Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Quan điểm lịch sử cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay (3)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.5 KB, 20 trang )

CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Đề tài: Quan điểm lịch sử cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
________________________________________________________
A.
Đặt vấn đề:
1.1 Sơ lược quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN
1.2 Việc cần thiết phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể khi nghiên
cứu quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1.3 Tác dụng của việc nghiên cứu quá trình xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN khi quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào
đó.
1.4 Suy nghĩ của bản thân khi nghiên cứu đề tài này.
B.
Nội dung:
1.
Sự cần thiết xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.
1.1. Tình hình kinh tế Việt Nam trước thời kỳ đổi mới (1976-1985).
1.2. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.3. Khái niệm kinh tế thị trường. Tác dụng to lớn của nền kinh tế thị
trường.
2.
Tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta.
2.1. Đặc tính chung thống nhất của nền kinh tế thị trường.
2.2. Đặc thù,bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.
2.3. Hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.


3.
Những điều kiện để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta.
3.1. Những điều kiện trong nước.
3.2. Những điều kiện thế giới và khu vực.
3.3. Kết quả đạt được sau công cuộc đổi mới kinh tế, xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
C.
Kết luận:
Khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Đảng ta đang
xây dựng đồng nghĩa với nền kinh tế thị trường nhân văn, mang giá trị nhân đạo
cao cả.
Khẳng định quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm gắn liền với quá trình
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nền kinh tế
thị trường Việt Nam trong thế kỷ 21-thế kỷ của cách mạng khoa học và công
nghệ.

1


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

A. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao
cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được
bắt đầu từ Đại hội Đảng VI (năm 1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực tế
20 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định
hướng XHCN đã chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường phát triển

kinh tế có hiệu quả, từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình
vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật
khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam
Đại hội IX, Đảng ta khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội của Việt Nam. Gần đây nhất, tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục nhất trí quan
điểm: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Ngày nay thế giới đã bước sang thế kỷ 21, là thế kỷ văn minh và sáng tạo,
loài người đang bước những bước vững chắc của mình trong công cuộc làm chủ
thế giới, những thành tựu khoa học không ngừng gia tăng, những phát minh
khoa học tiến bộ ngày càng được ứng dụng nhiều vào thực tiễn, nên năng suất
lao động ngày càng nâng cao, xã hội ngày càng phát triển và đời sống con người
được nâng lên rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần.
Việt Nam chúng ta cũng tồn tại trong thế giới không ngừng vận động và
biến đổi ấy.
Như trên đã nói nước ta đã chuyển sang nền KTTT gần 20 năm. Mặc dù
đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra những khó
khăn thách thức không nhỏ cho đất nước ta. Sở dĩ như vậy là vì KTTT luôn có
hai mặt tích cực và tiêu cực của nó. Chính vì thế mà giờ đây so với các nước
trên thế giới thì Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo nàn lạc hậu, KHKT chậm
phát triển và hiệu quả sản xuất chưa cao nên đời sống nhân dân chưa được cải
thiện là bao. Tình hình nước ta như vậy nên việc nghiên cứu nền KTTT định
hướng XHCN là một vấn đề tất yếu đặt ra cho mỗi sinh viên chúng ta. Khi
nghiên cứu nền KTTT, chúng ta tìm ra được hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế,
phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện đất nước, phù hợp với khu vực, thế giới và
thời đại là hết sức cần thiết.
Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích tìm hiểu nền KTTT trong mối
quan hệ tổng thể, trong sự phát triển, vận động không ngừng của nền kinh tế. Do
vậy cần phải vận dung quan điểm lịch sử cụ thể rút ra từ hai nguyên lý cơ bản

của phép biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin vào quá trình xây dựng
nền KTTT định hướng XHCN.
Khi nghiên cứu quá trình nền KTTT và quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể
vào đó sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta đi đúng hướng, giup Đảng ta vạch ra
2


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

những đường lối, chính sách đúng đắn đưa nền kinh tế nước ta đi lên phát huy
được mặt tích cực hay thế mạnh của nền KTTT đồng thời khắc phục được
những mặt hạn chế, tiêu cực của nền KTTT đó.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế nước ta sánh vai với các nước bạn,
để đạt được mục tiêu của Đảng đề ra là xây dựng nhà nước Việt Nam “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” tiến lên hiện đại trong một xã
hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có kỷ cương xoá bỏ áp bức bất công cho mọi
người có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc như trong chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế nước ta hiện nay.
Với khả năng nhận thức và hiểu biết có hạn,bài tiểu luận này của em có
thể còn nhiều thiếu sót,em rất mong nhận sự góp ý,đánh giá từ phía thầy và các
bạn.
B. Nội dung:
1.
Sự cần thiết xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
1.1. Tình hình kinh tế Việt Nam trước thời kỳ đổi mới (1976-1985).
Sau ngày giải phóng đất nước, nhân dân Việt Nam đứng trước một cơ hội
mới để xây dựng và phát triển nền kinh tế vì có thuận lợi cơ bản là tiềm năng
kinh tế của hai miền có thể bổ sung cho nhau. Tuy nhiên, do xuất phát điểm của
nền kinh tế thấp kém lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cùng với những vấp váp,
sai lầm trong các chính sách kinh tế nên đến năm 1985 kinh tế nước ta đã rơi

