Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phép biện chứng duy vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.91 KB, 20 trang )

LI M U

Nhận thức, t duy con ngời có quan hệ nh thế nào với thế giới xung
quanh? Con ngời có khả năng nhận thức đợc thế giới hiện thực hay không?
Mà khi con ngời nhận thức đợc thế giới xung quanh thì việc áp dụng các
hiểu biết đó vào thực tiễn nh thế nào? Đây là một trong hai vấn đề cơ bản
của triết học.
Trong triết học Mac-Lênin, phép biện chứng duy vật đợc coi là phơng
pháp luận chung nhất của mọi hoạt động thực tiễn, giúp con ngời nhận thức
đợc thế giới.
Vậy phép biện chứng là gì và nó có ý nghĩa nh thế nào đối với nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con ngời?
Chúng ta sẽ xem xét các vấn đề này ở dới đây trong các khía cạnh, để
hiểu thêm về phơng pháp biện chứng và phép biện chứng duy vật.

1


A
I.

phơng pháp luận

Trớc khi tìm hiểu về các vấn đề của phép biện chứng duy vật ta sẽ xem
xét qua: nh thế nào là phơng pháp luận? Có thể nói một cách tổng quát phơng pháp luận là lý luận về phơng pháp, là khoa học về phơng pháp. phơng
pháp luận giải quyết các vấn đề nh:phơng pháp là gì? Bản chất, nội dung,
hình thức của phơng pháp nh thế nào? Phân loại phơng pháp ra sao? Vai trò
của phơng pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt đọng thực tiễn của con
ngời nh thế nào? Do đó có thể nói cách khác cụ thể hơn, phơng pháp luận
là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo cụ thể
tổng việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý có


hiệu quả tối đa.
Mọi khoa học đều có lý luận về phơng pháp của mình, vì khi nghiên
cứu đối tợng, các khoa học đều phải xác định cho đợc các phơng pháp thích
hợp, kiến giải tính tất yếu của các phơng pháp đợc sử dụng và mối liên hệ
giữa các phơng pháp đó.
Phơng pháp luận đợc phân thành:
- Phơng pháp luận phổ biến
- Phơng pháp luận chung và phơng pháp luận riêng
Giữa chúng có sự liên hệ tác động qua lại .
Đặc biệt phép biện chứng duy vật là phơng pháp luận phổ biến, có ý
nghĩa rất to lớn trong hoat động nhận thức và thực tiễn xã hội mà chúng ta
sẽ nghiên cứu dới đây
II.

vai trò của phơng pháp luận

1.

Phơng pháp biện chứng

Trớc hết chung ta cần hiểu phơng pháp biện chứnglà hệ thống các
nguyên tắc đợc hình thành trên cơ sở các nguyên lý, quy luật và phạm trù
của phép biện chứng duy vật. Các nguyên tắc này tuy có nội dung khác
nhau song chúng có sự liên hệ bổ sung lẫn nhau, tạo thành một công cụ có
vai trò to lớn trong nhận thức các quy luật của thế giới khách quan
2


Ta hãy xem xét một số nguyên tắc của phép duy vật biện chứng
Nguyên tắc về tính khách quan của sự xem xét

Cơ sở lý luận của nó là vai trò quyết định của vật chất trong quan hệ
đối vứi ý thức, còn yêu cầu đối với mọi khoa học ta khi nghiên cứu sự vật
phải xuất phát từ bản thân sự vật, để chỉ ra các quy luật khách quan chi phối
sự vận đông và phát triển của sự vật ấy
Nguyên tắc về tính toàn diện
Là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Trong các ngành khoa học, việc
nhận thức bản chất của sự vật phải đợc xem xét trong trạng thái toàn vẹn và
phức tạp của nó. Cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả
các mối liên hệ và quan hệ gián tiếpcủa sụ vật đó
Nguyên tắc xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động
Cơ sở lý luận là nguyên lý về sự phát triển. Với yêu cầu là khi thực hiện
nguyên tắc này không chỉ dừng ở chỗ liệt kê các giai đoạn phát triển lịch sử mà
sự vật đã trải qua, mà phải vạch ra tính tất yếu, những quy luật chi phối sự liên
hệ và thay thế các trạng thái, từ trạng thái này sang trạng thái khác của sự vật
Nguyên tắc thống nhất giữa lịch sử và logíc
ở đây:lịch sử là khách thể đợc nghiên cứu trong sự vận động và phát
triển. Logíc là sự tái tạo dới hình ảnh tinh thần khách quan đang vận động
và phát triển với những mối liên hệ tất yếu và xác định. Cơ sở lý luận của
nó là:phơng pháp lịch sử và phơng pháp logíc. Yêu cầu chung là phơng
pháp lịch sử phải nắm lấy cái logíc, xoay quanh cái logíc. Phơng pháp logíc
phải dựa trên các tài liệu lịch sử để vạch ra những mối liên hệ tất yếu,
những quy luật khách quan vốn có trong quá trình lịch sử.
Nguyên tắc thống nhất giữa phân tích và tổng hợp, giữa qui nạp và diễn dịch
Phân tích và tổng hợp đợc tiến hành trong quá trình nhận thức là sự lặp
lại trong ý thức quá trình phân giải và tổng hợp ở thế giới khách quan
Quy nạp là thao tác mà t duy đi từ tri thức về cái riêng (sự vật hiện tợng, quá trình riêng lẻ), đến tri thức về cái chung, từ tri thức ít chung đến tri
thức chung hơn
Diễn dịch là thao tácnhờ đó t duy đi từ tri thức chung đến tri thức ít
chung hơn, đến tri thức về cái riêng


3


Nguyên tắc đi từ trừu tợng đến cụ thể
Cơ sở lý luận là sự tổng hợp lại nhờ t duy lý luận các tài liệu do trực quan
sinh động đem lại, ở đây cái trừu tợng phản ánh những mối liên hệ phổ
biếnnhất, đơn giản nhất nhng có vai trò quyết định trong cái cụ thể nghiên cứu
2.

