Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Những giá trị và hạn chế của nho giáo trong xã hội VN hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.6 KB, 28 trang )

CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

PHẦN MỞ ĐẦU
Nho giáo ra đời từ thế kỉ VI trước Công nguyên tại Trung Quốc, do Khổng Tử
sáng tạo. Đây không những là một học thuyết thống trị trong xã hội Trung
Hoa suốt một thời gian dài, mà còn du nhập và có ảnh hưởng rất sâu sắc đến
nước ta thông qua con đường xâm lược của phong kiến phương Bắc. Trong
suốt hơn một nghìn năm Bắc thuộc và nhất là trong các triều đại phong kiến
Việt Nam (chủ yếu từ thế kỉ X đến XIX) Nho giáo đã có những tác động to
lớn vào mọi mặt đời sống tinh thần của người Việt Nam. Ở một khía cạnh nào
đó nó cũng góp phần xây dựng một yếu tố truyền thống của người Việt. Như
giáo sư Đào Duy Anh đã nói: “ Không ai chối cãi được rằng Khổng giáo hay
Nho giáo đã tham gia một phần quan trọng vào sự đúc nặn cái diện mạo tinh
thần của dân tộc và sự tạo thành văn hoá của dân tộc. Cho nên trong cuộc
cách mạng văn hoá hiện nay chúng ta tất phải nghiên cứu Khổng giáo hay
Nho giáo để xem nó ảnh hưởng đến văn hoá của chúng ta như thế nào”( Đào
Duy Anh, Nho Giáo tại Việt Nam, Tr 23, 1994). Vì vậy trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, để xây dựng con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, vấn đề đặt ra là phải giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa
con người Việt Nam truyền thống và con người Việt Nam hiện đại. Chính vì
vậy, trong bài tiểu luận này, em chọn đề tài “Những giá trị và hạn chế của
Nho giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay” nhằm mục đích tìm hiểu sơ qua
về quá trình hình thành, phát triển, nội dung chính của học thuyết Nho giáo,
quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam và đặc biệt là xem xét, đánh giá
các nhân tố tích cực và tiêu cực của nó đối với xã hội Việt Nam hiện đại.

1


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688


NỘI DUNG CHÍNH
I.
1.

NHỮNG NÉT CHÍNH VỀ HỌC THUYẾT NHO GIÁo
Sơ lược về lịch sử học thuyết Nho giáo

Ở Trung Quốc, khoảnh thế kỉ XII Tr CN, bộ tộc Chu nổi lên chinh phục các
bộ tộc lân cận, chuẩn bị lật đổ nhà Thương. Khoảng thế kỉ XI Tr CN, con trai
của Chu Văn Vương là Chu Vũ Vương đã diệt vua Trụ của nhà Thương, lập
nên nhà Chu. Từ khi nhà Chu lên giữ ngôi thiên tử, chế độ vẫn theo lối phong
kiến (phong hầu kiến quốc), chia thiên hạ thành 70 nước để phong cho các
công thần va con cháu làm chư hầu. Các nước chư hầu đều có quyền tự chủ
nhưng hàng năm phải triều cống thiên tử nhà Chu và theo lệnh nhà Chu đi
chinh phạt những khi có chiến sự. Khi nhà Chu còn thịnh thì trật tự trên vẫn
được đảm bảo. Nhưng khi nhà Chu suy nhược, mệnh lệnh không còn được
các nước chư hầu nghe theo, chư hầu phân ra đến 160 nước. Chiến tranh liên
miên kéo theo đó là cương thường đổ nát, nhân dân oán thán. Thời đại ấy
trong lich sử Trung Quốc gọi là Xuân Thu (hay thời Tiền Tần). Thời buổi
loạn lạc, người người tham phú quý, mê danh lợi, không thiết nhân nghĩa,
nhân dân khổ sở. Vì thế người trong nước mới lo tìm cách cứu vớt thiên hạ,
do đó các học thuyết đua nhau ra đời. Theo sách sử chép thì ở Trung Quốc lúc
bấy giờ có tới 130 học phái, trong đó có 6 phái lớn nổi bật là: Nho gia, Mặc
gia, Đạo gia, Danh gia, Pháp gia và Ân Dương gia, mà ảnh hưởng lớn nhất là
ba học phái đầu tiên: Nho gia, Mặc gia và Đạo gia.
Nho gia (Nho giáo) xuất hiện ở Trung Quốc chính vào thời Xuân Thu đầy
những biến động ấy do Khổng Tủ (551 – 497 Tr CN) sáng lập. Tuy rằng có
nhiều nhà nghiên cứu khẳng định Tước khi có học thuyết Nho giáo của
Khổng Tử thì đã có những người và tầng lớp xã hội được gọi lag Nho. Nhưng
cũng không ai phủ nhận Nho giáo từ thời Xuân Thu trở đi nhờ Khổng Tử mà

trở thành học thuyết có hệ thống, tôn chỉ rõ ràng. Vì vậy về sau nói Khổng
2


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

giáo cũng chính nói Nho giáo. Khổng Tử tên là Khổng, tự là Trọng Ni, sinh ở
nước Lỗ trong một gia đình quý phái nhưng đang trong thời kì sa sút. Vì thế
thủa bé ông đã biết đến những việc nặng nhọc, vất vả. Có lẽ đó cũng là một
trong những lí do khiến học thuyết của ông có nhiều quan điểm coi khinh lao
đông chân tay. Khổng Tử là người rất thông minh, nhân hậu, từ nhỏ đã ham
học, hay chú ý về lễ nghi, phép tắc của con người nhất là những bậc đế
vương. Nhưng hết thẩy những tư tưởng đao đức và việc làm của ông trong
suốt cuộc đời đều nhằm mục đích cứu đời, giúp nước cho dù nó có phần hạn
chế khi muốn khôi phục thể chế nhà Chu trên cơ sở những chủ trương cải
lương, ôn hoà nhằm không đảo lộn đẳng cấp xã hôi. “Khổng Tử khảo cứu chế
độ và phong tục thời cổ, ngẫm nghĩ những tư tưởng của các bậc thánh hiền
đời trước và suy xét cái lẽ biến hoá của trời đất, rồi đem những điều mình tâm
đắc lập thành học thuyết có tông chỉ rất cao, quán triệt cả căn nguyên của vạn
vật và các lẽ sinh hoá của vạn vật, cả tâm tính và hành động của người
ta”(Trần Trọng Kim, Nho Giáo, NXB văn hoá thông tin 2001). Ông đi chu du
khắp nơi trong nước mong tìm được minh quân để phò giúp nhằm khôi phục
hoà bình, thống nhất đất nước, nhưng không được trọng dụng, phần vì không
tìm được minh chủ, phần vì học thuyết của ông thoát ly hiện thực. Cuối đời,
hết sức thất vọng, ông trở về nước Lỗ chuyên tâm dạy học, chỉnh lý, san định
sách cổ nhằm giữ gìn, truyền bá văn hoá cổ đại. Những tập sách đó sau này
tập trung thành Ngũ Kinh, gồm có: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh lễ, Kinh Xuân
Thu. Ông không có trước tác riêng truyền lại cho hậu thế, nhưng học trò của
ông có hàng ngàn người, học ghi chép lại những lời Khổng Tử và soạn lại
trong các bộ Luận Ngữ, Trung Dung, Đại Học nhằm truyền đạo cho ông (ba

bộ trên sau này cùng với bộ Mạnh Tử hợp thành Tứ thư). Sau khi Khổng Tử
mất, hoc thuyết cảu ông chia ra làm nhiều phái, mỗi phái có ý nghĩa khác
nhau, nhưng hầu như càng về sau tinh thần của Nho giáo ngày càng kém đi và
xa rời dần so với những tư tưởng ban đầu của Khổng Tử. Tuy nhiên dù gặp
nhiều thăng trâm trong lịch sử nhưng Nho giáo vẫn trở thành công cụ đắc lực
3


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

của gia cấp thống trị nhằm duy trì quyền lực của mình trong xã hôi phong
kiến. Từ đời Xuân Thu cho đến các đời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh,
Thanh trong hơn 2000 năm, Nho giáo cùng với ngai vàng của các triều đại đã
cùng nhau thống trị đời sống tinh thần của con người trong xã hội phong kiến.
Cho tới ngày nay khi đã kết thúc vai trò lịch sử của mình, Nho giáo vẫn có
những ảnh hưởng nhất định đối với xã hội Trung Quốc và một số quốc gia
châu Á khác trong đó có Việt Nam.
Tóm lại, Nho giáo là học thuyết có lịch sử lâu đời và mạng nhiều tính chất
phức tạp. Ngoài ra quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam cũng có
nhiều đặc biệt đáng lưu ý và đòi hỏi có sự nghiên cứu, tìm hiểu một cách to àn
diện khách quan
2.

