến học thuật, thuần tuý kinh
viện. Nho giáo vận dụng các phạm trù vào để phục vụ cho mục đích cứu nớc và
mang nội hàm mới. Ngời có công phát triển Nho giáo và làm cho Nho giáo trở
thành yếu tố văn hoá không thể thiếu của Việt Nam là Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi
đã đem lại cho các phạm trù Nho giáo vốn cứng nhắc một chiều yếu tố mềm dẻo,
có lợi cho hành động của con ngời.

"Trung với nớc, hiếu với dân"
"việc nhân nghĩa cốt để yên dân, quân điếu phạt trớc lo trừ bạo"
"lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cờng bạo"
"giữ hoà hiếu hai nớc
tắt muôn đời chiến tranh"
T tởng lấy dân làm gốc:

12


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

"mến ngời có nhân là dân, chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là
dân",
"rợu hoà một nớc, trên dới một dạ cha con, lòng thơng dân "
Khoảng những năm thế kỷ XVIII, cùng với sự suy tàn của nhà nớc phong
kiến, Nho giáo suy yếu dần. Thế kỷ XI, nhà Nguyễn ra sức tuyên truyền và trấn
hng Nho giáo. Nho giáo vận động theo hai chiều hớng: Hớng bảo thủ tuyệt đối
hoá các phạm trù nho giáo. Hớng tiến bộ không chịu sự ràng buộc của các phạm
trù Nho giáo hớng đến giải phóng cá tính.
2. Sự ảnh hởng, vai trò của t tởng đạo đức Nho giáo đến với việc xây dựng,
hoàn thiện đạo đức con ngời Việt Nam trong lịch sử và hiện nay
Đạo đức với t cách là một hình thái ý thức xã hội đợc hình thành trong
hoạt động thực tiễn của ngời Việt. Các chuẩn mực, giá trị đạo đức con ngời Việt
Nam đợc hình thành trong hoạt động sản xuất, đấu tranh dựng nớc và giữ nớc.
Các t tởng Nho giáo nói chung và các t tởng về đạo đức nói riêng khi truyền bá
vào Việt Nam đã xâm nhập đợc vào đời sống tinh thần của ngời Việt và đợc tiếp
biến theo lăng kính của ngời Việt.
Cơ sở để các phạm trù đạo đức của Nho giáo có thể bám rễ chính là ở
điểm tơng đồng của yếu tố nguồn gốc. Nho giáo là sản phẩm của nền văn hoá

đậm chất nông nghiệp Phơng Nam thể hiện tinh thần dân chủ, hoà ái, nhân
nghĩa, mềm dẻo Khi truyền bá vào Việt Nam-đất nớc Phơng Nam dựa trên nền
sản xuất nông nghiệp-đã tìm thấy điểm tơng đồng. Đối với ngời c dân Phơng
Nam, khi bị phong kiến Phơng Bắc xâm lợc và bị đồng hoá bằng văn hoá Hán đã
tiếp thu những điểm tơng đồng và biến đổi cho phù hợp với nhân sinh quan của
mình.
Nho giáo đã trở thành nền tảng đầu tiên cho nền giáo dục nớc nhà và là cơ
sở lý luận để xây dựng nhà nớc phong kiến đầu tiên của Việt Nam. Những quan
niệm về nội dung, phơng pháp giáo dục, t tởng đạo đức, các phạm trù, điển tích...
của Nho giáo đợc sử dụng vào giáo dục. Các giá trị văn hoá tinh thần nói chung
và đạo đức nói riêng đều chịu ảnh hởng đậm nét của Nho giáo. Sự ảnh hởng, vai
13


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

trò của t tởng đạo đức Nho giáo đến xây dựng, hoàn thiện đạo đức con ngời Việt
Nam có thể nhìn ở những góc độ, nội dung cụ thể sau:
Một là, các giá trị đạo đức truyền thống của ngời Việt
Đặc điểm cách trình bày các t tởng đạo đức của Nho giáo thờng thông qua
các tích, tình huống, lời răn dạy của cổ nhân nên dễ nhớ, dễ đi vào lòng ngời.
Cùng với quá trình hình thành các giá trị đạo đức tự thân của ngời Việt,T tởng
đạo đức Nho giáo đã hình thành các giá trị đạo đức truyền thống của ngời Việt:
Hiếu học, kính thầy
Quá trình tiếp nhận văn hoá hán của ngời Việt rất đặc biệt. Sự tiếp biến có
chọn lọc và học văn hoá Hán để chống Hán. Việc học chữ Hán không chỉ diễn ra
trong các trờng dành cho con quan lại quý tộc mà còn diễn ra trong các đình,
chùa. ở Việt Nam, việc học trở thành nhu cầu tinh thần không thể thiếu và là con
đờng để đổi đời. Việc học không liên quan đến nhà nớc, mỗi gia đình tự lo. Tính
xã hội hoá trong giáo dục đã hình thành từ lâu đời nh vậy. Chế độ học tập ấy đã

