Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Bài tập quy luật mâu thuẫn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.58 KB, 20 trang )

CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

I. Lý luận chung Qui luật mâu thuẫn
1. Vai trò của qui luật
Mỗi một sự vật, hiện tợng tồn tại đều là một thể thống nhất đợc tạo tnàh
với các mặt các khuynh hớng các thuộc tính phát triển ngợc chiều nhau, đối lập
nhau chúng tạo thành các mâu thuẫn tồn tại trong sự vật hiện tợng.
Mâu thuẫn là một hiện tợng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và
t duy con ngời. Trong hoạt động kinh tế hiện tợng đó cũng mang tính phổ biến
chẳng hạn nh mâu thuẫn giữa cung - cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch
hoá cảu từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát vô Chính phủ của nền sản xuất
hàng hoá.
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự xuất hiện cho đến khi sự vật kết thúc tồn tại
của mình. trong mỗi sự vật mâu thuẫn hình thành không chỉ có một mà có nhiều
mâu thuẫn và sự vật trong cùng mọt lúc có nhiều mặt đối lập mâu thuẫn này mất
đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành.
Những ngời theo chủ nghĩa duy tâm tìm nguồn gốc của sự vận động và sự
phát triển ở lý trí, ở ý muốn của con ngời của cá nhân kiệt xuất hay ở các lực lợng siêu nhân.
Do phủ nhận sự tồn tại khách quan của các mâu thuẫn trong sự vật và hiện
tợng, những ngời theo quan điểm siêu hình tìm nguồn gốc của sự vận động và sự
phát triển ở sự tác động từ bên ngoài đối với sự vật. Rốt cuộc họ đã phải nhờ đến
"cái huých đầu tiên nh Niutơn hay cầu viện tới Thợng đế nh Arixtốt. Nh vậy
bằng cách này hay cách khác, quan điểm siêu hình về nguồn gốc vận động và
phát triển sớm hay muộn sẽ dẫn tới chủ nghĩa duy tâm.
Dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng tìm thấy nguồn gốc của vận động và phát triển ở mâu thuẫn, ở sự đấu
tranh giữa các khuynh hớng, các mặt đối lập tồn tại trong các sự vật và hiện tợng.
Dới hình thức chung nhất, t tởng xem mâu thuẫn là nguồn gốc của vận
động và phát triển đó đợc Hêraclít nói tới và đợc Hêghen phát triển lên trong sự
vận dụng vào nhận thức. Hêghen viết " mâu thuẫn thực tế là cái thúc đẩy thế
giới". Hơn nữa ông còn xem " mâu thuẫn là cội nguồn của tất cả vận động và sự


sống".
C.Mác - Ph. Ăngghen và V.I Lê Nin đã luận chứng và phát triển hơn nữa
những luận điểm đó trên cơ sở biện chứng duy vật. C.Mác viết " Cái cấu thành

1


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt
mâu thuẫn. Sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành
một phạm trù mới ". Nhấn mạnh hơn nữa t tởng đó V.I Lê Nin viết sự phát triển
là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Để hiểu đợc kết luận đó, chúng ta lu ý rằng, theo Ph. Ăngghen nguyên
nhân chính và cuối cùng của mọi sự vật là sự tác động lẫn nhau. Chính sự tác
động qua lại đó tạo thành nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Mâu thuẫn là
sự tác động qua lại, sự đấu tranh của các mặt đối lập qui định một cách tất yếu
những thay đổi của các mặt đang tác động qua lại cũng nh của sự vật nói chung,
nó là nguồn gốc vận động và phát triển, là xung lực của sự sống. Chẳng hạn bất
kỳ một sự vật nào cũng chỉ có thể tồn tại và phát triển đợc khi có sự tác động qua
lại giữa đồng hoá và dị hoá. Sự tiến hoá của các giống loài không thể có đợc, nếu
không có sự tác động qua lại giữa di truyền và biến dị. T tởng và nhận thức của
con ngời không thể phát triển nếu không có sự cọ sát thờng xuyên với thực tiễn,
không có sự tranh luận để làm rõ đúng sai. Đảng ta nói chung, từng Đảng viên
nói riêng không thể ngày càng hoàn thiện bản thân mình, khi không đẩy mạnh
phê bình và tự phê bình với t cách là hình thức đặc biệt của đấu đấu tranh giữa
các mặt đối lập trong Đảng, giữa tích cực và tiêu cực, giữa nhận thức - t tởng
đúng và sai. Cho nên Hội nghị lần thứ VI (lần 2) Ban chấp hành Trung ơng khoá
VIII của Đảng đã xem việc thực hiện nghiêm túc chế độ phê bình và tự phê bình
là một trong 10 nhiệm vụ cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.

Sự vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhát giữa tính ổn
định và tính thay đổi. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập qui định tính
ổn định và tình thay đổi của sự vật. Do vậy, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự
vận động và sự phát triển.
Mặt khác, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu
tranh giữa các mặt đó, do vậy cũng không có mâu thuẫn nói chung. Hơn nữa, sự
vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính
thay đổi. Sự ổn định là điều kiện cho sự phân hoá, cho sự thay đổi và phát triển.
Mâu thuẫn là một hiện tợng khách quan và phổ biến, nó tồn tại ở trong tất
cả các sự vật và hiện tợng, ở mỗi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật và hiện
tợng. Nhng ở các sự vật hiện tợng khác nhau, ở các giai đoạn phát triển khác
nhau của một sự vật, ở mỗi lĩnh vực, mối yếu tố cấu thành một sự vật sẽ có
những mâu thuẫn khác nhau.
2. Nội dung của qui luật
2