Quá trình du nhập và phất triển Nho giáo ở Việt Nam

Nho giáo là học thuyết có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài tại Trung Quốc và
một số quốc gia châu Á khác trong đó có Việt Nam. Nho giáo du nhập vào
Việt Nam không phải theo con đương giao lưu văn hoá mà là theo vó ngựa
của quân xâm lược, được thế lực phong kiến phương Bắc âm mưu sử dụng
làm công cụ đồng hoá nhân dân ta. Cũng chính vì thế nên ban đầu khi mới du

nhạp, Nho giáo không nhận được sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam, mà thậm
chí trong hơn 1000 năm Bắc thuộc nó còn bị tẩy chaym chối bỏ. Tuy nhiên từ
thế kỉ X sau khi nước ta giành độc lập thì nhân dân ta dần tiếp thu những tư
tưởng chủ đạo của Nho giáo mà rõ nét hơn cả là việc các triều đại phong kiến
Việt Nam đã sử dụng Nho giáo như là hệ tư tưởng, công cụ trị nước, công cụ
đào tạo con người nhằm phục vụ gia cấp thống trị. Khi đó các triều đại phong
kiến Việt Nam đã nhận thấy Nho giáo là học thuyết có lợi cho sự thống trị của
mình nên đã không ngừng củng cố và đề cao nó, nhất là ở việc giáo dục theo
Nho giáo. Tuy nhiên ở các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê do phải củng cố chính
quuyền nên sự tác động của Nho giáo chỉ ở mức dộ công cụ để củng cố bộ
máy nàh nước chứ chưa ảnh hưởng đến chế độ khoa cử. Đến thời Lý, nền
4


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

giáo dục Nho học được chính thức xác lập kể từ khi vua Lý Thánh Tông
(1034 – 1072) trị vì. Đây là Thời kì mà triều đại phong kiến Việt Nam hình
thành về cơ bản. Nhà Lý mở trường dạy Khổng giáo và tổ chức các kì thi
Khổng giáo. Tháng tám, mùa thu năm Canh Tuất 1070 nàh Lý cho xây dưng
Văn Miếu, đắp tương Khổng Tử, Chu Công và thất thập nhị hiền. Đây là sự
kiện đánh dấu việc nho giáo được chính thức thừa nhận về mặt nhà nước.
Năm 1075 vua Lý Nhân Tông (1073 – 1127) đã tuyển những người học rộng,
am hiểu Khổng giáo và tổ chức thi “Minh kinh bác học”, “Nho học tam
trường”. Năm 1076 Vua Lý cho thành lập Quốc Tử Giám bên cạnh Văn Miếu
và đặt ra Hàn lâm viện. Qua đó vau Lý đã khẳng định nền giáo dục chính
thống la nền giáo dục Nho học. Đến thời Trần, giáo dục Nho họpc tiếp tục
phát triển, phép thi quy củ hơn. Năm 1227 vua Trần Thái Tông (1225 – 1258)
mở khoa thi “Tam giáo” nghĩa là thi những người học Nho, Phật và Lão giáo.
Năm 1232, vua Trần Thánh Tông cho mở khoa thi “Thái học sinh” lấy 3

người đoc đầu gọi là Tam khôi gồm có Trang nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.
Ngoài ra nhà vua cong đặt quốc học viện để giảng Tứ thư, Ngũ kinh. Đến đời
nhà Trần Nho học thịnh hơn nhà Lý và có nhiều Nho gia chân chính như Mạc
Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên thời vua Trần Anh Tông (1293 – 1314), Trương
Hán Siêu làm quan đời cua Trần Anh Tông và vua Trần Minh Tông, Phạm Sư
Mạnh làm quan đời vua đời TRần Minh Tông và TRần Dụ Tông. Và đặc biệt
là Chu Văn An, nhà giáo dục, nhà Nho yêu nước, người đã dâng “Thất trảm
sớ” xin vua Trần Dụ Tông chém 7 tên nịnh thần nhưng vua không nghe. Nho
giáo thời kì này chủ yếu là Hán Nho và Đương Nho. Nhưng sau khi nhà Hồ
cướp ngôi nhà Trần rồi để đât nước rời vào tay quân Minh thì chúng đem
Tống Nho dạy cho nhân dân ta. Vua Lê Thái Tổ đánh đổ giặc Minh, khôi
phục nước nhà, mở mang Nho học. Năm 1428, Lê Thái Tổ đã hạ chiếu trong
nước dưng nhà học, dạy dỗ nhân tài. Đến năm 1429 khảo thí Minh kinh. Đến
đời vau Lê Thánh Tông (1460 – 1497) thì chế độ phong kiến Việt Nam cũng
như nền giáo dục Nho học ở vào thời kì cực thịnh, phát triển vượt bậc với
5


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

nhiều thành tựu rực rỡ. Khổng giáo giờ đây đã vượt lên vị trí độc tôn, được
xem như “học thuyết triết học chính trị - xã hội mà giai cấp phong kiến làm
tinh thần thống trị tinh thần xã hội. Vào năm Giáp Thìn (1484), Lê Thành
Tông đã cho ghi tên tuổi các vị tiến sĩ vào bia dưng tại Quốc Tử Giám để lưu
danh những người đỗ đạt và khuyến khích tinh thần học tập của các Nho sĩ.
Thời kì này xuất hiện nhiều nàh Nho yêu nước sâu sắc mà tiêu biểu nhất là
Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, là người tiếp thu Khổng giáo và vận dụng sáng
tạo nó vào việc củng cố chế độ phonng kiến Việt Nam trong thời đại Lê sơ.
Ngoài ra còn có các nhà Nho yêu nước khác như Nguyễn Trực, đỗ trạng
nguyện thời vau Lê Thái Tông, Lương Thế Vinh dỗ trạng nguyên thời vua

Thánh Tông... “Từ thời nhà Lê về sau, trải qua nhà Mạc, nhà hậu Lê và nhà
Nguyễn, Nho học ở Việt Nam tuy thịnh nhưng học giả trong nước phần nhiều
chỉ học lối khoa cử, lấy văn chương để cầu sự độ đạt chứ không có mấy người
học đến chỗ uyên thâm của Nho giáo để tìm thầy cái đạo lí cao xa hoăck là để
xướng lên các học thuyết có giá trị”(GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, TS Phạm
Văn Đức, TS Hồ Sĩ Quý “ Tìm hiểu giá trị văn hoá truyền thống trong quá
trình công nghiệp hoá hiện đại hoá). Nhưng trong đó không thể phủ nhận rằng
vẫn cong những nhà Nho học rộng và có tài, có tinh thần yêu nước như
Nguyễn Bỉnh Khiêm đời nhà Mạc, những bậc văn sĩ tài giỏi như Phùng Khắc
Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguễn Dữ (đều là học trò của Nguyễn Bỉnh
Khiêm) đời hậu Lê, Phạm Quý Thích, Nguyễn Du là những di Nho nhà Lê
sống trong thời Tây Sơn, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến...
Theo thời gian, qua nhiều thăng trầm của lịch sử nhìn chung Nho giáo cũng
đã chiếm một vị trí quan trọng trong hệ tư tưởng chính thống của các triều đại
phong kiến và đến nhà Nguyễn (thế kỉ XIX), Nho giáo đã giữ vị trí độc tôn.
Tuy nhiên, Nho giáo triều Nguyễn cũng là giai đoạn hưng thịnh cuối cùng của
Nho giáo Việt Nam. “Nếu như Nho giáo Việt Nam trong một số triều đại
trước ít nhiều có tính chất tích cực và hợp thời thì Nho giáo triều Nguyễn đã
trở thành hết sức tiêu cực và lỗi thời. Vì lỗi thời nên Nho giáo triều Nguyễn
6