Phơng pháp biện chứng là đỉnh cao của t duy khoa học

Có thể nói giá trị của phép biện chứng duy vật không phải xuất phát từ ý
muốn chủ quan của những ngời sáng tạo ra nó mà giá trị đó đợc thể hiện ở chỗ
Giải pháp những vấn đề mà t tởng tiến tới của loài ngời đặt ra, soi sáng các
nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại, đó là nhiệm vụ giải phóng con
ngời khỏi mọi hình thức áp bức bóc lột, khỏi sự tha hoá. Mác khẳng định:Các
nhà triết học trớc đây chỉ tìm mọi cách giải thích thế giới bằng những cách
khác nhau, song cái chính là cải tạo thế giới. Có thể nói rằng cho đến nay,
phép biện chứng duy vật vẫn là cơ sở thế giới quan, phơng pháp luận khoa học
duy nhất đáp ứng đợc nhiệm vụ lịch sử đó mà cha có mặt học thuyết nào có
thể thắng thế đợc, không chỉ những ngời Macxít chân chính là ngay cả một số
học giả t sản cũng thừa nhận vai trò của học thuyết đó. Chỉ có phép biện chứng
duy vật mới có sự giải thích khoa học về những quá trình vận động, phát triển
của tự nhiên, xã hội và t duy, nắm đợc quy luật vận động của lịch sử, đem lại
một giải pháp khoa học cho những vấn đề cho cuộc sống đặt ra và đặt ra phơng hớng giải quyết những vấn đề đó một cách khoa học. Tuy nhiên, nếu chỉ
dừng lại ở sự thừa nhận thôi cha đủ. Ngày nay, khoa học và thực tiễn luôn vận
động, biến đổi nên triết học Mác-Lênin nói chung và phép biện chứng duy vật
nói riêng cũng cần đợc bổ sung và phát triển nếu chúng ta không muốn lạc
hậu so với thực tiễn. Phép biện chứng duy vật vừa là yêu cầu của thực tiễn xã
hội, vừa là yêu cầu của nội tại học thuyết đó. Có phát triển đợc và thông qua

phát triển, học thuyết đó mới bảo vệ mình và mới phát huy đợc tác dụng và
những giá trị của nó.
Trớc Mac-Ănghen trong cuộc đấu tranh trờng kỳ của các phái trào lu
triết học, nhân loại đã biết đến nhiều nhà duy vật và biện chứng lớn, đánh
dấu những bớc phát triển mới của t duy triết học của con ngời trên con đờng
tìm tới chân lý. Thế nhng tất cả các nhà triết học đó do sự hạn chế của các
điều kiện khách quan và chủ quan đều cha đem lại choloài ngời một thế
giới toàn bộ triệt để, một phơng pháp luận khoa học cách mạng ở các vị trí
đó ta thờng bắt gặp tính không nhất quán, duy vật khi giải thích vấn đề này,
nhng lại duy tâm khi giải thích vấn đề khác, duy vật nhng lại siêu hình,
không biện chứng hoặc biện chứng nhng lại tiến tới duy tâm. Điều quan
trọng nhất là tất cả các nhà triết học trớc Mác để đứng lại ở nhận thức lĩnh
vựctự nhiên và khi chuyển sang nhận thức vấn đề xã hội họ đều không

4


tránh khỏi rơi vào duy tâm, sai lầm, phản khoa học. Mác-Ănghen là những
ngời đầu tiên thống nhất chủ nghĩa duy vật biện chứng hay phép biện chứng
duy vật. phép biện chứng ra đời đánh dấu bớc phát triển mới về chất trong
lĩnh vực triết học, đó là học thuyết triết học hoàn bị, triệt để thống nhất đợc
xây dựng trên lập trờng thế giới quan mới. Nó bao hàm cả lĩnh vự tự nhiên
xã hội và t duy con ngời. Phép biện chứng duy vật không phải là tổng số
những nguyên lý, quy luật, phạm trù mà các nhà kinh điển của chúng ta tạo
ra là sự liên hệ hữu cơ có nguyên tắc của các tri thức đã đựoc xác lập trong
hệ thống ấy. Giá trị thời đại của học thuyết ấy là ở chỗ nó là sự thống nhất
hữu cơ giữa lý luận và phơng pháp, giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính khoa
học và cách mạng.
Phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở, năng động, nó dành cả
một phơng hớng rộng lớn cho sự chứng minh của khoa học, cho sự bù đắp

của tri thức nhân loại, là sự hớng dẫn và là động lực cho con ngời trong việc
cải tạo tự nhiên xã hội và t duy. Phép biện chứng ra đời từ sự sáng tạo và
đồng thời cũng đặt ra yêu cầu sáng tạo trong việc vận dụng nó trong nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn. Nếu nh trớc đây phép biện chứng đôi khi
do các nhà duy tâm nghiên cứu và các nhà duy vật dù là phản đối phép siêu
hình thì bây giờ phép biện chứng đó đã tìm thấy ngời bạn đồng hành tin cậy
duy nhất của mình là chủ nghĩa duy vật. Nếu nh trớc đây lý luận và phơng
pháp đôi khi bị tách rời nhau, thì bây giờ chúng đẫ trở thành sự thống nhất
gắn bó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong phép biện chứng duy vật đã
trở thành học thuyết thống nhất của tồn tại và nhận thức, trở thành phơng
pháp luận chung nhất của việc nhận thức và cải tạo thế giới. Lênin khẳng
định phép biện chứng duy vật làhọc thuyết về sự phát triển, dới hình thức
hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện
Phép biện chứng duy vật không giống bất cứ một học thuyết triết học nào
khác, bởi vì nó không phải là sản phẩm của phơng pháp t duy mà nó là sự phản
ánh khách quan thế giới vật chất, là sự kích thích những giá trị t tuởng, văn hoá
nhân loại, nó kế thừa tiếp thu có phân hoá những hạn chế của chủ nghĩa duy vật
và phép biện chứng trong lịch sử, đồng khái quát những thàng tựu mới nhất của
khoa học tự nhiên. Học thuyết đó luôn lấy thực tiễn làm cơ sở, điểm xuất phát
của mình. Thực tiễn vừa là cơ sở, vừa là mục đích, động lực, tiêu chuẩn để đánh
giá sức bền của nó. Chính hơi thở của thực tiễn đã làm cho phép biện chứng duy
vật luôn sống động, phát triển. Lênin chỉ rõ: "Quan điểm về đời sống, về thực
tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức.
Trong quá trình xây dựng hệ thống triết học của mình các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác luôn đấu tranh không khoan nhợng chống lại mọi luận điệu
xuyên tạc của kẻ thù và bảo vệ những quan điểm khoa học của mình.