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

2.1 Nội dung của qui luật mâu thuẫn phép biện chứng
Qui luật mâu thuẫn là một trong ba qui luật của phép biện chứng duy vật
và là hạt nhân của phép biện chứng. Nội dung của qui luật chỉ ra cho chúng ta
thấy nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Mâu thuẫn và mặt đối lập thờng đợc dùng nh những khái niệm đồng
nghĩa, Chẳng hạn, ngời ta có thể nói rằng các sự vật có mâu thuẫn hay các sự vật
là sự thống nhất của các mặt đối lập về thực chất là một. Nhng hiểu cho đúng
hơn thì mâu thuẫn là mối quan hệ giữa các mặt đối lập, còn mặt đối lập là mỗi
mặt hợp thành của mâu thuẫn. Mỗi mặt đó hợp thành từ nhiều thuộc tính, nhiều
khuynh hớng khác nhau. Ví dụ: Hai mặt đối lập trong chu kỳ tuần hoàn máu,
trong sự trao đổi chất của thực, động vật với môi trờng ... Tuy nhiên không nên

nhầm lẫn mặt đối lập nói chung với mâu thuẫn. Trong thực tế không phải mặt đối
lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn, chỉ những mặt đối lập nào liên hệ với nhau
thành một chỉnh thể, tác động qua lại với nhau mới thành mâu thuẫn.
Khái niện khác nhau chỉ một trong những hình thức biểu hiện, một giai
đoạn phát triển của mâu thuẫn. Ví dụ: Giá trị sử dụng và giá trị trao đổi trong
hàng hoá, chỉ về sau trong điều kiện khác của nền sản xuất hàng hoá, nh trong
chủ nghĩa T bản chẳng hạn, sự khác nhau đó đã biến thành mặt đối lập, thành
mâu thuẫn. Tuy nhiên, không chỉ có sự khác nhau biến thành mặt đối lập, thành
mâu thuẫn mà còn có cả quá trình những mặt đối lập, mâu thuẫn biến thành sự
khác nhau. Ví dụ, sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và
lao động chân tay trong điều kiện các xã hội phân chia thành giai cấp đã chuyển
thành sự khác biệt ( khác nhau ) trong chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật là một thể thống nhất tuyệt đối,
chúng không có mâu thuẫn bên trong. Thực chất của quan điểm này là phủ nhận
mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Còn quan điểm của chủ
nghĩa duy vật cho rằng vật hiện tợng luôn luôn có mâu thuẫn mâu thuẫn bên
trong và mâu thuẫn là hiện tợng khách quan chủ yếu bởi vì vật hiện tợng của thế
giới khách quan đều đợc tạo thành từ nhiều nhân tố, nhiều bộ phận, nhiều quá
trình khác nhau. Giữa chúng có mối liên hệ, tác động lẫn nhau trong đó sẽ có
những liên hệ trái ngợc nhau, gọi là các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn của sự
vật. Các mặt đối lập thờng xuyên tác động qua lại lẫn nhau gây nên một biến đổi
nhất định, làm cho sự vật vận động phát triển.
Các mặt đối lập và những mặt có xu hớng phát triển trái ngợc nhau nhng
chúng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau trong một chủ thể duy nhất là sự vật.
3


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

Quan hệ đó thể hiện các mặt vừa thống nhất vừa tiêu diệt nhau. Sự thống nhất

giữa các mặt đối lập là sự nơng tựa, ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau làm tiền đề
tồn tại và phát triển cho nhau, có mặt này mới có mặt kia. Đấu tranh giữa các
mặt đối lập là sự bài trừ gạt bỏ, phủ định lẫn nhau giữa chúng. Hai mặt đối lập
cùng tồn tại trong một thể thống nhất, chúng thờng xuyên muốn tiêu diệt lẫn
nhau. Đó là một tất yếu khách quan không tác rời sự thống nhất giữa chúng.
Quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh là hai mặt đối lập tồn tại không tách
rời nhau. Sự thống nhất giữa các mặt chỉ diễn ra trong những điều kiện nhất định
với một thời gian xác định. Bất cứ sự thống nhất nào cũng diễn ra sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập làm cho nó luôn luôn có xu hớng chuyển thành cái khác.
Còn đấu tranh diễn ra từ khi thể thống nhất xác lập cho đến khi nó bị phá vỡ để
chuyển thành mới. Đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra trải qua nhiều giai
đoạn với nhiều hình thức khác, từ khác biệt đến đối lập, từ đối lập đến xung đột,
từ xung đột đến mâu thuẫn.
Đến đây nếu có đủ điều kiện thích hợp thì nó diễn ra sự chuyển hoá cuối
cùng giữa các mặt đối lập. Cả hai đều có sự thay đổi về chất, cùng phát triển đến
một trình độ cao hơn. Từ đó mâu thuẫn đợc giải quyết sự vật mới ra đời thay thế
sự vật cũ và quá trình lại tiếp tục.
Vì thế đấu tranh giữa các mặt đối lập, là nguồn gốc, động lực bên trong
của sự phát triển.
2.2 Mâu thuẫn là hiện tợng khách quan và phổ biến
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong các sự vật hiện tợng, nó không những
tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí con ngời mà còn qui định có ý
thức, ý chí con ngời.
Mâu thuẫn mang tính chất phổ biến, mâu thuẫn có trong mọi sự vật, hiện
tợng của thế giới bao gồm cả tự nhiên, xã hội lẫn t duy con ngời. Mâu thuẫn có
trong mọi giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật và tồn tại giữa các sự vật,
hiện tợng với nhau.
Mâu thuẫn mang tính đa dạng. Mỗi sự vật, mỗi quá trình của thế giới
khách quan tồn tại những mâu thuẫn khác nhau. Mâu thuẫn trong tự nhiên khác
mâu thuẫn trong xã hội, khác mâu thuẫn trong t duy. Bản thân mỗi quá trình

khác nhau trong tự nhiên, xã hội, t duy lại có những mâu thuẫn khác nhau.
Nh vậy sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập cho thấy mối liên
hệ khách quan cơ bản, tất yếu và phổ biến của các sự vật hiện tợng, nó qui định
4