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

đã thất bại trong việc ấn định trật tự xã hội và hoàn toàn thất bại trước thử
thách của lịch sử. Sự thất bại của Nho giáo triều Nguyễn đã cho thấy được
chân lý lúc bấy giờ: muốn giành được độc lập dân tộc và cải thiện được dân
sinh và đưa nhà nước tiến lên những đỉnh cao của htời đại, người Việt Nam
phải được trang bị bằng một tư tưởng khác cao hơn Nho giáo” (GS.TS
Nguyễn Trọng Chuẩn, TS Phạm Văn Đức, TS Hồ Sĩ Quý “ Tìm hiểu giá trị

văn hoá truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá). Đầu thế
kỷ XX chính quyền thực dân Pháp và phong kiến Việt Nam đã huỷ bỏ chế đọ
học tập và thi cử theo Khổn giáo. Tuy vậy, Khổng giáo vẫn có ảnh hưởng lâu
dai đến xã hội và con người Việt Nam. Phan Bội Châu là nhà cách mạng dân
tộc tiêu biểu cho những năm đầu của thế kỷ XX. Với tư cách là một nhà Nho
yêu nước, ông đã kêu gọi những phần tử ưu tú của tầng lớp nhà Nho nổi dậy
chống lại ách thống trị của kẻ xâm lược. Nhưng càng về sau này, Nho giáo
càng trở nên lạc hậu, phản động và dần dần mất đi ảnh hưởng của mình ngay
cả trên quê hương Trung Quốc cũng như ở Việt Nam và đến nay đã hoàn toàn
chấm dứt vai trò lịch sử của mình.
3.

Những nội dung cơ bản của học thuyết đạo đức nho giáo.

3.1

Vai trò của đạo đức nho giáo.
Quan điểm đạo đức của một trường phái triết học, của một tôn giáo nào đó

bảo vệ lợi ích, quyền lợi cho một chế độ, một hình thái kinh tế xã hội nào đó.
Vì vậy học thuyết đạo đức Nho giáo được sinh ra nhằm phục vụ cho chế độ
nhà nước phong kiến.
Học thuyết đạo đức Nho giáo một mặt phản ánh những hành vi ứng xử giữa
cá nhân và xã hội, mặt khác phản ánh quan hệ giai cấp trong xã hội. Trong
Nho giáo vấn đề cơ bản nhất, bao quát nhất là vấn đề đạo đức: “Trời có đạo
trời, đức trời, đất có đạo đất, đức đất, muôn vật cũng có đạo đức của muôn
vật.”(Quang Đạm, Nho Giáo xưa và nay)con người có đạo đức của con người.
Vì vậy con người phải đặt việc rèn luyện trau dồi đạo đức lên hàng đầu.

7



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Hơn nữa, Nho giáo còn được coi là một học thuyết đạo đức bởi vì nho giáo
đưa ra những quan điểm về thiện, ác, đạo làm người cùng những chuẩn mực,
những quy tắc, quy phạm đạo đức để điều chỉnh, đánh giá hành vi của con
người trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với gia đình
với quốc gia và thiên hạ. Trong xã hội, Nho giáo chú ý nhiều nhất đến quan
hệ vua- tôi. Vua được coi là thiên tử(con trời) có quyền lực tối cảôtng thiên
hạ, thay trời cai trị muôn dân. Còn kẻ bề tôi phải tận trung với vua, đúng như
Đổng Trọng Thư nói “ Vua xử thần tử thần bất tử bất trung”(Nguyễn Hữu Vi,
Giáo trình lịch sử triết học).
Trong gia đình, Nho giáo đề cao mối quan hệ cha-con và mối quan hệ
chồng vợ. Nhằm duy trì trật tự tôn ti trong gia đình góp phần củng cố trật tự
kỷ cương ổn định xã hội và ràng buộc trách nhiệm giữa con người với con
người. Trong quan hệ cha con, Nho giáo đặt vị trí người cha cao hơn, người
con có ngiã vụ phải kính trọng và chăm sóc cha mẹ. Phải coi việc phụng sự
cha mẹ là gốc của mọi việc trọng đại. Đấy là chữ “Hiếu”. Đồng thời người
con phải phục tùng mệnh lệnh của người cha. Trong quan hệ vợ chồng, Nho
giáo đưa ra những chuẩn mực đạo đức ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ
giữa vợ chồng với nhau. Đặc biệt Nho giáo đề cao vai trò của người chồng
trong gia đình, người phụ nữ thường phải chịu nhiều thiệt thòi hơn.
Tóm lại học thuyêt đạo đức nho giáo không chỉ phản ánh quan hệ đạo đức
mà còn phản ánh quan hệ đạo đức xã hội nhằm mục đích chính trị.
3.2

Những phạm trù cơ bản của đạo đức nho giáo.
Trong học thuyết đạo đức Nho giáo thì trung tâm nằm ở Tam Cương và


Ngũ thường. Tam cương liên kết với Ngũ thường bằng năm đức Nhân, lễ,
Nghĩa, Trí, Tín.
Đức nhân
Trong đạo đức làm người, chữ nhân được Khổng Tử đặt lên hàng đầu, đức
nhân là tiêu chuẩn cao nhất, Nhân là điều hợp với đạo đức và lòng người.

8


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Nhân, một mặt là lòng thương người “điều mà mình không muốn thì đừng
làm cho người khác”, “ muốn lập thân thì phải giúp người khác lập thân
trước, muốn thành đạt cũng phải giúp người khác thành đạt. Đồng thời với
bản thân phải kiềm chế mình theo đúng lễ, nếu không hợp với lễ thì không
nhìn, không nói, không nghe, không làm. Ngoài ra nhân còn bao gồm các nội
dung khác như: cung kính, nghiêm túc, thành thật, dũng cảm, rộng lượng, cần
cù....Như vậy nhân là một phạm trù rất rộng gần như đồng nghĩa với đạo đức.
Khổng tử coi Nhân và Thánh gần như một, đã Thánh là Nhân, đã Nhân là
Thánh. Bản thân Khổng Tử cũng chưa dám nhận là người có nhân. Còn
Khổng Nhan, Mạnh Tử, Tăng Tử đều khẳng định Nhân là đỉnh cao chót vót
của lâu đài đạo đức.
Trong quan hệ gia đình, Khổng Tử nhấn mạnh đến quan hệ cha mẹ- con cái
trong đó nổi lên chữ hiếu. Ông khẳng định rằng Nhân là gốc của Hiếu. Con
cái phải luôn có hiếu với cha mẹ, chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ là nghĩa vụ
và bổn phận của con cái, đồng thời phải yêu thương kính trọng cha mẹ. Kính
đồng thời cũng là bản chất của chữ Hiếu, có nghĩa Kính cũng chính là Nhân.
Đối với các phẩm chất Trí, Dũng cũng vậy. Khổng Tử nói “Nhân giả tất hữu
dũng, dũng giả bất tất hữu nhân”(Luận Ngữ) (người có nhân tất có dũng,
người có dũng chưa chắc có nhân)

Như vậy có thể khẳng định rằng “Chữ Nhân đối với mọi người trong thiên
hạ còn hơn cả nước, lửa, người ta có thể đạp lên nước, lửa mà chết chứ không
đạp lên chữ nhân”(Nguyễn Đăng Duy,Nho Giáo với văn hoá Việt Nam)(Dân
chi ư nhân dã, thậm ư thuỷ hoả, thuỷ hoả ngô kiến đạo nhi tử giả, dễ di kiến
đạo nhân nhi tử giả dã).
Đồng nghĩa với việc coi chữ Nhân là nội dung, là tinh thần cốt lõi trong học
thuyết đạo đức nho giáo.