5



B

phép biện chứng duy vật
Có thể nói từ thời cổ đại ngời ta đã hiểu phép biện chứng là nghệ thuật
tranh luận để tìm ra chân lý, bằng cách vạch ra những mâu thuẫn trong lập
luận của đối phơng. Quan điểm ấy đã thể hiện những hiểu biết nhất định về
yếu tố cơ bản của phép biện chứng là mâu thuẫn.
Định nghĩa phép biện chứng cho biết, phép biện chứng nói chung chỉ
mối liên hệ, vận động, phát triển của các sự vật phát triển. Thực chất của
các mối liên hệ vận động phát triển ấy là sự thống nhất, đấu tranh của các
mặt đối lập gọi là mâu thuẫn.
Quan điểm biện chứng cho rằng các sự vật, hiện tợng hay những sản
phẩm tinh thần của thế giới, tồn tại trong mối liên hệ, tác động lẫn nhau và
không ngừng vận động phát triển.
Đối lập với quan điểm biện chứng, quan điểm siêu hình cho rằng các
sự vật hiện tợng trong thế giới tồn tại cô lập, tách rời nhau, tĩnh tại, không
vận động, không phát triển. Nếu có sự thừa nhận trong quan điểm này về
vận động của thế giới thì đó chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về lợng hoặc vân
động theo chu kỳ khép kín.
Những ngời theo quan điểm siêu hình nói chung phủ nhận sự phát
triển, họ tuyệt đối hoá các mặt ổn định của sự vật, hiện tợng. Họ cho rằng
không có sự ra đời của cái mới và nguồn gốc của chúng nằm ở bên ngoài sự
vật, hiện tợng. Nh vậy quan điểm biện chứng khác quan điểm siêu hình ở
chỗ:Nó xem xét sự phát triển nh một quá trình tiến lên, thông qua những bớc nhảy vọt, cái cũ mất đi và cái mới ra đời. Nó vạch ra nguồn gốc bên
trong của sự vận động và phát triển, đó là cuộc đấu tranh giữa những mặt
đối lập bên trong của sự vật, hiện tợng.
Có hai loại phép biện chứng đó là:biện chứng khách quan và biện
chứng chủ quan
Trong lịch sử triết học có ba hình thức cơ bản của phép biện chứng,
phản ánh trình độ nhận thức khác nhau của nhân loại về biện chứng khách

quan của thế giới:phép biện chứng ngây thơ, phép biện chứng duy tâm,
6


phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng ngây thơ tự phát cổ đại, tiêu biểu là Hêcralít. Ông
cho rằng sự vận động và phát triển của thế giới giống nh dòng chảy của một
con sông, nh vậy không ai tắm hai lần trên một dòng sông. Biện chứng ngây
thơ dựa trên quan sát có tính trực quan, chỉ có ý nghĩa vô thần, chống lại
quan niệm tôn giáo về thế giới, ít có giá trị khoa học. Biện chứng ngây thơ
là hạn chế, bị phơng pháp siêu hình xoá bỏ
Biện chúng duy tâm, ngời tiêu biểu cho phép biện chứng duy tâm
khách quan là Heghen. Ông là ngời đầu tiên có công xây dựng tơng đối
hoàn chỉnh phép biện chứng duy vật với hệ thống các phạm trù, khái niệm,
và các qui tắc cơ bản. Tuy nhiên, phép biện chứng của Heghen còn thiếu
triệt để và thiếu khoa học.
Biện chứng duy vật do Mác-Ănghen sáng lập ra vào giữa thế kỷ 19.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật
và phơng pháp luận biện chứng. Nhờ đó khắc phục đợc các hạn chế trớc đây
của phép biện chứng chất phác và phép biện chứng duy tâm và thực sự trở
thành khoa học, đa con ngời tới bến bờ chân lý. Phép biện chứng duy vật
bao gồm các nguyên lý, phạm trù, qui luật
Ta sẽ lần lợt xem xét các khía cạnh này
I.

hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật

1.

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tợng


Trớc hết ta cần hiểu mối liên hệ là chỉ sự phụ thuộc tác động và
chuyển hoá lẫn nhau của các sự vật, hiện tợng hoặc giữa các yếu tố, các mặt
hay các quá trình khác nhau của chúng. Các mối liên hệ không chỉ mang
tính chất phổ biến mà còn mang tính đa dạng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm liên hệ phổ biến là liên hệ
giữa các sự vật, hiện tợng của toàn bộ thế giới khách quan(gồm cả tự nhiên,
xã hội và tinh thần). Theo nó trong thế giới không có sự vật nào tồn tại độc
lập, tách rời, không liên hệ với các sự vật khác, trái lại chúng đều liên hệ
với nhau theo phơng thức nào đó và tạo những hệ thống chằng chịt của thế
giới. Liên hệ không chỉ giữa các sự vật với nhau mà còn có các yếu tố, các
mặt bên trong của sự vật, giữa các giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật.
Đối lập với quan điểm về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng
duy vật. Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật trong thế giới tồn tại một cách
7