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

nguồn gốc, động lực phát triển tất yếu của thế giới vật chất. Đó chính là qui luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, một trong những qui luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật.
2.3 Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Trong phép biện chứng duy vật khái niệm mặt đối lập là sự khái quát các
thuộc tính, khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau, tồn tại trong cùng một sự
vật, hiện tợng và tạo nên sự vật, hiện tợng đó. Do đó cần phải phân biệt rằng bất
kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật, hiện tợng của thế giới khách quan, không phải chỉ tồn tại trong đó hai mặt đối lập.
Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật có thể tồn tại nhiều mặt đối lập. chỉ có
những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật nh một chỉnh thể
nhng có khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau, loại trừ, phủ định và chuyển
hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá này tạo thành nguồn gốc, động lực đồng thời qui
định cái bản chất, khuynh hớng phát triển của sự vật thì hai mặt đối lập nh vậy
mới gọi là hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Sự thống nhất của các mặt đối
lập là " nơng tựa" vào nhau, là điều kiện tồn tại của nhau. Nếu thiếu một trong
hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự
vật. Bởi vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu đợc
cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật, hiện tợng nào.
Sự thống nhất này do những đặc điểm của bản thanh sự vật tạo nên.
Ví dụ: Nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị trờng
(KTTT) là điều kiện chọ sự tồn tại và phát triển của công cuộc đổi mới nền kinh
tế ở Việt Nam, hai nền kinh tế hoàn toàn khác nhau vì bản chất và những biểu

hiện của có nhng nó lại hết sức quan trọng. Vì có là sự thống nhất tạo nên quá
trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Thiếu sự thống nhất này nền KTTT ở Việt
Nam không thể tồn tại với ý nghĩa là chính nó.
Ví dụ: Lực lợng sản xuất - quan hệ sản xuất trong phơng thức sản xuất:
Khi lực lợng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát triển,
hai mặt này chính là điều kiện tiền đề để cho sự phát triển của phơng thức sản
xuất. Lực lợng sản xuất là yếu tố động luôn luôn vận động theo hớng hoàn thiện,
quan hệ sản xuất phải vận động theo để cho kịp với trình độ của lực lợng sản
xuất, tạo động lực phát triển lực lợng sản xuất và có tác dụng thúc đẩy nền kinh
tế.

5


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ tơng đối. Bản thân khái
niệm đã nói lên tính chất tơng đối của nó. Thống nhất của các đối lập trong
thống nhất đã bao hàm trong nó sự đối lập.
Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn luôn tác động qua
lại với nhau, " đấu tranh" với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động
qua lại theo xu hớng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa cá mặt đó.
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tác rời sự
đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một
sự vật hống nhất nh một chỉnh thể trọn vẹn nhng không nằm yêu bên nhau mà
điểu chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự
vật. Sự đấu tranh chuyển hoá bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế
giới khách quan thể hiện dới nhiều dạng khác nhau.
Ví dụ: Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp đối
kháng, mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu

kìm hãm nó diễn ra gay gắt quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã
hội bằng nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết đợc mâu thuẫn một
cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập đợc chia làm nhiều giai đoạn. Thông thờng, khi mới xuất hiện mặt đối lập cha thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt ngời ta
gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào
cũng đợc gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những mặt khác nhau, tồn tại trong một sự vật
hiện tợng liên kết hữu cơ với nhau, phát triển ngợc chiều nhau, tạo thành động
lực bên trong của sự phát triển, khi hai mặt ấy mới hình thành bắt đầu của mâu
thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột găy
gắt, nó biến thành độc lập. Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ
chuyển hoá lẫn nhau. Sự vật cứ mất đi, sự vật mới xuất hiện. Sau khi mâu thuẫn
đợc giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ đợc thay thế bằng sự thống
nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo
thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn đợc giải quyết, sự vật mới hơn xuất hiện với trình
độ cao hơn. Cứ nh thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập cho sự vật bién đổi không
ngừng từ thấp lên cao. Chính vì vậy Lê Nin khẳng định: " sự phát triển là một
cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập".
Khi bàn về mối quan hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập Lê
Nin khẳng định rằng: "Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý
nghĩa nó chính là nhờ có sự thống nhất giữa các mặt đối lập mà chúng ta nhận
6


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

biết đợc sự vật, hiện tợng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự
thống nhất chỉ tơng đối tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt
đối. Nó diễn ra thờng xuyên và liên tục trong suốt quá trình tồn tại cảu sự vật. Kể
cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng nh khi chuyển hoá nhảy vọt về chất của
các mặt đối lập là có điều kiện thoáng qua, tạm thời tơng đối. Sự đấu tranh của

các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng nh sự phát triển, sự vận động là
tuyệt đối.
2.4 Sự chuyển hoá của các mặt đối lập.
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển
hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình
độ nhất định hội đủ các điều kiện cần thiết mới chuyến hoá, bài trừ và phủ định
lẫn nhau. Trong giới tự nhiên chuyển hoá của các mặt đối lập thờng xuyên diễn
ra một cách tự phát, còn trong xã hội sự chuyển hoá của các mặt đối lập nhất
thiết phải diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con ngời. Chuyển hoá của
các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn đợc giải quyết, sự vật cứ mất đi, sự vật
mới ra đời, đó chính là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức
phong phú.
Do đó không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là
sự hoán vị đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thờng thì mâu thuẫn
chuyển hoá theo hai phơng thức:
Phơng thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia
nhng ở trình độ cao hơn, xét về mặt phơng diện chất của sự vật.
Ví dụ: Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu
tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản
xuất t bản chủ nghĩa và lực lợng sản xuất mới cao hơn về trình độ.
Phơng thức thứ hai: Có hai mặt chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt
đối lập hoàn toàn.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội
chủ nghĩa.
Từ những mâu thuẫn trên cho thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật
hiện tợng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt những thuộc tính có
khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt
đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện t7



CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

ợng khách quan phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn đợc giải quyết sự vật cũ mất
đi, sự vật mới hình thành sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn
mới. Các mặt đối lập này đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo
thành sự vật mới hơn. Cứ nh vậy mà các sự vật hiện tợng trong thế giới khách
quan thờng xuyên biến đổi và phát triển không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn và
nguồn gốc, là động lực của mọi quá trình phát triển.
2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trờng
theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta.
+ Một số vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa
kinh tế và chính trị.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định
chính trì: " Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế " Trong lịch sử phát
triển xã hội loài ngời không phải báo về cũng có vấn đề chính trị. Xã hội nguyên
thuỷ cha có giai cấp, cha có vấn đề về chính trị. Từ khi xã hội xuất hiện giai cấp
và Nhà nớc thì vấn đề chính trị mới hình thành. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc
quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. TRung tâm của vấn đề chính trị là vấn đề
đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lợng xã hội nhằm giành và giữ chính quyền
Nhà nớc và sử dụng chính quyền đó là công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã
hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra đời
hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là
phơng tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê pháp quan niệm của Đuyrich
cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế,. F. Engen đã khẳng định " bạo lực
cho là phơng tiện, còn lợi ích kinh tế là mục đích". Trong tác phẩm "Lútvích
Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức", F.Engen đã chỉ rõ "để thoả
thuận những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ đợc sử dụng là một phơng
tiện đơn thuần.
Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự

thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai
cấp đó thực hiện đợc sự thống trị về kinh tế . Đấu tranh giai cấp, về thực chất là
đấu tranh vì lợi ích kinh tế, đợc thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo
F.Engen " bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét
đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế". Để nhấn mạnh vai trò
của chính trị V.I Lênin đã khẳng định " chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu
so với kinh tế " khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn
vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động
tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề
8


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

chính trị mà nó đợc xem xét giải quyết theo một lập trờng chính trị của giai cấp
đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Và lập trờng chính trị
đúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. V.I Lênin
còn khẳng định " không có một lập trờng chính trị đúng thì một giai cấp nhất
định nào đó không thể nào giữ vững đợc sự thống trị của mình và do đó, cũng
không thể hoàn thành đợc nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất". Khi thể
chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì kinh tế tất yếu sẽ
mở đờng đi. Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát
triển kinh tế là điều kiện quyết định để thúc đẩy kinh tế phát triển. Nh vậy, chúng
ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị là thống nhất và biện chứng với
nhau trên nền tảng quyết định là kinh tế. Đây là cơ sở phơng pháp luận quan
trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt
Nam nói riêng.
Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII ( tháng 6/1994) Đảng ta đã
khẳng định:
" Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải tập trung sức

làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời
sống, việc làm và nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
CNXH, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính
trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế , phải từng bớc đổi mới tổ chức và phơng thức
hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng
lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì
chính trị đụng chạm đến tất cả các mối quan hệ đặc biệt nhạy cảm và phức tạp
trong xã hội, nên việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên
cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn
đến sự rối loạn. Nhng không vì thế mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị nhất
là về tổ chức bộ máy và các bộ, các mối quan hệ giữa Đảng vaqf Nhà nớc và các
đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và thực
hiện dân chủ" Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị. Đảng ta khẳng định rằng phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế
và đồng thời với đổi mới kinh tế phải tiến hành từng bớc đổi mới chính trị, nhng
phỉa thận trọng không gây mất ổn định về chính trị.
T tởng trên đã đợc tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII ( tháng 7 năm 1996 ) của Đảng ta. Khi tổng kết các
bài học của 10 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định phải kết hợp chặt chẽ ngay
từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đây là một bài học khái quát mới,
9


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

hoàn toàn khoa học. Nó vừa phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vừa
phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi mới ở nớc ta.
TRong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định
chính trị, giữ vững và tăng cờng sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tởng nh một
nghịch lý nhng hoàn toàn có lý và khoa học.

ổn định về chính trị, nói một cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải
tăng cờng quyền lực chính trị của mình. Nhà nớc của giai cấp đó phải mạnh và
có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh, chế độ xã hội đã xác lập phải đợc giữ
vững. Đối với nớc ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và tăng
cờng vai trò lãnh đạo cảu Đảng, tăng cờng vai trò của Nhà nớc XHCN bảo vệ và
xây dựng thành công CNXH.
Thực tiễn trên thế giới cho thấy, ổn định chính trị là điều kiện hết sức cơ
bản để phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi trờng để thu hút nguồn đầu t trong nớc
và trên thế giới, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh. Những thành tựu
trong 10 năm đổi mới vừa qua ở nớc ta cũng khẳng định điều đó. Những thành
tựu đó không thể tách rời việc chúng ta giữ đợc ổn định về chính trị.
ổn định về chính trị lại không thể tách rời đổi mới về chính trị. Nhng đổi
mới chính trị không phải là đổi mới vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn
định về chính trị, giữ vững và tăng cờng vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ
chức quản lý của Nhà nớc XHCN. Đổi mới chính trị phải gắn liền với đổi mới về
kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì mới có thể tăng cờng vai
trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ chức quản lý của Nhà nớc XHCN và nhờ đó
mới giữ vững ổn định về chính trị. Song đổi mới về kinh tế cũng không phải đổi
mới một cách tuỳ tiện mà theo một định hớng nhất định. Đó là chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang "nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ
nghĩa" hay nói ngắn gọn là kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN. Chuyển sang
nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN là nhằm thực hiện mục tiêu "dân
giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh" và đó cũng là cơ sở để giữ vững ổn
định về chính trị.
Tóm lại: ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập nhng thống
nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới đổi mới, và đổi mới là điều kiện để
ổn định. Hai mặt đó tác đọng qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới
kinh tế, trên nền tảng của đổi mới kinh tế.