9


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Đức lễ
Đặt sau đức Nhân là đức lễ nhằm giáo dục con người, duy trì các mối quan
hệ trong vòng trật tự kỉ cương.
Trước hết, lễ là phạm trù chỉ tôn ti trật tự, kỉ cương của xã hội mà mọi
người, mọi giai cấp trong xã hội phải học phải tuân theo. Theo đó, trong xã
hội có vua- tôi, cha-con, chồng- vợ, có người trên kẻ dưới, có việc trái việc
phải cho nên phải có lễ để phân minh rõ ràng.
Thứ hai, lễ là những chuẩn mực, những quy tắc, những yêu cầu có tính bắt
buộc, ràng buộc với mọi hành vi, ứng xử của con người trong các mối quan
hệ xã hội cũng như trong các hoạt động khác của con người. Tuy nhiên lễ
không phải là một tiêu chuẩn đạo đức hoàn toàn độc lập mà là một vấn đề
luôn gắn liền với Nhân. Trong mối quan hệ giữa Nhân và lễ thì Nhân là gốc,
là nội dung còn lễ là biểu hiện của nhân. Ví dụ trong các tang lễ, xa xỉ chẳng
bằng tiết kiệm, đầy đủ mọi nghi thức chẳng bằng xót thương.
Do đó “Người không có lòng nhân thì thực hành lễ sao được” vì “ Nói về lễ
không phải chỉ có lụa ngọc mà thôi”
Lễ không những là biểu hiện của Nhân mà lễ còn điều chỉnh đức Nhân cho

đúng. Khổng Tử nói “ Cung kính mà không biết lễ thì mệt nhọc, cẩn thận mà
không biết lễ thì nhút nhát, dũng cảm mà không biết lễ thì làm loạn, thẳng
thắn mà không biết lễ thì làm phật ý người khác”.
Và theo Khổng Tử giữa tình và lễ thì lễ quan trọng hơn, vì thế ông đã nói cai
trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng hình phạt thì
dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng
đạo đức đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực
lòng quy phục”. Như vậy đức lễ có vai trò rất lớn trong việc cai trị dân, trong
đường lối cai trị nước của các bậc thiên tử ở thời đại phong kiến.

10


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Trong giáo dục cũng chủ trương đề cao đức lễ, mục đích giáo dục là uốn nắn
nhân cách và bồi dưỡng nhân tài vì vậy phương châm giáo dục quan trọng
trong nho giáo là “ Tiên học lễ, hậu học văn”.
Vì vậy đức lễ có vai trò rất lớn, nó quy định hình thức mối quan hệ giữa
người với người trong xã hội.
Đức nghĩa
Trong quan niệm của nho giáo, “Nghĩa vừa là phạm trù đạo đức vừa là
phạm trù chính trị xã hội. Khổng tử coi nghĩa là phẩm chất cơ bản của người
quân tử “ Bậc quân tử tinh tường về việc nghĩa” (quân tử dụ ư nghĩa”) đồng
thời người quân tử phải hành động vì nghĩa “ Người quân tử dùng nghĩa lí
làm căn bản” (Luận Ngữ )(quân tử nghĩa dĩ vi chất).
Nghĩa gắn liền với Nhân, Nhân thể hiện tình cảm sâu sắc thì nghĩa là nghĩa
vụ để thực hiện tình cảm đó. Do đề cao nghĩa ngang với Nhân nên Mạnh Tử
khuyên người ta chỉ nên nói điều “nhân nghĩa” “Tôi vì Nhân nghĩa mà thờ
vua, con vì Nhân nghĩa mà thờ cha, em vì Nhân nghĩa mà thờ anh. Vua tôi,

cha con, anh em đều bỏ lợi, đối với nhau chỉ bằng lòng hâm mộ nhân nghĩa.
Quốc gia như thế mà không hưng thịnh thì chưa từng có”(.Luận Ngữ )(Vì
vậy nghĩa mục tiêu sống mà con người cần vươn tới.
Nghĩa cũng gắn liền với dũng, muốn làm việc nghĩa mà không có dũng thì
không thể thực hiện được, Khổng Tử trọng dũng gắn liền dũng với nghĩa,
trong đó nghĩa chỉ đạo dũng và dũng phải phù hợp với nghĩa.
Ngoài ra nghĩa cũng đồng nghĩa với cái tâm trong sáng, không bị những
ham muốn tầm thường ảnh hưởng. Người làm việc nghĩa với cái tâm trong
sáng, không bị những ham muốn tầm thường ảnh hưởng. Người làm việc
nghĩa là những bậc công tử mà “phú quý bất năng dâm bần tiện bất năng di,
uy vũ bất năng khuất”( phú quý không ham muốn, không vì nghèo đói mà hạ
thấp mình, không vì uy vũ mà bị khuất phục).

11


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Đức trí
Trí là một trong bốn đức lớn, đầu mối có sẵn trong tâm con người. Ngày nay
ta thường nói trí tuệ là sức mạnh, ngày xưa Khổng tử đã đặt chữ Trí sau chữ
Nhân vì ông cho rằng con người phải hiểu biết, có trí tuệ mới thực hiện đạo
đức có hiệu quả.
Trí nghĩa cơ bản theo Khổng Mạnh là sự hiểu biết đạo đức, là sự minh mẫn
nói chung để phân biệt, để đánh giá con Người và tình huống qua đó xác định
cho mình lối ứng xử hợp lí nhất. Mạnh tử coi đó là chuyện lương tâm, lương
tri, còn Khổng Tử cho rằng đức trí và các đức khác muốn biết phải học, ham
trí mà không ham học cái hại che lấp mất trí là sự bừa bãi, lung tung. Theo
ông “ Người có đức nhân mà không ham học là không có bao giờ”( Hữu nhân
bắt hoá học vô giã).

Sách lễ kí nói rằng: “Ngọc bất trác bất thành khí, Nhân bất học bất chi
đạo”(Trần Trọng Kim, Nho Giáo) (ngọc không dũa không thành đồ, người
không học không thành đạo).Hay câu nói “ Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” đã nói
lên tinh thần ham học , cầu học, tinh thần tôn sư trọng đạo của nho giáo. Đồng
thời nói đến đức trí khong thể không nói đến đức dũng. Theo Khổng Tử
Nhân, Trí, Dũng là ba điều đạo đức của người muốn làm nên sự nghiệp lớn.
Đức trí thể hiện sự hiểu biết và mưu lược, đức dũng thể hiện sự gan dạ kiên
cường. Người có Trí Dũng ắt làm nên việc lớn.
Đức Tín
Chữ Tín được xếp cuối cùng trong đạo đức Nho giáo nhưng không phải vì
thế mà hạ thấp chữ Tín. Bởi chữ Tín là hệ quả của bốn đức trên, có Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí thì mới có Tín. Tín có Nghĩa là uy tín, là lòng tin, có lòng tin tuyệt
đối vào chính đạo, vào đạo lí của thánh hiền, vào mối quan hệ giữa vua-tôi,
cha-con, anh-em, chồng- vợ, bằng- hữu. Chính vì thế Khổng Tử đã nói:
“Nhân vô tín tắc phản- người không có chữ tín rất dễ phản” hoặc “Nhân vô