cô lập, tách rời nhau. Còn quan điểm biện chứng duy vật cho rằng mối liên
hệ phổ biến là liên hệ hiện thực khách quan vốn có trong các sự vật, hiện tợng không do ai sắp đặt, sáng tạo ra cả. Đặc trng của mối liên hệ là mang
tính phổ biến, mang tính khách quan và tính đa dạng
Trong các mối liên hệ, có thể phân ra một số loại nh sau:
Liên hệ bên trong và bên ngoài, liên hệ bên trong là liên hệ giữa các
yếu tố các mặt bên trong của sự vật còn liên hệ bên ngoài là liên hệ giữa các
sự vật với nhau. Liên hệ bên trong qui định sự tồn tại, phát triển của sự vật,
liên hệ bên ngoài tác động thông qua liên hệ bên trong. Mối liên hệ bên
trong và bên ngoài chỉ có tính tơng đối
Liên hệ cơ bản và không cơ bản, liên hệ cơ bản là mối liên hệ giữa các
mặt, các yếu tố cơ bản của sự vật. Liên hệ không cơ bản là mối liên hệ giữa
các mặt, các yếu tố không cơ bản của sự vật. Liên hệ cơ bản quyết định sự
phát triển của sự vật, còn liên hệ không cơ bản phụ thuộc vào liên hệ cơ

bản. Sự phân biệt chúng chỉ mang tính tơng đối.
Liên hệ chủ yếu và liên hệ thứ yếu, liên hệ chủ yếu là liên hệ nổi lên ở
một thời điểm nhất định trong sự phát triển của sự vật và quyết định sự phát
triển của sự vật tại thời điểm đó, còn liên hệ thứ yếu là liên hệ không quyết
định sự phát triển của sự vật ở thời điểm nói trên. Hai mối liên hệ này có
thể chuyển hoá lẫn nhau
Liên hệ gián tiếp và liên hệ trực tiếp, liên hệ gián tiếp là liên hệ đợc
xác lập qua khâu trung gian nào đó, còn liên hệ trực tiếp là liên hệ không
qua trung gian. Sự phân biệt này chỉ mang tính tơng đối
Những mối liên hệ khác nhau của sự vật có nội dung và vai trò khác
nhau trong sự tồn tại, phát triển của sự vật
ý nghĩa phơng pháp luận nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Cần xuất phát từ tính khách quan của mối liên hệ để nhận thức và vận
dụng nó. Cần phải có quan điểm toàn diện trong việc nhận thức và tác động
lên sự vật. Nghĩa là khi nhận thức và vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến, phải đặt sự vật, hiện tợng trong các mối liên hệ khách quan, vốn có
của nó để nghiên cứu và tác động lên chúng. Cần phải phân loại các mối
liên hệ để thấy đợc nội dung, vị trí và vai trò của mối liên hệ trong sự phát
triển của sự vật.

8


2.

Nguyên lý về sự phát triển của các sự vật hiên tợng

Có thể hiểu phát triển là sự vận động của các sự vật, hiện tợng theo
chiều hớng đi lên từ thấp lên cao, từ giản đơn đến phức tạp, đa đến sự ra
đời của cái mới thay thế cho cái cũ.

Quan điểm siêu hình nói chung về sự phát triển là coi phát triển chỉ là
sự biến đổi thuần tuý về lợng hoặc phủ nhận sự phát triển của thế giới.
Quan điểm siêu hình cho rằng, nguồn gốc phát triển đợc đem từ ngoài vào
thế giới.
Chủ nghĩa duy tâm nói chung cho rằng, sự phát triển thế giới về thực
chất chỉ là sự phát triển của tinh thần và do nguyên nhân tinh thần chi phối.
Sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn liền với sự vận
động, không có sự vận động tơng tác giữa các sự vật, hiện tợng với nhau thì
không có khả năng hoặc tiền đề để cho bất cứ sự phát triển nào. Tuy nhiên,
không phải vận động nào cũng đa tới sự phát triển. Trong thực tế có những
vận động thụt lùi, kìm hãm tiến bộ. Chỉ có các vận động theo chiều hớng
tiến lên, đa đến sự ra đời của cái mới thay thế cho cái cũ mới là sự phát
triển. Không có cái mới xuất hiện thì không có sự phát triển. Cái mới bao
hàm trong nó cái tiến bộ, cái tích cực, sau khi đã loại bỏ cái tiêu cực, cái lạc
hậu của cái cũ. Cái mới làmột chất lợng khác, mới trong sự phát triển của sự
vật. Nó tổng hợp sự phát triển của sự vật trớc đó thành một giai đoạn cao
hơn.
Phát triển là quá trình khách quan của thế giới. Nó không chỉ phụ
thuộc vào ý thức, ý chí con ngời mà còn qui định ý thức con ngời.
Phát triển còn là quá trình phổ biến của thế giới, đồng thời là quá trình
mang tính đa dạng. Mỗi sự vật, hiện tợng trong thế giới có quá trình phát
triển và biểu hiện sự phát triển khác nhau
Phát triển còn là quá trình thống nhất giữa tính tất yếu và tính đa dạng.
Khuynh hớng chung, tất yếu của thế giới là quá trình vận động đi lên từ
thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp đa đén sự xuất hiện của cái mới thay
thế cho cái cũ. Phát triển là một quá trình quanh co, phức tạp, bao hàm cuộc
đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, bao hàm cả những bớc hụt lùi tạm thời,
những sự vận động đi chệch, một quá trình dờng nh lặp lại cái cũ nhng ở
một trình độ cao hơn. Do đó phát triển đợc diễn đạt nh một đờng xoắn ốc đi
từ thấp lên cao của thế giới khách quan.