tạo cho đất nớc một nền học vấn phổ cập rộng rãi, hiếu học, biết trân trọng
yêu quý văn học. Từ nét văn hoá hiếu học nh vậy đa đến nét văn hoá tốt đẹp
trọng thầy, quý trò. Vai trò ngời thầy đợc đề cao ("không thầy đố mày làm
nên","Kính thầy mới đợc làm thầy")
Trung quân ái quốc
Các nhà Nho khác của Việt Nam đã thấm triết lý nhân sinh của Nho Giáo:
"phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại
trợng phu"
Phú quý không bị lôi cuốn, nghèo nàn không bị thay đổi, uy vũ không
khuất phục, nh vậy mới là đại trợng phu.
Ngời Việt Nam đã tiếp thu triết lý sống của Đạo Nho. Ngời Việt quý trọng
cái sống nên không hề do dự hiến thân cho sự nghiệp đấu tranh sinh tồn tự nhiên,
giữ gìn độc lập dân tộc. Các tấm gơng lớn hy sinh cho đất nớc lu danh muôn
thủa, góp phần làm giàu truyền thống tốt đẹp đó là truyền thống yêu nớc bất
khuất, kiên cờng.
Hiếu đễ
14


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

Do ảnh hởng của nền văn minh nông nghiệp lúa nớc, xã hội Việt
Nam từ xa xa đợc kết cấu theo mô thức gia đình, họ hàng, làng nớc. Yếu tố
huyết thống đợc đề cao. Trớc khi đạo Khổng du nhập, ngời Việt đã có tín ngỡng
thờ cúng tổ tiên- biểu hiện của huyết thống. Gia đình là tổ tông nhỏ, dòng họ là
tổ tông lớn, đất nớc là tổ tông cao nhất. Chuẩn mực đạo đức đầu tiên và cao nhất
mỗi ngời phải thực hiện bắt đầu từ chữ Hiếu và kết thúc là chữ Trung. Hiếu đễ
là gốc của điều Nhân ("hiếu đễ dã giả kì vi nhân chi bản d")
Nhân nghĩa
Ngời Việt là c dân nông nghiệp lúa nớc. Sống hoà ái với tự nhiên và con

ngời là bản chất vốn có. Cũng do nhu cầu trị thuỷ để phát triển sản xuất mà sự
đoàn kết, yêu thơng rộng rãi đợc hình thành. Nhân, nghĩa vốn là các chuẩn mực
đạo đức mà đạo Nho đa ra nhng các chuẩn mực đạo đức đó dành cho mỗi cá
nhân trong tu thân và thực hành đạo đức cá nhân. Khi truyền bá và phát triển ở
Việt Nam, ngời Việt đã biết mở rộng quan niệm và thực hành Nhân nghĩa (đại
nghĩa). Trong thời kỳ xây dựng chế độ phong kiến của Việt Nam, cùng với sự
kết hợp t tởng Phật giáo trong trị nớc và hình thành đạo đức của ngời Việt, các
giá trị đạo đức nhân nghĩa của đạo Nho có sự pha tạp với các t tởng từ bi hỷ xả
của đạo Phật.
Thơng ngời nh thể thơng thân
T tởng Trung, Thứ của Nho giáo khi truyền bá vào Việt Nam đã có cơ sở
bám rễ khi có điểm tơng đồng với quan niệm của ngời Việt nh: một con ngựa
đau cả tàu bỏ cỏ, bầu ơi thơng lấy bí cùng, tuy rằng khác gióng nhng chung
một giànnhững giá trị nhân văn trong đạo đức của ng ời Việt vốn đã hình
thành trên cơ sở nền văn minh lúa nớc khi kết hợp với các phạm trù đạo đức có
tính lý luận của Nho giáo càng trở nên sâu sắc, bền chặt hơn.
Hai là, các chuẩn mực đạo đức
Vai trò của các t tởng đạo đức Nho giáo không chỉ ảnh hởng có tính tự
phát đến sự hình thành các giá trị đạo đức của ngời Việt mà còn là cơ sở lý luận
cho các nhà t tởng Việt Nam đa ra các chuẩn mực đạo đức cho ngời Việt. Điển
hình là t tởng đạo đức của Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh
15


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

Nguyễn Trãi sống ở thời kỳ phong kiến. Ông là ngời đầu tiên có ý thức
sâu về khái niệm "nớc" và "yêu nớc". Yêu nớc trên cơ sở thơng dân
Theo Nguyễn Trãi, khái niệm nớc với dân là một. Kết cấu văn hoá làng xã
Việt Nam theo mô thức gia đình-làng xã-nớc nhà. Trong tâm thức ngời Việt, lợi