12


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

tín bất lập- người không có tín thì đừng lập”( Nguyễn Đăng Duy, Nho Giáo
với văn hoá Việt Nam)
Khái niệm “Trung” và “Tín” cũng là moọt thành tố trong tư tưởng của đạo
đức Nho giáo. Nó còn được dùng trong quan hệ của người cai trị với dân. Nho
giáo nhấn mạnh rằng người cai trị sai khiến dân phải thận trọng, hợp ý dân,
phải giữ Trung Tín với dân. Chính vì thế Khổng Khâu đã nêu bật ba yếu tố
đảm bảo sự vững chắc và thế mạnh của một nước là: thực túc, binh cường và
dân tín. Trong hoàn cảnh phải bớt đi một thì phải bớt đi quân đội, bớt đi hai
thì bớt quân đội và lương thực, còn dân tín là điều không thể mất vì “dân

không tín thì chính quyền không thể đứng vững được”Khi tìm hiểu về đạo đức Nho giáo ngoài việc tìm hiểu năm đức Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí, Tín hay còn gọi là ngũ thường chúng ta cũng không thể bỏ qua
đức trung và đức hiếu. Nếu coi đức Nhân là “đỉnh cao chót vót của tháp ngọc
ngà”(Quang Đạm)thì đức Hiếu là gốc của tất cả mọi đạo đức. Nho giáo luôn
đề cao mối quan hệ giữa gia đình và xã hội, gia đình mạnh thì nước mới
mạnh, gia đình đoàn kết, có trật tự kỷ cương thì đất nược mới có kỷ cương
phép tắc. Nho giáo coi nhà là gốc của đất nước, cũng như nước là gốc của
thiên hạ, muốn bình thiên hạ phải biết trị quốc, muốn trị quốc phải biết tề gia.
Như vậy Nho giáo coi năm đức Nhân, Nghĩa, Lễ , Trí , Tín là những phẩm
chất đạo đức cơ bản của mẫu người lí tưởng trong xã hội xưa kia và ngày nay.
Năm đức này vẫn còn giá trị đối với người hiện đại, vẫn còn được coi là
những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người.
I.

ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐÔI VỚI CON NGƯỜI

VIỆT NAM HIỆN NAY
II.1 Anh hưởng tiêu cực
Trong xã hội Viêt Nam ngày nay, chúng ta vẫn có thể nhận ra dấu ấn khá rõ
nét của tư tưởng đạo Nho trong từng người, từng lứa tuổi. Nó tồn tại rất đa

13


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

dạng, ở nhiều mức độ khác nhau trong từng mặt khác nhau của đời sống xã
hội. Ở một số người đã từng học nó ít nhiều thì có những mặt họ coi là đúng,
họ chịu ảnh hưởng một cách có ý thức. Còn ở phần đông, tư tưởng đạo Nho
sống dai dẳng dưới dạng nếp nghĩ, thói quen, thấm vào tư tưởng của họ từ rất

xa xưa. Phần lớn nhân dân Việt Nam mang trong mình tư tưởng Nho giáo
nhưng họ không xác định được bản thân đang bị ảnh hưởng bởi một học
thuyết nào đó. Những quan điểm họ mang được coi là đương nhiên, cách cư
xử của họ cũng được coi là một điều tất nhiên. Họ không cần suy tính nó
đúng đắn hay sai lầm. Điều này có ảnh hưởng rất xấu đến các thế hệ Việt
Nam hiện tại và sau này. Vì vậy chúng ta cần chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực
của tư tưởng Nho giáo đang tồn tại dai dẳng trong xã hội, để từ đó tìm ra
những biện pháp hữu hiệu nhằm xoá bỏ những mặt tiêu cực của tư tưởng Nho
giáo và phát huy những mặt tích cực của nó.
II.1.1 Nếp sống không thật sự dân chủ trong xã hội.
Một xã hội Xã hội chủ nghĩa là một xã hội trong đó nhân dân làm chủ mọi
tư liệu sản xuất rồi hưởng thụ theo lao động, là một xã hội của dân, do dân, vì
dân, phải là một xã hội thực sự dân chủ, hơn hẳn nền dân chủ tư sản. Việt
Nam là một quốc gia đang trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng
trong xã hội Việt Nam vẫn tồn tại những nếp sống không thực sự dân chủ.
Như tất cả chúng ta đều biết, một nền dân chủ chân chính phải xây dựng
trên cơ sở kinh tế như xã hội xã hội chủ nghĩa của nước ta. Nhưng nghĩ rằng
đã có quyền sở hữu tập thể hay toàn thể về tư liệu sản xuất thì tự nhiên mọi
người đều có quyền dân chủ một cách đầy đủ thì lại là một quan điểm chưa
thực sự đúng đắn với hiện thực. Nói đến thiếu hay mất dân chủ đa số chúng ta
có xu hướng quy hết trách nhiệm cho lớp người có trách nhiệm thi hành
quyền dân chủ. Đó là một cách nhìn phiến diện nhưng không phải là không có
căn cứ. Điều này vẫn ngày ngày diễn ra trong thực tế hiện nay. Đó là một số
người có trách nhiệm khi đã nêu ra một số ý kiến gì thì thường không thể chịu
14


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

nổi những ý kiến trái với mình, không đủ bình tĩnh nghe những ý kiến không

giống mình hay nói một cách khác là họ mang nặng tính bảo thủ. Đây là một
nếp sống rất tiêu cực, nó đề cao cá nhân, dung túng cho tính độc đoán phát
triển trong mỗi con người. Còn những người đưa ra ý kiến trái ngược, bản
thân họ không đồng ý với những ý kiến đã nêu nhưng hị cũng không dám
mạn dạn đưa ra những ý kiến mà họ cho là đúng đắn và phù hợp. Họ sợ nói
thẳng, nói thật sẽ làm mất lòng người kia, nhất là cấp trên của mình. Thậm chí
có khi họ còn đưa ra ý kiến phụ họa cho ý kiến không đúng vì việc đồng tình
này sẽ đem lại sự thoả mãn cho cấp trên và lợi ích cho bản thân mình. Nguyên
nhân thứ hai là còn một lớp người khác bị tư tưởng Nho giáo ăn sâu vào tâm
tưởng, đã nghĩ theo một nếp cũ, cái nếp tuyệt đối hoá tư tưởng tôn ty đẳng cấp
của đạo Nho. Họ đề cao một cách thái quá chữ “Lễ”, họ cho rằng trật tự, kỉ
cương của xã hội đồng nghĩa với việc không nên, không được bàn cãi về ý
kiến của bề trên. Họ không đồng ý với ý kiến của người kia nhưng họ lại tự
nhủ rằng có thể bản thân họ chưa hiểu nổi ý kiến đó hoặc họ cho rằng bàn cãi
về ý kiến của bề trên là một diều sai trái, trái với quan điểm đạo lí thông
thường đã từ lâu ăn sâu vào tâm trí họ.Họ chưa nhận rõ rằng nguyên tắc tổ
chức của ta là tự do dân chủ. Lúc chưa có quyết định thì mọi người được tự
do đưa ra ý kiến của mình để từ đó lựa chọn ra ý kiến đúng đắn nhất, gần gũi
với chân lí nhất và mọi sự quyết định đều phải có sự đồng tình từ đa số. Nếu
không có kỉ luật dân chủ này thì không thể có dân chủ thực sự. Tư tưởng tôn
ty đẳng cấp của Nho giáo làm cho cấp trên thì độc đoán kiêu căng, cấp dưới
thì sợ sệt khúm núm. Từ đó hình thành quan niệm “cấp trên bao giờ cũng
đúng”, làm mất đi không khí trao đổi ý kiến một cách dân chủ thẳng thắn.
Sự mất dân chủ hiện nay còn thể hiện trong quan hệ vợ chồng, cha mẹ, con
cái, thầy trò. Một bộ phận lớn những người chồng mang trong mình tư tưởng
“phu xướng phụ tuỳ”. Họ cho rằng ngưòi đàn ông là chủ gia đình nên mọi
việc đều phải theo ý kiến của họ. Đặc biệt họ rất xem nhẹ vai trò của người
phụ nữ. Với họ người phụ nữ phải nhất mực tuân theo nguyên tắc “ xuất gia
15