ý nghĩa phơng pháp luận của nguyên lý về sự phát triển
9


Cần xuất phát từ quá trình phát triển khách quan của sự vật để nhận
thức, tác động lên nó. Phát triển là quá trình tất yếu khách quan cho nên
phải có quan điểm phát triển trong nhận thức thì mới phản ánh, nắm bắt
đúng đắn, kịp thời những thay đổi của sự vật, hiện tợng để từ đó đề ra
những giải pháp tác động cải biến sự vật một cách phù hợp. Phát triển là
quá trình bao hàm những mâu thuẫn có cả những bớc thụt lùi tất nhiên,
không tránh khỏi, do đó cần phải lờng trớc và biết chấp nhận những thất bại
tạm thời để chuẩn bị cho những bớc đi tiếp theo nhằm đạt đợc mục đích
cuối cùng trong hoạt động.
III. những qui luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

1.

Qui luật mâu thuẫn

Mâu thuẫn và mặt đối lập thờng đợc dùng nh những khái niệm đồng
nghĩa. Nhng hiểu cho đúng hơn thì mâu thuẫn là mối quan hệ giữa các mặt
đối lập, còn mặt đối lập là mỗi mặt hợp thành của mâu thuẫn. Mỗi mặt đó
hợp thành từ nhiều thuộc tính, nhiều khuynh hớng khác nhau.
Trong thực tế không phải mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn,
chỉ những mặt đối lập nào liên hệ với nhau thành một chỉnh thể, tác động
qua lại với nhau mới thành mâu thuẫn. Khái niệm khác nhau chỉ là một
trong những hình thức biểu hiện một giai đoạn phát triển của mâu thuẫn.
Tuy nhiên không chỉ có sự khác nhau biến thành mặt đối lập, thành mâu
thuẫn mà còn có cả quá trình những mặt đối lập, mâu thuẫn biến thành sự
khác nhau

Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ sự loại trừ loại bỏ lẫn
nhau, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Đấu tranh xuất hiện khi mâu
thuẫn phát triển cao, đa đến sự xuất cái mới. Đấu tranh là phơng thức tất
yếu để giải quyết mâu thuẫn.
Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập chỉ sự liên hệ ràng buộc, qui
định lẫn nhau giữa các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại
cho mình
Trong qui luật mâu thuẫn, khái niệm thống nhất và đồng nhất dùng nh
những hái niệm đồng nghĩa. Lênin nói về điều này nh sauSự đồng nhất
giữa các mặt đối lập(sự thống nhấtcủa chúng, nói nh vậy có lẽ đúng hơn?
tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ thống nhất và đồng nhất không quan
trọng lắm. Theo một nghĩa nào đó thì cả hai đều đúng), đó là sự thừa

10


nhận(sự tìm ra), những khuynh hớng mâu thuẫn bài trừ lẫn nhau, đối lập
trong tất cả các hiện tợng, các quá trình của giới tự nhiên(kể cả tinh thần và
xã hội)
Chúng ta có thể chỉ rasố đặc điểm của mâu thuẫn nh sau:
Mâu thuãn tồn tại khách quan trong các sự vật, hiện tợng. Nó không
những tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí con ngời mà còn
qui định cả ý thức, ý chí con ngời
Mâu thuẫn mang tính phổ biến. Mâu thuẫn có trong mọi sự vật, hiện tợng của thế giới bao gồm cả tự nhiên, xã hội, lẫn t duy con ngời. Mâu thuẫn
có trong các giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật và tồn tại giữa các sự
vật, hiện tợng
Mâu thuẫn mang tính đa dạng. Mỗi sự vật quá trình của thế giới khách
quan tồn tại những mâu thuẫn khác nhau. Mâu thuẫn trong tự nhiên khác
mâu thuẫn trong xã hội, khác mâu thuẫn trong t duy. Bản thân mọi quá
trình khác nhau trong tự nhiên, xã hội, t duy lại có những mâu thuẫn khác

nhau
Có một số loại mâu thuẫn:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn của các mặt đối lập bên trong sự
vật, còn mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật khác nhau
Mâu thuẫn bên trong quyết định mâu thuẫn bên ngoài và là nguồn gốc
bên trong của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tợng. Mâu thuẫn bên
ngoài tác động đến sự phát triển của sự vật phải thông qua mâu thuẫn bên
trong
Sự vật nào cũng có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Phân
biệt mâu thuẫn bên trong và bên ngoài mang tính tơng đối
Mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản
Mâu thuẫn cơ bản qui địnhbản chất của sự vật, nó quyết định sự tồn
tại, phát triển của sự vật từ khi hình thành cho đến khi biến đổi thành sự vật
khác.
Mâu thuẫn không cơ bản đợc tạo thành từ những mặt đối lập không cơ
bản của sự vật, nó không qui định bản chất của sự vật và bị qui định mâu
thuẫn cơ bản. Phân biệt mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản chỉ mang tính t-

11


ơng đối
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên trong từng giai đoạn phát
triển nhất định của sự vật và quyết địng sự phát triển của sự vật tại giai đoạn
đó và chi phối các mâu thuẫn khác.
Thông thờng, mâu thuẫn chủ yếu là hình thức biểu hiện cụ thể của
mâu thuẫn cơ bản trong giai đoạn nhât định của sự vật
Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không quyết định sự phát triển của sự