ích đất nớc thống nhất với lợi ích của các gia đình, cá nhân (nớc mất nhà tan).
Nho giáo bàn về Trung hiếu cho rằng trung với Vua, hiếu với cha mẹ. Qua t tởng
của Nguyễn Trãi, t tởng Trung, Hiếu của Nho giáo đợc mở rộng nội hàm Tận
trung với nớc, Tận hiếu với dân
Coi trọng nhân dân. Nho giáo vốn coi trọng Đức trị và lấy dân làm gốc.
Kế thừa các t tởng của Nho giáo, Nguyễn Trãi cho rằng ngời cai trị phải có Đức
và coi trọng vai trò của nhân dân.
Nhân nghĩa: "phàm mu lợc lấy nhân nghĩa làm gốc, dựng nên công to
phải lấynhân nghĩa làm đầu, chỉ nhân nghĩa gồm đủ thì việc lớn mới xong xuôi".
Chủ trơng hoà bình "lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chi nhân thay cờng bạo"
Hồ Chí Minh
T tởng Hồ Chí Minh về đạo đức hình thành trên cơ sở kết hợp các giá trị
đạo đức truyền thống và yêu cầu xây dựng đạo đức mới cho con ngời Việt Nam
trong thời đại cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh đã đa ra các chuẩn mực đạo đức
mà mỗi ngời cần có là: trung với nớc, hiếu với dân, cần, kiệm, liêm chính, chí
công vô t, yêu thơng rộng rãi (đại đoàn kết), nguyên tắc rèn luyện đạo đức
Vai trò đạo đức Nho giáo với hoàn thiện đạo đức con ngời Việt Nam
hiện nay
Con ngời Việt Nam hiện nay trong thời kỳ đổi mới có sự thay đổi định hớng giá trị nhân cách. Bên cạnh những giá trị đạo đức tốt đẹp hình thành cũng
xuất hiện nhiều hiện tợng tiêu cực. Con ngời chạy theo lối sống xa hoa, ích kỷ,
chú ý nhiều đến lợi ích cá nhân, lợi ích trớc mắt. Sự phát triển con ngời Việt
Nam bền vững đợc đặt trên những cơ sở lý luận đạo đức nhất định. T tởng đạo
đức Nho giáo đã từng đóng góp nhiều trong hình thành các giá trị đạo đức và các
chuẩn mực đạo đức của ngời Việt. Bằng phơng thức tiếp thu đặc biệt có chọn lọc
và cải biến, các t tởng đạo đức Nho giáo đã đợc mở rộng nội hàm chứng tỏ sự
16


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688


bền vững giá trị trong nhiều thời đại. Cho đến nay các t tởng đạo đức Nho giáo
vẫn còn những giá trị tích cực đặc biệt trong quá trình xây dựng con ngời mới.

17


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

Kết luận

Trên đây chỉ là một số nét điển hình về du nhập của Nho giáo và tiếp biến
Nho giáo của ngời Việt có chọn lọc để xây dựng các giá trị đạo đức và các chuẩn
mực đạo đức cho riêng mình. Từ những nét tơng đồng là tinh hoa văn hoá nông
nghiệp Phơng Nam đợc phản ánh trong Nho giáo và điều kiện sống của ngời
Việt, Ngời Việt đã cấu trúc lại Nho giáo, các phạm trù đạo đức thành cái của
riêng mình. Để tiếp thu các giá trị đạo đức Nho giáo-hệ t tởng đã ra đời từ hằng
ngàn năm cần có sự nghiên cứu sâu các phạm trù đạo đức của Nho giáo và hiện
thực phát triển, thay đổi định hớng giá trị nhân cách của ngời Việt để có những
tiếp thu tích cực, phù hợp.

18


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

Tài liệu tham khảo

1. Đại cơng triết học Trung Quốc, PTS Doãn Chính (chủ biên), Nxb Chính trị
Quốc gia, HN,1997
2. Đạo Nho và Văn hoá Phơng Đông, Hà Thúc Minh, Nxb GD, HN, 2002

3. Luận Ngữ - Thánh kinh của Ngời Trung Hoa, Hồ Sĩ Hiệp biên soạn, Nxb
Đồng Nai, 1996
4. Tìm về bản sắc Văn hoá Việt Nam, PGS Trần Ngọc Thêm, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, 2001
5. 40 năm viện Triết học- một số kết quả nghiên cứu, PGS-TS Nguyễn Trọng
Chuẩn (chủ biên), HN, 2002
6. Khổng Tử, Nguyễn Hiến Lê

19


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

Mục lục

Trang
Mở đầu .. ..1
Nội dung......................3
I. Nho giáo và t tởng đạo đức của Nho giáo3
I.1. Khái quát sự ra đời và phát triển của Nho giáo.................3
I.2. T tởng đạo đức của Nho giáo6
II. Quá trình thâm nhập Nho giáo vào Việt Nam và ảnh hởng, vai trò của t tởng
đạo đức Nho giáo với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con ngời Việt Nam
..11
II. 1.Quá trình truyền bá, phát triển Nho giáo ở Việt Nam...11
II.2. Sự ảnh hởng, vai trò của t tởng đạo đức Nho giáo đến với việc xây dựng,
hoàn thiện đạo đức con ngời Việt Nam trong lịch sử và hiện nay..13
Kết luận ....18
Tài liệu tham khảo19


20



×