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Còn trong quan hệ giữa cha mẹ
với con cái thì tư tưởng “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” tuy đã được hạn chế
nhiều nhưng ý kiến của con cái đã được tôn trọng hay chưa thì vẫn là một vấn
đề đối với các bậc làm cha làm mẹ. Nhiều gia đình hiện nay con cái học là vì
bố mẹ, lựa chọn nghề nghiệp cũng là vì bố mẹ, thậm chí vẫn còn tình trạng
lấy vợ lấy chồng theo sự sắp đặt của bố mẹ. Trong quan hệ thầy trò cũng có
những tình trạng tương tự, một bộ phận không nhỏ các thày giáo, cô giáo vẫn
có tư tưởng “ quân sư phụ” của đạo Nho, không thể chịu nổi sự bàn bạc dân
chủ giữa thầy và trò. Còn học trò thì không dám đưa ra và bảo vệ ý kiến của
mình, tự bóp chết khả năng sáng tạo của mình.Thật may những tình trạng thế
này đang dần bị loại bỏ để thay vào đó những tư tưởng tiên tiến hơn.
Một mặt tiêu cực khác trong tư tưởng tôn ty đẳng cấp là chỉ coi trọng những
người có chức vụ, có bằng cấp mà không chú ý đến những người giỏi về
chuyên môn nên mới dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ như hiện
nay.Hơn nữa, Việt Nam là một nước đang tiến hành quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước, đang từng bước áp dụng những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học kĩ thuật. Vì vậy khoa học kĩ thuật,trình độ chuyên môn
phải được coi trọng. Thế nhưng chính một số tư tưởng Nho giáo tiêu cực còn
sót lại đã dẩy xã hội ta thành một xã hội coi trọng bằng cấp mà không coi
trọng thực lực, coi trọng những thành tích trên giấy tờ hơn khả năng thực sự
của cá nhân mỗi người.
Tóm lại có thể thấy nếp sống không thực sự dân chủ ở nước ta lỗi không
hoàn toàn thuộc về những người có nhiệm vụ thi hành quyền dân chủ mà
chính những người phải thi hành dân chủ (hay bộ phận lớn nhân dân )có một
phần không nhỏ trong việc hình thành nên nếp sống ấy. Với tư cách là người
phải thi hành dân chủ thì cần phải có trình độ giác ngộ cao, cần phải có sự
thẳng thắn, cởi mở trong những quan điểm, những ý kiến.


16


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

II.1.2

Đánh giá con ngưòi không đúng tiêu chuẩn.

Xã hội nào cũng có những tiêu chuẩn đạo đức của nó. Ở các triều đại
phong kiến với tư tưởng Nho giáo người quân tử là người phải có Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí, Tín và mục đích của tu thân là vì mình, vì quyền lợi của giai cấp
thống trị. Tư tưởng vì mình đã tạo nên tâm lí ích kỉ trong một số người, từ đó
nảy sinh các hiện tượng gây nhũng nhiễu cho xã hội như tham ô, tham nhũng,
tâm lí danh lợi.... gây tác hại cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Trong xã hội hiện nay tư tưởng đạo đức cao nhất là đạo đức cách mạng, đạo
đức vì nhân dân, vì tổ quốc, là dũng cảm chiến đấu giải phóng và giữ gìn đất
nước, hăng say lao động sáng tạo, nghiêm chỉnh thi hành mọi chủ trương của
Đảng và nhà nước đề ra, là “Trung với Đảng, hiếu với dân”, là thật thà yêu
thương, giúp đỡ đồng chí đòng bào.........vì thế mà khônh ham giàu sang,
không e cực khổ, không sợ oai quyền”(Hồ Chí Minh toàn tập) .Nhưng thực tế,
trong công việc một số người vẫn chịu ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ của đạo
Nho, nghĩa là chú ý nhiều tới những mặt không chủ yếu của đạo đức con
người như tác phong của một số mặt sinh hoạt nào đó. Điều đó khiến việc
đánh giá con người trở nên phiến diện, lệch lạc.
II.1.3 Tư tưởng trọng nam khinh nữ.
“ Tam cương” là một trong ba trung tâm cấu thành nên đạo đức Nho
giáo.Trong Tam cương có quan hệ vợ chồng được Nho giáo đề cập rất rõ nét,
cụ thể trong gia đình người vợ phải có đầy đủ các tiêu chuẩn: Công- DungNgôn- Hạnh, và phải thực hiện tam tòng “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,

phu tử tòng tử” tức ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo
con. Phụ nữ không được lấy chồng khác khi chồng chết còn đàn ông thì có
quyền năm thê bảy thiếp. Thái độ khinh thường phụ nữ này không chỉ tồn tại
trong tư tưởng của đấng mày râu mà còn trong tư tưởng của những người phụ
nữ . Vì thế mà người phụ nữ trong xã hội xưa không được đi học, không được
đọc sách, không được tham gia vào các hoạt động xã hội, không được giao
17


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

lưu mở rộng tầm hiểu biết..........họ chỉ quanh quẩn với ruộng đồng, bếp núc,
và chịu sự sai khiến của chồng con.Nhiệm vụ của họ chỉ gói gọn trong phạm
vi gia đình, chỉ là duy trì nòi giống, phục vụ chồng con. Trí tuệ, tình cảm của
họ không được xã hội xem trọng, vì thế mới có những chuyện như giả trai đi
thi, hay có những người phụ nữ tài hoa phá vỡ những lễ giáo đó thì bị coi là
không tốt mà nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một điển hình.
Trong thời đại hiện người phụ nữ không bị coi thường như trước nữa. Họ
đã có vai trò lớn trong xã hội, có những đóng góp lớn lao trong công cuộc xây
dựng đất nước. Hay nhìn một cách toàn diện có lẽ người phụ nữ đã được bình
đẳng với nam giới theo đúng hiến pháp của nhà nước qui định. Nhưng đi sâu
vào trong gia đình ta mới thấy, người phụ nữ vẫn phải chịu ít nhiều thiệt thòi.
Công việc nhà, bếp núc, chăm sóc con cái được coi đương nhiên là dành cho
phụ nữ trong khi các công việc xã hội người phụ nữ cũng phải làm như người
đàn ông. Mặt khác hiện nay tư tưởng trọng nam khinh nữ còn được thể hiện
khá rõ trong tâm lí muốn sinh con trai để nối dõi tông đường. Đây là một tư
tưởng đã bị lên án nhiều nhưng do những quan niệm Nho giáo đã ăn quá sâu
trong nếp sống của ngưòi dân nên tư tưởng này vẫn còn khá phổ biến trong xã
hội ngày nay.
Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” có lẽ là sai lầm lớn nhất về mặt lí luận và

thực tiễn của những người sáng lập và theo đạo Nho. Tư tưởng này vẫn để lại
dấu ấn trong xã hội hiện nay, tuy nhiên Đảng , nhà nước đang cố gắng xoá đi
những dấu ấn này và đang từng bước gặt hái được khá nhiều thành công để
hướng tới xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
II.1.4

Tư tưởng an phận

Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật ngày càng đòi hỏi một thái độ lao động
mới. Đó là thái độ làm việc có kỉ luật, khuyến khích tinh thần lao động, sáng
tạo, một nhịp độ lao đọng khẩn trương.... Đây là con đường đưa Việt Nam
vào quỹ đạo của nền cong nghiệp hoá hiện đại hoá. Vì thế Đảng và nhà nước
18