vật tại thời điểm, giai đoạn nào đó, nó tác động phụ thuộc vào mâu thuẫn
chủ yếu
Phân biệt mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu có tính tơng đối
Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
Đây là những loại mâu thuẫn chỉ có trong xã hội. Mâu thuẫn đối
kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp xã hội có lợi ích căn bản đối lập
nhau, không thể điều hoà đợc. Mâu thuẫn này phát triển theo xu hớng ngày
càng găy gắt hơn và đòi đợc giải quyết bằng bạo lực cách mạng của gia cấp
bị thống trị chống lại bạo lực của giai cấp thống trị đã lỗi thời, phản động.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lợng, giai
cấp xã hội không đối lập nhau về lợi ích căn bản. Mâu thuẫn này phát triển
theo xu hớng ngày càng dịu đi. Cách giải quyết mâu thuẫn này là bằng con
đờng hoà bình, giáo dục, thuyết phục, phê và tự phê bình
Cả hai mâu thuẫn này đều đợc giải quyết bằng con đờng đấu tranh
giữa các mặt đối lập, chứ không phải là điều hoà giữa các mặt đối lập.
ý nghĩa phơng pháp luận của qui luật mâu thuẫn
tôn trọng tính khách quan của qui luật. Nghĩa là trong hoạt động thực
tiễn và nhận thức qui luật phải xuất phát từ sự tồn tại thực tế của qui luật
mâu thuẫn để nhận thức và vận dụng nó, chứ không đợc xuất phát từ mong
muốn, của nhận thức của chúng ta về mâu thuẫn
Muốn tìm hiểu đợc nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển
của sự vật thì phải tìm ra, phải căn cứ vào mâu thuẫn của sự vật.
Mâu thuẫn là quá trình, do đó phải nhận thức và vận dụng qui luật mâu
thuẫn trong quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, tuỳ theo mỗi giai đoạn
phát triển của mâu thuẫn mà có những cách tác động lên mâu thuẫn khác
12


nhau.
Phải có quan điểm phân loại mâu thuẫn trong nhận thức và vận dụng nó.

Mọi mâu thuẫn dứt khoát phải đợc giải quyết thông qua con đờng đấu
tranh giữa các mặt đối lập, tránh khuynh hớng thủ tiêu mâu thuẫn hay điều
hoà mâu thuẫn dới hình thức này hay khác.
2.

Qui luật từ những thay đổi về lợng dẫn đến những thay đổi về chất
và ngợc lại hay còn gọi là qui luật lợng chất

Qui luật lợng chấtvạch ra phơng thức hay cách thức của sự vận động
phát triển của thế giới.
Chúng ta hãy xem xét qua một số khái niệm. Trớc hết đó là khái niệm
chất, có thể hiểu chất là tính qui định vốn có của sự vật, hiện tợng, là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự
vật đó là gì và phân biệt nó với các sự vật hiện tợng khác.
Lợng là tính qui định của sự vật và hiện tợng về mặt qui mô, trình độ
phát triển của nó, biểu thị bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành
nó.
Giữa lợng và chất có sự thống nhất:Lợng và chất là hai mặt cấu thành
của cùng một sự vật hiện tợng, không có lợng tồn tại tách rời với chất và
ngợc lại. Lợng và chất là hai mặt mâu thuẫn của cùng một sự vật, lợng thờng xuyên biến đổi còn chất có xu hớng ổn định, bền vững hơn. Lợng và
chất tồn tại, tác động qua lại với nhau trong suất quá trình tồn tại, phát triển
của sự vật
Khái niệm độ chỉ giới hạn mà trong những thay đỏi về lợng cha làm
cho chất của sự vật thay đổi, sự vật vẫn là nó cha biến thành sự vật khác.
Từ thời điểm mà sự vật diễn ra những thay đổi về chất cho đến khi nó
chuyển hoàn toàn thành chất mới là quá trình mà ngời ta gọi là bớc nhảy
Tại thời điểm mà sự vật biến đỏi thành sự vật khác, chất cũ hoàn toàn
thay thế bằng chất mới, tagọi là điểm nút trong sự phát triển của sự vật.
Trong các hình thức của bớc nhảy, có thể phân loại nh sau:Bớc nhảy
toàn bộ và bớc nhảy bộ phận, bớc nhảy nhanh và bớc nhảy chậm, bớc nhảy

lớn và bớc nhảy nhỏ.
ý nghĩa phơng pháp luận của qui luật

13


để giữ cho sự vật phát triển tơng đối ổn địng trong một chất xác định
thì phải giữ vững sự thống nhất của chúng trong độ, sao cho những thay đổi
về lợng ở đó không dẫn đén những thay đổi về chất.
Muốn đạt đợc sự thay đổi về chất của sự vật thì phải thực hiện những
biến đổi dần dần về lợng, tránh khuynh hớng xem thờng những biến đổi về
lợng đẻ thực hiện ngay những biến đổi về chất(tả khuynh).
Tuỳ theo tính chất cụ thể của những hình thức tác động biểu hiện của
qui luật mà có những phơng thức, biện pháp tác động, vận dụng chúng thích
hợp.
3.

Qui luật phủ định

Có thể nói phủ định là quá trình hình thành và phát triển cái mới trên
cơ sở loại bỏ những cái lạc hậu, cái tiêu cực trong cái cũ, giữ lại cái toàn bộ,
cái tích cực trong nó và đem vào trong thành phần của cái mới sau khi đã
cải biến.
Quan điểm trênlà quan điểm về phủ định biện chứng. Nó đối lập với
phủ định siêu hình là quá trình loại bỏ, tách rời hoàn toàn cái cũ khỏi cái
mới.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về phủ định chỉ rõ, phủ
định biện chứng chỉ ra sự nảy sinh cái mới trong lòng cái cũ, bắt nguồn từ
cái cũ. ở đây phủ định là sự gián đoạn trong sự phát triển liên tục của sự vật.
Nhờ những giai đoạn này, mà sự vật đạt đợc những trạng thái chất lợng mới