10


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

Nh vậy, chúng ta thấy trong quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau, trong đó đổi mới kinh tế là
trọng tâm, đổi mới chính trị tiến hành từng bớc phù hợp với đổi mới kinh tế, đáp
ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế.
Điều khẳng định đó là sự khái quát kinh nghiệm của 10 năm đổi mới vừa
qua là kết quả của việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
cụ thể ở Việt Nam. Khái quát đó hoàn toàn khoa học và có giá trị định hớng cho
giai đoạn phát triển tiếp theo - giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc.
+ Mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý cua nhà nớc theo định hớng
XHCN ở nớc ta hiện nay, vấn đề lực lợng sản xuất - quan hệ sản xuất là một vấn
đề hết sức phức tạp, mâu thuẫn giữa hai lực lợng này và những biểu hiện của nó
xét trên phơng diệt triết học Mác - Lênin theo đó lực lợng sản xuất là nội dung
của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật, lực lợng sản xuất là yếu tố
quyết định quan hệ sản xuất, lực lợng sản xuất là yếu tố động luôn thay đổi. Khi
lực lợng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất sẽ
không còn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm lực lợng sản xuất phát triển.
Để mở đờng cho lực lợng sản xuất phát triển cần thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất. Chính quan hệ sản xuất tự phát triển để phù hợp với lực lợng
sản xuất, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản
xuất đó là quy luật kinh tế chung cho sự phát triển xã hội.
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất

lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần đợc giải quyết. Nhng giải
quyết nó bằng cách nào? đó chính là các cuộc cách mạng xã hội chuyển đổi nền
kinh tế mà cuộc chuyển đổi nền kinh tế ở nớc ta là một ví dụ. Khi một mục tiêu,
một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, thể hiện tính chất cách mạng của công cuộc
đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng nớc ta trở thành quốc gia
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Công nghiệp hoá đất nớc là chủ trơng, biện pháp vừa mang tính chách
mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nói đến công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc chính là nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó
chính là lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất, nói đến khoa học, đến sự anh
11


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

minh trí tuệ là nói đến một phơng thức tối u để thoát khỏi tình trạng sản xuất
nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã
hội đợc xây dựng và phát triển. Không thể ăn đói, mặt rách với cái cuốc trên vai
cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết chủ nghĩa xã hội, chuyển sang nền
kinh tế thị trờng. Khẳng định cái mới, đúng đắn tự bản thân nó đã bao gồm cả ý
nghĩa ổn định gạt bỏ cả quan niệm cũ sai lầm về điều kiện và cách thức xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nớc ta. Trớc đây chúng ta thiếu quan tâm đúng mức đến vai
trò của trí tuệ, khoa học đến việc tạo lập cơ sở kinh tế vật chất của chủ nghĩa xã
hội. Bằng chứng là một thời chúng ta đã coi trọng không đúng mức tầng lớp trí
thức và khoa học trong môi trờng tơng quan với đội ngũ những ngời lao động
khác. Do thế, hậu quả tất yếu đã xảy ra là khoa học ở nớc ta là chậm hoặc ít có
điều kiện môi trờng phát triển, đất nớc không thoát khỏi nền sản xuất nhỏ, nông
nghiệp lạc hậu, và cũng không thể nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
+ Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trớc đây và trong nền kinh tế thị trờng.
Trớc đây ngời ta quan niệm những hình thức sở hữu trong CNXH là : Sở

hữu chủ nghĩa xã hội tồn tại dới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếukhách quan bởi những điều kiện lịch
sử khi tiến hành cách mạng chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội quyết
định. Sau khi giành đợc chính quyền giai cấp công nhân đứng trớc hai hình thức
sở hữu t nhân khác nhau. Sở hữu t nhân t bản chủ nghĩa và sở hữu t nhân của
những ngời sản xuất nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có thái độ và
phát triển giải quyết khác nhau. Đối với hình thức sở hữu t nhân t bản chủ nghĩa
bằng cách tớc đoạt hoặc chuộc lại để chuyển thẳng lên sở hữu toàn dân, còn đối
với hình thức sở hữu t nhân của những ngời sản xuất hàng hoá nhỏ thì không thể
dùng những biện pháp nh trên mà phải kiên trì giáo dục, thuyết phục tổ chức họ
trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đờng hợp tác hoá hai
hình thức. Sở hữu đó là hai con đờng thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp
công nhân và nông dân tập thể.
Các hình thức sở hữu trớc đây là trong thời kỳ quá độ chuyển sang kinh tế
thị trờng ở Việt Nam.
Hơn 10 năm đổi mới đất nớc theo định hớng xã hội ở nớc ta đã chứng
minh tính đúng đắn của đờng lối đổi mới cua chính sách đa dạng hoá các hình
thức sở hữu do Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo toàn dân thực hiên. Thực tiễn đã

12


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

cho thấy mọt nền kinh tế nhiều thành phần đơng nhiên phải bao gồm nhiều hình
thức sở hữu chứ không phải chỉ có hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể nh quan niệm trớc đây...
Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hớng XHCN mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm nhiều hình thức
sở hữu nh sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nớc sở hữu tập thể, sở hữu cá thể và sở

hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này khái quát lại chỉ có hai hình thức
sở hữu cơ bản là công hữu và t hữu, còn các hình thức khác chỉ là hình thức trung
gian quá độ hoặc hỗn hợp ở đây mỗi hình thức lại có nhiều phơng thức biểu hiện
về trình độ thể hiện khác nhau. Chúng đợc hình thành trên cơ sở có cùng bản
chất kinh tế là tuỳ theo trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và năng lực quản
lý.
Về sở hữu toàn dân: Trớc đây ngời ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với
sở hữu nhà nớc.
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì đơng nhiên là nó bao gồm
nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, liên kết
và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hớng có lợi cho quốc tế dân
sinh. Nhà nớc quản lý kinh tế với t cách là cơ quan có quyền lực đại diện cho lợi
ích của nhân dân và là đại diện đối với tài sản sở hữu của toàn dân.
ở nớc ta hiện nay, nh hiến pháp và luật đất đai đã quy định rõ: đất đai
thuộc sở hữu toàn dân. Xét về mặt kinh tế đất đai là phơng tiện tồn tại cơ bản
của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội đất đai là lãnh thổ nơi c trú của
cả một cộng đồng. Thế nhng khi xét cả hai phơng diện có thể nói rằng đất đai
không thể là đối tợng sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên, suy cho cùng, đất đai cũng
là t liệu sản xuất hay nói chính xác hơn đó là một bộ phận quan trọng của t liệu
sản xuất. Bởi thế, dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hoá nó vẫn phải vận
động theo quy luật của thị trờng và chịu sự điều tiết của quy luật đó. Việc đất đai
thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nớc là ngời đại diện sở hữu và quản lý không hề
mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân, kể cả quyền chuyển nhợng,
quyền sử dụng đất đai nếu biết giải quyết cụ thể các vấn đề sở hữu, biết tách
quyền sở hữu với quyền sử dụng. Chẳng hạn nh ruộng đất vẫn thuộc quyền sở
hữu toàn dân song ngời nông dân có quyền sử dụng ổn định lâu dài thì có thể
đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực lợng sản xuất và sự tăng trởng của
nền kinh tế nói chung. Văn kiện đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: Trên cơ sở
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất đợc giao cho ngời nông dân sử dụng


13


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

lâu dài. Nhà nớc quy định bằng luật pháp các vấn đề về thừa kế, chuyển quyền
sử dụng đất ... (Đảng cộng sản Việt Nam văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII - Nhà xuất bản sự thật - Hà Nội năm 1991). Nh vậy hình thức sở hữu
toàn dân ở nớc ta hiện nay đã đợc xác định theo nội dung mới, có nhiều khả
năng để thực sự trở thành nguồn nhân lực phát triển kinh tế .
Về sở hữu nhà nớc.
Trong thời kỳ bao cấp trớc đây không chỉ có nớc ta mà còn có những nớc
khác trong hệ thống các nớc xã hội chủ nghĩa thờng đồng nhất sở hữu nhà nớc
với sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dới hai hình thức sở hữu toàn
dân và tập thể. Và cũng bởi sự sở hữu toàn dân gắn kết với sự phát triển của khu
vực kinh tế quốc doanh mà chúng ta đang ra sức quốc doanh nền kinh tế với
niềm tin cho rằng chỉ nh vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra, với
quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành sở hữu không phải của một chủ thể
cụ thể nào cả.
Trong xã hội mà Nhà nớc còn tồn tại thì sở hữu toàn dân cha có điều kiện
vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu nhà nớc
xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong
của sở hữu nhà nớc ở nớc ta có lẽ chủ yếu thể hiện ở quyền sở hữu đó ở khu vực
kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp nhà nớc.
Về sở hữu tập thể:
ở nớc ta trớc đây sở hữu tập thể tồn tại dới hình thức HTX bao gồm cả
HTX nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp với nội dung là cả giá trị và giá trị sử
dụng đều là của chung và các xã viên là chủ sở hữu chính. Vì vậy với hình thức
sở hữu này quyền mua bán và chuyển nhợng t liệu sản xuất. Trên thực tế sản xuất
và lu thông hàng hoá ở nớc ta diễn ra hết sức phức tạp.

Quyền của các tập thể sản xuất thờng rất hạn chế, song đôi khi lại có tình
trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự nhập nhằng với quyền sở hữu nhà nớc và
sở hữu t nhân trá hình cũng là hiện tợng phổ biến. Để thoát khỏi tình trạng đó,
trong bối cảnh của nền kế toán thị trờng hiện nay cần phải xác định rõ quyền
mua bán và chuyển nhợng t liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doanh.
Chỉ có nh vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành hình thức sở hữu có hiệu
quả.
Chúng ta đã cần biết, HTX không phải là hình thức riêng có đặc trng cho
CNXH, nhng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội. Vì chúng ta duu trì và phát triển hơn nữa hình thức sở hũ
14


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội nh V.I Lênin đã khẳng định chế độ của ngời xã viên hợp tác xã mìn là chế độ xã hội chủ nghĩa.
HTX là nhu cầu thiết thực của nề kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất
hàng hóa. Khi lực lợng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát
triển tới một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. Trong điều kiện
của nền kinh tế hàng hóa, các nhu cầu về vốn, cung ứng vật t, tiêu thụ sản
phẩm đòi hỏicác hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh
tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết những ngời lao động lại voái
nhau làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy, ở nớc ta hiện nay
đã có những hình thức HT X kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển của
cơ chế thị trờng HTX đã đợc tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham
gia lao động chực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ
phần mỗi xã viên có quyền nh nhau, đôí với công việc chung (Đảng cộng sản
Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Nhà xuất bản
chính trị quốc gia Hà Nội 1996 ). Điều này cho ta thấy kết cấu bên trong của
sở hữu tập thể thay đổi phù hợp với hình thức thực tiễn ở đất nớc ta hiện nay.

+) Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trờng và mục tiêu xây dựng con ngời xã hội
chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trớc hết
phải có con ngời xã hội chủ nghĩa. Yếu tố con ngời vai trò cực kỳ quan trọng sự
nghiệp cách mạng, bởi vì con ngời là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn
của cả vật chất và văn hoá. Con ngời phát triển cao về trí tuệ, cờng tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của từ con ng ời
làm điểm xuất phát.
Kinh Tế thị trờng là một loại hình kinh tế trong đó các mối quan hệ kinh
tế giữa con ngời với con ngời đợc biểu hiện thông qua thị trờng, tức là thông qua
việc mua bán trao đổi hàng hóa tiền tệ trên thị trờng.. Trong kinh tế thị trờng,
các quan hệ hàng hóa tiền tệ phát triển mở rộng bao quát trên mọi lĩnh vực, có
ý nghĩa phổ biến đối với ngời sản xuất và ngời tiêu dùng. Do nẩy sinh và hoạt
động một cách khách quan trong điều kiện lịch sử nhất định kinh tế thị trờng
phản ánh đầy đủ trình độ văn minh và phát triển xã hội là nhân tố phát triển sức
sản xuất, tăng trởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trờng
cũng có những khuyết tật nh sự cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn
đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ.