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

ta luôn có những chính sách để khuyến khích người dân, đặc biệt là tầng lớp
thanh niên phát huy hết khả năng sáng tạo, tự tin làm chủ những công nghệ, kĩ
thuật tiên tiến. Tuy nhiên tư tưởng an phận của Nho giáo đang gây trở ngại
cho chúng ta. Từ ngàn năm nay Nho giáo luôn khinh rẻ lao động, luôn sợ kỹ
thuật vì nó cho rằng “ cơ giới sinh tâm giới” sự phát triển của máy móc sẽ làm
hỏng đạo đức nhân nghĩa của con người. Với tư tưởng bảo thủ, trì trệ thù
ghét cái mới, sùng bái mù quáng nếp sống, nếp nghĩ của tổ tiên, nó khuyên
người ta phải “an bần lại đạo”. Như vậy có thể thấy rằng tàn dư của Nho giáo
vẫn đang hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta dưới nhiều hình
thức. Vậy tại sao những tư tưởng lỗi thời lạc hậu đó vẫn còn tồn tại? Điều này
đã được Angghen giải thích “Một nền sản xuất kém phát triển, cuộc đấu tranh
giai cấp kém phát triển đẻ ra những lý thuyết không hoàn chỉnh.”
Hiện nay trong một thời đại mới, chúng ta đang ra sức quét sạch đi những tàn

dư tiêu cực của đạo Nho. Nhưng đây là việc không hề dễ dàng, không thể
thực hiện trong ngày một ngày hai và chúng ta càng không thể dùng bạo lực
cánh mạng để tiêu diệt nó. Vì vậy yêu cầu đặt ra cho mỗi cá nhân là phải có
những nhận thức đúng đắn để từ đó có thể thấy được tính chất sai lầm, cổ hủ,
lạc hậu của một số tư tưởng Nho giáo không còn phù hợp với thời đại ngày
nay nhằm thay đổi triệt để nếp sống, nếp nghĩ và trở thành con người mới
trong xã hội chủ nghĩa.
II.2 Anh hưởng tích cực và một số phương hướng nhằm phát huy những
yếu tố tích cực.
II.2.1 Anh hưởng tích cực.
Như chúng ta đã biết thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 đã
đập tan xiềng xích hơn 80 năm đô hộ của thực dân pháp và 5 năm của phát xít
Nhật, đồng thời cũng làm xụp đổ hoàn toàn chế độ phong kiến ở Việt Nam.
Điều này đồng nghĩa với việc khẳng định sự thắng lợi của chủ nghĩa MacLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh dấu sự thất thế của tư tưởng Nho giáo
19


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

đã trở nên lỗi thời lạc hậu, không còn phù hợp với thời đại mới. Thời đại của
một đất nước đã hoàn toàn độc lập, một dân tộc mà nhân dân đã hoàn toàn tự
do làm chủ đất nước, một xã hội công bằng văn minh.
Tuy vậy chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế khách quan là bên cạnh những
yếu tố tiêu cực thì Nho giáo vẫn có những mặt tích cực. Bởi vì nếu nó chỉ có
những mặt tiêu cực thì không thể tồn tại một cách lâu dài đến thế.Mặt khác ta
cũng biết rằng không một học thuyết nào triết học nào trên thế giới, dù là rất
tiến bộ đi nữa, có thể bảo tồn nguyên mọi giá trị mà không chịu một sự phủ
định nào. Học thuyết của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra rằng: “lịch sử của
xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội. Đó là
một quá trình lịch sử tự nhiên. Giai đoạn sau thường cao hơn giai đoạn trước,

là sự tiếp nối của giai đoạn trước, gạt bỏ những gì không phù hợp, kế thừa
phát triển những gì là tiến bộ”. Như vậy, Nho giáo bị phủ nhận trong xã hội
hiện đại là điều dễ hiểu. Nhưng chúng ta vẫn cần phải khai thác và phát huy
những mặt tích cực của Nho giáo, nối tiếp truyền thống để góp phần vào sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam với một thái độ của
người cộng sản, trân trọng những giá trị tinh thần của nhân loại, Người đã viết
“ Việc xoá bỏ những nghi lễ tưởng niệm Khổng Tử, chính phủ Trung Quốc đã
làm mất đi những thể chế cũ và trái với tinh thần dân chủ. Còn những người
An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần bằng cách đọc các
tác phẩm của Khổng Tử, còn về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của
Lênin” trong báo Thanh Niên số 80 năm 1927. Như vậy, có thể thấy học
thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mac- Lênin không hoàn toàn đối lập với các
giá trị trong tư tưởng đạo đức Nho giáo mà có khá nhiều điểm tương đồng với
nhau. Điểm tương đồng ấy chính là ở giá trị nhân đạo, những tư tưởng thấm
đẫm tính nhân văn.

20


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh
hoa truyền thống tư tưởng dân tộc trong đó có cả tinh hoa Nho giáo. Đó là sự
kế thừa và phát huy những tư tưởng tiến bộ trong Tam cương, Ngũ thường và
Ngũ luận.
Trong ngũ luận, Nho giáo đưa ra khái niệm “Trung” và “Hiếu”. Trung là
trung với vua, Hiếu là hiếu với cha mẹ. Đó là đạo đức của bề tôi với vua, của
con đối với cha mẹ. Con người đề cao “Trung” và “Hiếu” cũng có nghĩa là đề
cao mối quan hệ giữa gia đình và xã hội. Mạnh tử đã nói: “Thiên hạ chi bản

tại quốc, quốc chi bản tại gia” (gốc thiên hạ tại nước, gốc của nước tại gia).
Đó chính là mối quan hệ mật thiết giữa tề gia và trị quốc, gia đình là cơ sở
quan trọng để tạo lập kỉ cương và ổn định xã hội. Hiện nay, tư tưởng này vẫn
còn nguyên giá trị. Đảng và nhà nước ta hiện nay đã, đang và luôn khẳng định
“ Gia đình là một tế bào của xã hội”, đề cao vai trò to lớn của gia đình, gia
đình có mạnh thì đất nước mới giàu, gia đình chính là cái nôi nuôi dưỡng
phẩm chất đạo đức của con người. Để trở thành một người cônh dân tốt của
xã hội, thì trước hết phải trở thành người có đạo đức trong gia đình.
Nho giáo luôn đề cao chữ “Lễ”, có nghĩa là đề cao tôn ty trật tự, kỷ cương,
những quy tắc và chuẩn mực trong xã hội phong kiến. Trong xã hội hiện nay
vẫn tồn tại những tệ nạn, những hiện tượng xói mòn về đạo đức, kẻ dưới
không biết kính trọng bề trên hay hiện tượng thoái hoá biến chất của các cán
bộ nhà nước, tình trạng chạy theo đồng tiền bất chấp đạo lý và pháp luật. Vì
thế “tiên học lễ, hậu học văn” vẫn là kim chỉ nam của mỗi người.
Ngoài ra Nho giáo còn đưa ra thuyết “Tu thân” , đề cao đạo đức, sự tu
dưỡng đạo đức của những người đứng đầu “ nước” , hay của những bậc quân
tử. Nho giáo còn khẳng định lý tưởng hay hoài bão suốt đời của người quân
tử là “tề gia trị quốc bình thiên hạ”. Nhưng để làm điều đó thì trước hết phải
tu thân. Và tu thân vẫn còn là bài học hết sức có giá trị nhằm để bồi dưỡng và
giáo dục cho các cán bộ Đảng viên trong xã hội xã hội chủ nghĩa của nước ta
21