trong sự tồn tại, phát triển của chúng.
Phủ định biện chứng là quá trình nhiều mặt, không những phủ định về
lợng mà còn về chất, bộ phận và toàn bộ, phủ định bao hàm cả khẳng định.
Phủ định biện chứng là tự sự phủ định do mâu thuẫn bên trong của sự vật
qui định, chứ không phải là quá trình đem từ ngoài vào sự vật. Phủ định là
một phơng thức mới, một thành tố tất yếu của quá trình phát triển. Sự vật
mới, yếu tố mới, hình thành phát triển nhất định phải phủ định sự vật và
yếu tố cũ. Không có phủ định thì không có bất cứ quá trình phát triển nào.
Khái niệm phủ định của phủ định:phủ định của phủ định là khái niệm
chỉ quá trình phát triển của sự vật từ thấp lên cao đợc thực hiện bằng hai lần
phủ định cơ bản, nhờ đó sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành.
Trong thực tế phủ định của phủ định là một chuỗi những phủ định.
Mỗi phủ định đều bao hàm khẳng định. Phủ định cho ta thấy tính chất lặp
14


lại trong quá trình phát triển của sự vật. Sau lần phủ định thứ hai sự vật dờng nh trở lại cái ban đầu.
Nhng thực tế sự quay trở lại đó đã ở trên một trình độ cao hơn về chất
so với cái ban đầu của nó. Phủ định nối tiếp nhau theo những chu kỳ tạo
thành đờng xoắn ốc.
Trong thế giới khách quan, phủ định của phủ định là quá trình đa
dạng, phong phú, cũng đồng thời là quá trình khách quan, tât yếu không
phụ thuộc vào ý thức ý muốn của con ngời. Phủ định của phủ định là quá
trình phổ biến trong tự nhiên, xã hội và cả t duy con ngời.
ý nghiã phơng pháp luận của qui luật
Nhận thức và tác động vào qui luật phủ định của phủ định theo quan
đIểm biện chứng có nghĩa là:Nắm vững quan điểm kế thừa trong sự phát
triển, vận dụng qui luật này theo nguyên tắc đi từ phủ định bộ phận đến phủ
định toàn bộ, căn cứ vào chu kỳ phát triển của sự vật thể hiện qua phủ định
của phủ định đẻ nhận thức xu thế tất yếu của nó, nắm vững mối liên hệ của

cái nhất thời, cái bộ phận với cái liên tục, cái chung và cái toàn vẹn trong
quá trình phủ định biện chứng.
Tóm lại, quy luật mâu thuẫn, quy luật lợng chất, quy luật phủ định đều
là những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Chúng đều phản ánh
những mối liên hệ căn bản phổ biến và lặp đi lặp lại trong thế giới khách
quan, qui định những mặt khác nhau trong sự tồn tại và phát triển của sự
vật, trong đó quy luật mâu thuẫn đợc coi là quyluật cơ bản nhất, quyết định
những quy luật khác và nó đợc gọi là hạt nhân của phép biện chứng.
IV. Những cặp phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật
Phạm trù là khái niệm cơ bản của khoa học, phản ánh các mối liên hệ
chung, cơ bản của các sự vật, hiện tợng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng có
một số cặp phạm trù sau:
Cái chung và cái riêng
Cái riêng là phạm trù triết học chỉ từng sự vật, hiện tợng, quá trình
phát triển trong thế giới khách quan. Cái chung là phạm trù triết học chỉ
những thuộc tính, những mặt hoặc những mối liên hệ nhất định lặp lại,
giống ở nhiều sự vật, hiện tợng, quá trình khác nhau. Cái đơn nhất là phạm
trù chỉ những thuộc tính, hay yếu tố nào đó của sự vật nhất định, không tồn
tại lặp lại trong các sự vật khác. Giữa cái riêng và cái chung có mối liên hệ
15


thống nhất với nhau. Tuy nhiên giữa chúng cũng có sự đối lập, cái riêng là
bộ phận còn cái chung là toàn thể. Cái chung, cái riêng, cái đơn nhất có thể
chuyển hoá lẫn nhau.
Chúng ta phải thấy đợc vai trò quan trọng, quyết định của cái chung
trong sự thiết lập hệ thống các sự vật. thấy đợc tính phong phú, toàn thể của
cái riêng trong sự tồn tại tất yếu của sự vật. Cái đơn nhất thể hiện tính khác
biệt của cái riêng này và cái riêng khác.
Nguyên nhân và kết quả

Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố của sự
vật hay các sự vật với nhau trong điều kiện nào đó, thì gây ra sự biến đổi
này hay khác của sự vật. Kết quả là sự biến đổi do tác động lẫn nhau của
các yếu tố, các mặt hay các sự vật khác nhau gây nên. Quan hệ nhân quả
tồn tại, tác động khách quan, phổ biến và đa dạng trong thế giới. Giữa
nguyên nhân và kết quả có một số mối quan hệ:nguyên nhân và kết quả là
hai mặt của quá trình thống nhất, giữa nguyên nhân và kết quả cũng có sự
đối lập, nguyên nhân kết quả có thể chuyển hoá lẫn nhau. Trong nguyên
nhân lại gồm một số loại nguyên nhân:nguyên nhân bên trong và nguyên
nhân bên ngoài, nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân không cơ bản, nguyên
nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân chủ quan và nguyên
nhân khách quan. Chúng ta tôn trọng tính khách quan của quan hệ nhân
quả. Muốn hiểu nguyên nhân thì phải thông qua kết quả. Phải có quan điểm
phân loại nguyên nhân mới thấy vai trò của mỗi nguyên nhân trong việc
quyết định kết quả. Muốn khắc phục triệt để hậu quả phải khắc phục từ
nguyên nhân. Đó chính là ý nghĩa của phơng pháp luận của quan hệ nhân
quả.
Bản chất và hiện tợng
Bản chất là tổng hợp những mối liên hệ bên trong tất nhiên tơng đối ổn
định của sự vật, và qui định sự tồn tại, phát triển của sự vật. Hiện tợng là
những cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất. Giữa bản chất và hiện tợng
có sự thống nhất, bản chất là cái quyết định hiện tợng, không có bản chất
thì không có hiện tợng, hiện tợng chỉ là biểu hiện của bản chất. Bản chất
thay đổi thì hiện tợng cũng thay đổi. Bản chất và hiện tợng còn có cái đối
lập, bản chất là cái bên trong ổn định, tất yếu. Hiện tợng là cái bề ngoài, cái
tạm thời, ngẫu nhiên. Ta cần l ý, nhận thức bản chất của sự vật phải thông
qua các hiện tợng. Để giải thích đúng mỗi hiện tợng lại phải dựa vào hiểu
biết bản chất của chúng. Muốn có sự thay đổi về chất của sự vật thì phải
16