15


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta đã thấy rằng đổi mới ở nớc ta
hiện nay, không thể xây dựng và phát triển con ngời nếu thiếu yếu tố kinh tế thị
trờng. Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển,
của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp Nền kinh tế nớc ta đã thụt hậu nghiêm
trọng so với khu vực quốc tế. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trờng là điều kiện rất
quan trọng đa nền kinh tế nớc ta ra khỏi khủng hoảng và phát triển, phục hồi sản

xuất, đẩy mạnh tốc độ tăng trởng, bắt kịp bớc tiến của thời đại. Trên cơ sở đó,
đời sống của nhân dân ngày đợc cải thiện và nâng cao, những nhu cầu sinh hoạt
vật chất cơ bản ngày càng đợc đáp ứng một cách đầy đủ và nhanh chóng. Con
ngời không thể có cơ thể khoẻ mạnh nếu thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu các điều kiện
y tế hiện đại để chăm sóc giữ gìn sức khoẻ. Con ngời không thể có chí tuệ minh
mẫn, phát triển nếu các điều kiện vật chất tiến hành các hoạt động học tập,
nghiên cứu khoa học không đợc đáp ứng. Việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện cơ
chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN cũng đồng nghĩa
với việc tạo ra các điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lựơc xây dựng và
phát triển con ngời cho thế kỷXXI.
Trong những năm qua, kinh tế thị trờng ở nớc ta đã đợc nhân dân hởng
ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm
năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trờng đợc thay đổi
và sôi động hơn. Đây là kết quả đáng mừng, đáng đợc phát huy. Nó thể hiện sự
phát hiện và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của xã hội. Quá trình
biện chứng đi lên CNXH từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên
quy mô toàn xã hội.

Bên cạnh đó, có một khía cạnh cần đợc đề cập đến:

Kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng,
phát huy nguồn lực con ngời mà tạo ra môi trờng thích hợp cho con ngời phát
triển hoàn toàn, toàn diện cả về vật chất lẫn tinh thần. Kinh tế thị trờng tạo ra sự
cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con ngời phải năng động sáng tạo,
linh hoạt, có tác phong nhanh nhạy, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi
và hành động có hiệu quả. Từ đó, nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con
ngời góp phần làm giảm đi sự chậm chạp và vị trí trệ vốn có của ngời lao động
trong nền kinh tế lạc hậu từ ngàn đời của ngời Việt Nam. Kinh tế thị trờng tạo ra

16



CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

những điều kiện thích hợp cho con ngời mở rộng các quan hệ buôn bán giao lu,
từ đó hình thành các chuẩn mực văn hoá đạo đức theo tiêu trí thị trờng nh chữ tín
trong chất lợng và giao dịch Đây cũng là một hớng tốt đẹp bù đắp, những thiếu
hụt trong hệ giải trí của con ngời Việt Nam.
Tuy nhiên: Cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng đợc kinh tế thị trờng là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con ngời. Có những lúc,
những lơi, kinh tế thị trờng không những không làm cho con ngời ta năng động
hơn, tốt đẹp hơn, mà ngợc lại còn làm tha hoá bản chất con ngời, biến con ngời
thành gã nô lệ sùng bái đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức
mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng trà đạp nên nhân phẩm, văn hoá, đạo đức, luận
lý Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trờng cũng có nhiều khuyết
tật, hạn chế gây ra tác động xấu, Đơn giản ví dụ nh: Tệ nạn thơng mại hoá trờng
học, xem nhẹ truyền thống tôn s trọng đạo. Quan hệ hàng hoá, tiền tệ làm sôi
động thị trờng nhng cũng làm sói mòn nhân cách và phẩm chất con ngời. Ngoài
ra, đi kèm vớ kinh tế thị trờng là hàng loạt các tệ nạn xã hội. Cở bạc- rợu chè mại
dâm, ma tuý, buôn lậu, tham ô, tham nhũng là những căn bệnh chầm kha
không dễ bề khắc phục trong kinh tế thị trờng là con dao hai lỡi, nếu dùng không
cẩn thận sẽ bị đứt tay.
Những phân tích trên đây cho thấy, kinh tế thị trờng là mục tiêu xây dựng
con ngời xã hội chủ nghĩa là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nớc ta
hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế
thị trờng và quá trình xây dựng con ngời vừa có sự thống nhất,vừa có sự đấu
tranh. Kinh tế thị trờng vừa tạo ta những điều kiện để xây dựng, phát huy những
nguồn lực con ngời vừa tạo ra những độc tố huỷ hoại đầu độc con ngời, việc giải
quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản, đối với giaỉ
quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định sản xuất hàng hóa không đối lập với
CHXH mà là thành tựu phát triển nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần

thiết cho công cuộc xây dựng XHCN và cả khi CNXH đã đợ xây dựng xã hội
chủ nghĩa nh vậy Đảng ta đã vạch rõ sự thống nhất giữa kinh tế thị trờng và
mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa việc áp dụng cơ chế thị trờng đòi hỏi
nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nớc, đồng thời xác nhận đầy đủ
chế độ tự chủ của các đơ vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt các vấn đề này sẽ
phát huy đợc những tác động tích cực to lớn cũng nh ngăn ngừa hạn chế khắc
phục kinh doanh phải hớng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con ngời.
17