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

hiện nay. Hồ Chí Minh đã áp dụng bài học tu thân để rèn luyện đạo đức cho
các đảng viên. Nếu như xưa kia Mạnh Tử đề cao phẩm chất của người trượng
phu “ phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” thì
ngày nay các Đảng viên vẫn in sâu lời dạy của Bác “ Các Đảng viên cộng sản
phải là những người mà giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khổ không thể

lay chuyển, uy lực không thể khuất phục”( Hồ Chí Minh toàn tập) . Đồng thời
bài học lấy dân làm gốc trong đạo Nho luôn được Đảng và Bác đặt lên hàng
đầu. Tư tưởng “ Dân vi bang bản, bản cố bang minh” trong Nho giáo là một
tư tưởng hết sức tiến bộ và được các nhà lãnh đạo kiệt xuất đón nhận: Trần
Quốc Tuấn rồi Nguyễn Trãi đã khẳng định: Thuyền là vua, nước là dân, nước
có thể đẩy thuyền mà nước cũng có thể lật thuyền. Tiếp đó là Hồ Chí Minh
với quan điểm “ Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo” hay “ Gốc có vững thì
cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”( Hồ Chí Minh toàn tập).
Nho giáo đặc biệt đề cao đạo đức, xem xét đức là gốc của con người. Và nội
dung đạo đức cũng là nội dung tu thân của người quân tử, của người cầm
quyền trong xã hội phong kiến. Năm phẩm chất cơ bản của người quân tử hay
tư tưởng ngũ thường đó là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Còn ngày nay, phẩm
chất của người cán bộ, đảng viên là: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công, Vô
tư. Đó là sáu chữ vàng Bác Hồ tặng cho đảng viên, Bác đã rất khéo léo khi sử
dụng những mệnh đề trong Nho giáo để diễn đạt theo ý nghĩa cho nhân dân dễ
nhớ dễ hiểu vì nó rất gần gũi với người dân. Tiếp đó còn có những khẩu hiệu
như “ Trung với đảng, hiếu với dân” cũng được Bác lấy từ chữ “Trung” và “
Hiếu” trong Nho giáo. Nhưng ở đây “ Trung là trung thành tuyệt đối với Đảng
và nhà nước, “Hiếu” không chỉ có hiếu với cha mẹ mà còn phải có hiếu với
nhân dân. Phạm vi đạo đức của “Trung” và “Hiếu” đã được Bác mở rộng ra
rất nhiều để phù hợp với thời đại mới.

22


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Không chỉ có “Trung” và “Hiếu” mà người đảng viên luôn cần phải có chữ
“Tín”. Ta thấy giữa Khổng Tử và Hồ Chí Minh có sự kế thừa và phát huy tư

tưởng. Khổng Tử từng nhấn mạnh rằng “ Dân không tin thì chính quyền
không đứng vững được” (Luận ngữ). Còn Hồ Chí Minh cũng đã có quan điểm
rằng “ Ta được lòng dân thì không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta
không thể làm tốt công việc được”.
Bên cạnh đó Nho giáo rất đề cao giáo dục, giáo dục khoa cử là hình thức
để tuyển chọn nhân tài cho đất nước. Thông qua các kì thi hội, thi hương, thi
đình nhà vua yên tâm khi bên cạnh là một đội ngũ nhân tài luôn sẵn sàng giúp
đỡ mình để xây dựng và bảo vệ đất nước. Vì thế mà người xưa đã từng quan
niệm “Nhân tài là nguyên khí của quốc gia, mà khoa cử là con đường rộng
mở cho học trò”Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí )( Nhân tài quốc gia chi
nguyên khí, khoa mục sĩ tử chi than đồ)
Có thể nói học tập là điều mà thế hệ nào cũng cần phải hướng tới, quốc gia
nào cũng cần phải khuyến khích. Chính vì vậy Lênin đã nói “ Học, học nữa,
học mãi”. Còn Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ, Đảng viên học tập vì “Học
để tu dưỡng đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng thì mới hi sinh, tận
tuỵ với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng đến thắng
lợi hoàn toàn”( Hồ Chí Minh toàn tập). Còn đối với thiếu niên nhi đồng trong
năm điều Bác Hồ dạy có “ Học tập tốt, lao động tốt” hay Bác cũng đã từng
nói “ non sông Việt Nam có vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có sánh
vai cùng các cường quốc năm châu hay không là nhờ công học tập của các
cháu”.
Như vậy có thể thấy hiện nay trong xã hội ta đang diễn ra xu hướng chủ
yếu là chủ trương phê phán, bác bỏ những gì đã lỗi thời, cực đoan của Nho
giáo và kế thừa những gì còn giá trị để từ đó phát huy lên. Thực tế đã chứng
minh cho quan điểm này vì Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Xingapo.....là
những con rồng châu Á”, có nền kinh tế phát triển vượt bậc cũng là những
23


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688


nước đã vận dụng và phát huy những giá trị của Nho học trong quá trình cải
cách đất nước. Vì thế, kế thừa và phát huy những yếu tố tích cực trong Nho
giáo cũng sẽ giúp ích rất nhiều, có vai trò quan trọng trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay.
II.2.2 Một số biện pháp cơ bản để nâng cao giá trị đạo đức Nho giáo.
Trong đại hội đảng lần thứ sáu (năm 1986), Đảng và nhà nước quyết định
cải cách đổi mới toàn diện đất nước, đưa nước ta từ một nước có nền kinh tế
tự cung tự cấp trở thành nước có nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay Việt Nam đang trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để đến năm 2020 Việt Nam về
cơ bản là một nước cônh nghiệp. Sau cải cách năm 1986 hay đúng hơn là với
nền kinh tế nhiều thành phần, với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, Việt Nam ngày càng thay đổi da thịt. Từ một nước nghèo kém phát
triển, chúng ta đã phấn đấu trở thành một nước đang phát triển và đang tiến
tới thành một nước phát triển trên thế giới.
Tuy nhiên một xã hội với nền sản xuất hàng hoá cũng đồng nghĩa là một
xã hội có cạnh tranh. Từ đó nảy sinh nhiều vấn đề đạo đức. Bên cạnh những
mặt tích cực của kinh tế thị trường như kích thích sự sáng tạo, năng động,
nhạy bén của con người, đòi hỏi con người phải tự suy nghĩ tìm tòi, phát huy
quyền tự chủ của mỗi người. Nó đào thải tính dựa dẫm, ích kỉ lười biếng, và
chậm chạp - hệ quả của một nền kinh tế bao cấp đã tạo ra. Nó tạo ra một thế
hệ con người mới, con người hiện đại đang ngày càng hội nhập với toàn cầu.
Tuy vậy nền kinh tế nhiều thành phần vẫn có những mặt tiêu cực. Đó là hiện
tượng con người chạy theo đồng tiền bất chấp mọi đạo lý và pháp luật, nó đặt
lợi ích cá nhân lên trên lợi ích cộng đồng, nó bao che cho lối sống thực dụng
gấp gáp và con người ngày càng bị tây hoá, những nét truyền thống ngày càng
bị lu mờ, trật tự xã hội bị đảo lộn và các tệ nạn xã hội ngày càng tăng.

24



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Trong tình hình đó yêu cầu đặt ra đối với xã hội là tích cực hơn nữa trong
công cuộc giác ngộ chủ nghĩa Mac- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa
và phát huy những nét đẹp của đạo đức truyền thống, trong đó có đạo đức
Nho giáo. Đặc biệt là cần nâng cao chữ “Lễ” trong Nho giáo để củng cố hệ
thống pháp luật cho thật nghiêm minh và công bằng dân chủ để giữ xã hội
luôn ổn định, phải đào thải và trừng trị nghiêm khắc bộ phận cán bộ Đảng
viên bị thoái hoá biến chất, làm trong sạch đội ngũ Đảng viên. Đồng thời đẩy
mạnh giáo dục để tạo ra một thế hệ mới tiến bộ hơn, văn mình hơn.
Đảng và nhà nước cần phải đề ra những chính sách cụ thể hơn nữa để kế
thừa và phát huy những mặt tích cực của Nho giáo trong xã hội, mặt khác
kiên quyết đấu tranh ngăn chặn xoá bỏ “ Quốc nạn” tham nhũng, xoá bỏ lối
sống ích kỷ thực dụng vô đạo đức ở nước ta hiện nay.

25


×