làm thay đổi liên hệ cơ bản của chúng.
Nội dung và hình thức
Nội dung là toàn bộ những yếu tố, những thuộc tính, những mặt,
những quá trình khác nhau tạo nên sự vật, hiện tợng. Hình thức là cách thức
hay phơng thức tổ chức của nội dung(hay là sự liên kết sắp xếp các yếu tố,
các thuộc tính, các quá trình khác nhau của sự vật theo một phơng thức hay
cách thức nào đó). Giữa nội dung và hình thức có sự thống nhất, nội dung
và hình thức là hai mặt không tách rời nhau của sự vật, hiện tợng. Không có
nội dung, không có hình thức và ngựoc lại. Tuy nhiên, có một sự đối lập
giữa nội dung và hình thức, nội dung quyết định hình thức, hình thức tác
động lên nội dung nhng không quyết định đối với sự tồn tại, phát triển của
sự vật. Nội dung và hình thức có thể chuyển hoá cho nhau, giữa chúng
không có ranh giới tuyệt đối. Qua đó, chúng ta nhận thấy muốn thay đổi sự
vật thì phải biến đổi trớc hết các yếu tố của nó. Trong tổ chức hoạt động của
con ngời, cần phải chuẩn bị trớc hết các nhân tố, yếu tố tích cực cho việc
thiết lập những tổ chức mới.
Tất nhiên và ngẫu nhiên
Tất nhiên là cái xảy ra do nguyên nhân bên trong cơ bản của sự vật qui
định và trong những điều kiện nhất định, nó nhất định phải xảy ra đúng nh
thế không thể khác đợc. Ngẫu nhiên là cái xảy ra do nguyên nhân bên trong
của sự vật qui định. Cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên tồn tại khách quan, phổ
biến và đa dạng trong các sự vật hiện tợng. Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có
một sự thống nhất, tất nhiên chỉ có thể xem xét trong quan hệ với cái ngẫu
nhiênvà ngợc lại. Không có tất nhiên thì không có ngẫu nhiên và ngợc lại
cũng nh thế.
Muốn nhận thức cái ngẫu nhiên phải chỉ ra nguyên nhân bên trong cơ
bản qui định nó, đối với cái ngẫu nhiên thì giải thích từ nguyên nhân bên
ngoài. Nhận thức tất nhiên giúp ta khắc phục hậu quả từ nguồn gốc, từ
nguyên nhân của nó.

Khả năng và hiện thực
Khả năng là những tiền đề phát sinh của cái mới bên trong cái cũ, là
những mầm mống, khuynh hớng phát triển khách quan trong các sự vật.
Hiện thực là sự xuất hiện của những sự vật, quá trình mới, hay là khả năng
đã thành hiện thực. Khả năng và hiện thực là hai giai đoạn của một quá
trình thông nhất trong sự phát triển của sự vật. Không có khả năng thì
17


không có hiện thực và ngợc lại. Khả năng nào thì hiện thực đó, không có
khả năng cho mọi hiện thực và hiện thực cho mọi khả năng. Khả năng và
hiện thực khác nhau về bản chất, khả năng là cái có trớc và hiện thực là cái
có sau. Khả năng qui định hiện thực còn hiện thực phụ thuộc vào khả năng.
Giữa khả năng và hiện thực có thể chuyển hoá lẫn nhau.

18


Kết luận
Phép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với qui luật phát
triển của nhận thức. Đây là một triết học toàn diện nhất, sâu sắc nhất và
triệt để nhất của sự vận động và phát triển của thế giới vật chất. Với bản
chất khoa học cách mạng
Phép biện chứng duy vật đã, đang và tiếp tục cung cấp cho chúng ta hệ
thống các nguyên tắc phơng pháp luận phổ biến, thực sự khoa học và có
hiệu quả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hộinói chung. Vận dụng
trung thành và sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là phép biện chứng
duy vật là vấn đề nguyên tắc đối với tất cả các Đảng Cộng Sản và phong
trào công nhân quốc tế, trong đó có Việt Nam. Thực tiễn chứng minh rằng,
trải qua những bớc khác nhau trong mọi hoàn cảnh, phép biện chứng duy

vật luôn tỏ ra là đỉnh cao của trí tuệ loài ngời, luôn có ý nghĩa thực tiễn hết
sức to lớn. Thực tiễn cũng luôn xảy ra các vấn đề hết sức phức tạp của từng
nớc, từng quốc gia, dân tộc và đặc điểm văn hoá, kinh tế, xã hội.
Ngày nay, việc bảo vệ phép biện chứng duy vật dới sự xuyên tạc của
những kẻ thù t tởng của nó, cũng nh việc thờng xuyên nghiên cứu, phát
triển, hoàn thiện nó đều hết sức quan trọng. Muốn bảo vệ trớc hết phải phân
tích, muốn phát triểnphảI bảo vệ bản chất khoa học cách mạngcủa phép
biện chứng duy vật. Thực tế khẳng định rằng, việc đó không chỉ là vấn đề
thuần tuý lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, nóng bỏng
hiện nay.

19


Tài liệu tham khảo

A/ Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
B/ Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII
C/ Chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 - NXB Sự
Hà Nội 1991 - Trang 12
D/ Tạp chí triết học, số 1 (101), tháng 2 - 1998.
Đ/ Triết học Mác - Lênin, NXB Chính trị quốc gia.

20

thật




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×