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

Cần phải tiến hành các hoạt động văn hoá giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái
đồng tiền, bất chấp đạo lý coi thờng các giá trị nhân văn. phải ra sức phát huy
các gía trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ, các di sản văn hoá nghệ thuật của dân
tộc nh nội dung của nghị quyết TW5 đã nêu. Đây là công cụ, là phơng tiện quan
trọng để tác động, để quyết định giải quyết mâu thuẫn đã nên trên.
Sự mở rộng hợp tác kinh tế với thế giới đã thu hút đợc vấn đề đầu t trực
tiếp nớc ngoài nhng vấn đề còn nhiều hạn chế trong việc chuyển giao công ngh,
đẩy nhanh công nghệ hoá - hiện đại hoá. Vì vốn vẫn là vấn đề man giải cho nền
kinh tế thị trờng nớc ta.
Với những thành tựu đã đạt đợc nền kinh tế thị trờng đã góp phần tích cực
nâng cao đời sống ngời dân. tuy nhiên nó cũng gây ra không ít hậu quả cho xã
hội. Từ khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trờng, bên cạnh đó rất nhiều cái
đợc đã xuất hiện những cách sống và lối sống sa lạ trái với các chuẩn mực của xã
hội, bất chấp những truyền thống đạo đức tốt đẹp, của dân tộc. Một bộ phận
trong các tầng lớp, thành phần xã hội khi mu cầu lợi ích cá nhân đã trà đạp lên
những khuôn mẫu, nhngc giá trị đích thực. Nạm tham nhũng, buôn lậu và các tệ
nạn xã hội khác đang phát triển tràn lan. Bên cạnh đó là sự ô nhiễm môi trờng
dinh thái, nạn phá rừng dẫm đến thiên tai lũ lụt. Cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên

cũng cần phải hiểu rằng đây không phải là sự tác động một chiều mà chính là
những hậu quả này sẽ là những yếu tố tác động trực tiếp lại nền kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa, đến đời sống của con ngời.
Kinh tế thị trờng đã ra đời và phát triển qua nhiều giai đoạn và cho đến
bây giờ nó vẫn là kiểu kinh tế xã hội tiến bộ nhất. Trải qua các giai đoạn kinh
tế thị trờng ngày nay càng đợc hoàn thiện và đợc áp dụng trên nhiều quốc gia.
Nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa Việt Nam mặc dù mới ra đời
cáhc đây hơn một thập kỷ nhng cũng đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm,
không ngừng vận động và luôn biến đổi dới sự tác động của nhiều yếu tố cả bên
ngoài lẫn bên trong bản thân nền kinh tế thị trờng. Các yếu tố này vừa không
ngừng có ảnh hởng đến sự phát triển của nền kinh tế thị trờng vừa chịu sự tác
động của chính nền kinh tế thị trờng đó. Nh thế, trải qua các giai đoạn lại hình
thành nên những yếu tố mới khiến cho công cuộc xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay phức tạp đòi hỏi
phải có sự phân tích kỹ lỡng chi tiết và kịp thời từng yếu tố chính vì vậy quan
điểm lịch sử cụ thể luôn là quan điểm gắn liền cới quá trình xây dựng nền kinh
tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

18


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang từng bớc xây dựng cơ sở vật chất
để đẩy mạnh quá trình phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa nhanh chóng đa đất nớc lên thành nớc công nghiệp phát triển và việc
nghiên cứu tìm hiểu các yêú tố ảnh hởng để tìm ra các giải pháp nhằm khắc
phục những mặt yếu kém phát huy những mặt mạnh, tích cực, khắc phục những
mặt yếu kém đang là việc làm bức thiết đó là:
Đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài. Trớc mắt cần tiếp tục

cải tiến hành chính trong lĩnh vực đầu t nớc ngoài với những quy định rõ ràng
thông suốt và giản đơn. Về lâu dài cần tiến tới xây dựng một một luật đầu t
chung một khung giá chung cho các nhà đầu t nớc ngoài cũng nh trong nớc để
tạo một sân chơi bình đẳng.
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nớc. Trong lĩnh
vực này, huy động tiết kiệm trong nớc là mục tiêu hàng đầu từ đó sẽ phát huy đợc hết các nguồn nội lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tiếp tục cần đổi lại cơ cấu giữa các thành phần kinh tế và các ngành. Về
các thành phần kinh tế cần tìm hiểu vị trí vai trò của từng thành phần. Đẩy mạnh
sự phát triển các thành phần kinh tế t bản t nhân, t bản nhà nớc phát triển tuy
nhiên vẫn phải bảo đảm vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nớc. Về cơ
cấu ngành, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu theo hớng tăng tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Chú trọng việc phát triển kinh tế giữa các vùng hợp lý hơn. Với dk địa
hình phức tạp và nguồn vốn ít ỏi, ta cha thể phát triển kinh tế cùng một lúc ở tất
các vùng. Vì thế cần tập trung phát triển, đầu t ở các vùng có thuận lợi về địa
hình tài nguyên và dân c trớc hình thành các vùng kinh tế giaù có để lấy đó làm
cơ sở phát triển kinh tế ở các vùng có điều kiện khó khăn hơn tiến tới từng bớc
phát triển kinh tế trên toàn lãnh thổ.
Tăng cờng hội nhập hợp tác với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới.
Hội nhập với thế giới tạo điều kiện cho ta tranh thủ ngoại lực, tạo điều kiện cho
ta bảo đảm an ninh quốc gia đặc biệt là an ninh kinh tế, tranh thủ và khai thác
những qui chế, điều kiện u đãi mà phần lớn các thể chế quốc tế dành cho các nớc
chậm phát triển và đang phát triển. Vì vậy việc quan trọng và cấp bách nhất là
phải xây dựng ngay một chiến lợc tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế.
Giữ vững vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nớc trong việc định hớng nền kinh tế thị trờng phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa, lấy công
bằng xã hội làm mục tiêu tăng trởng kinh tế. Muốn vậy cần không ngừng chỉnh
19


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688


đốn hoàn thiện bộ máy Nhà nớc, nâng cao vai trò quyền lực của Nhà nớc trong
quản lý kinh tế.
Bảo đảm nguồn nhân lực thông qua hệ thống giáo dục, đào tạo, bảo đảm
ytế, nâng cao trình độ văn hoá cho ngời lao động.
Giữ vững an ninh, trật tự xã hội, củng cố sự nghiệ quốc phòng nhằm ngăn
chặn mọi thế lực phản động phá hoại trong nớc và ngoài nớc.

20



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×