vào khủng hoảng và vòng xoáy của lạm phát, thể hiện trên những mặt chủ yếu
sau đây:
1.1.1.
Kinh tế tăng trưởng thấp.
Từ năm 1976 đến năm 1985, tổng sản phẩm xã hội tăng 50% tức là bình
quân mỗi năm trong giai đoạn này chỉ tăng 4,6%. Đã thế sản xuất kinh doanh lại
kém hiệu quả nên chi phí vật chất cao và không ngừng tăng lên. Năm 1980, chi
phí vật chất chiếm 41,9% tổng sản phẩm xã hội; năm 1985 tăng lên chiếm
44,1%. Do vậy, thu nhập quốc dân qua hai kế hoạch 5 năm tăng 38,8%, bình
quân mỗi năm tăng 3,7%.
1.1.2.
Làm không đủ ăn và dựa vào nguồn bên ngoài ngày càng lớn.
Năm 1985, dân số cả nước gần 59,9 triệu người tăng 25,7% so với
năm 1975. Như vậy, trong 10 năm 1975-1985 bình quân mỗi năm dân số tăng là
2,3%. Để đảm bảo đủ việc làm và thu nhập của nhân dân không giảm thì ít nhất
nền kinh tế phải tăng 7% mỗi năm. Nhưng trên thực thế nền kinh không đạt
mức đó nên sản xuất trong nước luôn luôn không đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng tối thiểu. Thu nhập quốc dân sản xuất trong nước chỉ bằng 80% đến 90%
nhu cầu sử dụng. Tích luỹ tuy nhỏ bé, nhưng toàn bộ tích luỹ và một phần quỹ
tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài. Trong những năm 1976 -1980 thu
vay và tiền viện trợ nước ngoài bằng 38,2% tổng thu ngân sách và bằng 61,9%
tổng thu trong nước. Nếu so với tổng chi ngân sach thì bằng 37,3%, ba chỉ tiêu
tương ứng của thời kỳ 1981-1985 lần lượt là 22,4%, 28,9% và 18,6%. Tính đến
3


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

năm 1985, nợ nước ngoài đã lên tới 8,5 tỉ Rúp và 1,9 tỉ USD. Tuy nguồn thu về
từ nước ngoài lớn như vậy nhưng ngân sách vẫn trong tình trạng thâm hụt và

phải bù đắp bằng phát hành bội chi ngân sách năm 1980 là 18,1% và năm 1985
là 36,6%. Giá trị xuất khẩu hàng năm có tăng lên nhưng vẫn còn thấp so với giá
trị nhập khẩu. Tỉ lệ xuất khẩu thường chỉ bằng 20%-40%, nhập khẩu năm 1976
bằng 21,7% , 1977 bằng 26,5%, 1978 bằng 25,1%, 1979 bằng 21,0%, 1980 bằng
25,8%, 1981 bằng 29,0%, 1982 bằng 35,8%, 1983 bằng 40,4%, 1984 bằng
32,2%, 1985 bằng 37,5%. Hầu hết các loại hàng hoá thiết yếu phục vụ cho sản
xuất và đời sống đều phải nhập khẩu toàn bộ hay một phần do sản xuất trong
nước không đảm bảo được tiêu dùng. Ngoài sắt, thép, máy móc, xăng dầu, thiết
bị còn nhập cả những loại hàng hoá lẽ ra sản xuất trong nước đáp ứng được nhu
cầu như gạo, vải mặc. Trong những năm 1976-1980 đã phải nhập 60 triệu mét
vải các loại và 1,5 triệu tấn lương thực quy gạo. Sau 10 năm đất nước thống nhất
việc xây dựng và phát triển kinh tế trong bối cảnh hòa bình mà cái gì cũng thiếu
nên cái gì cũng quý.
1.1.3.
Siêu lạm phát hoành hành và giá cả tăng cấp số nhân.
Cơn sốt lạm phát không biết đã ra đời trong nền kinh tế từ bao giờ song
ngay từ năm1976 nó đã từng tồn tại và cứ lớn dần lên ngoài ý muốn của con
người. Năm 1985 cuộc cải cách giá-lương-tiền theo giải pháp sốc đã thất bại làm
cho cơn sốt lạm phát vụt lớn nhanh, hoành hành trên mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế-xã hội. Giá cả leo thang từng ngày đã vô hiệu hoá tác dụng đổi tiền chỉ
mới tiến hành vài tháng trước đó, làm rối loạn điều hành kinh tế vĩ mô. Giá cả
không chỉ tăng ở thị trường tự do mà còn tăng rất nhanh trong thị trường có tổ
chức. Về cơ bản, giá cả đã tuột khỏi tầm tay bao cấp của nhà nước. Siêu lạm
phát đạt đỉnh cao trong năm 1986, với tốc độ tăng giá cả năm lên tới 774,4%.
1.2. Sự cần thiết khách quan cần thiết phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam.
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội, trong đó sản phẩm
sản xuất ra để trao đổi để bán ra thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế
hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiêp của người sản xuất mà nhằm
để bán, tức là để thoả mãn nhu cầu của người mua, đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Trong
đó, toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị
trường. KTHH và KTTT không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình
độ phát triển và về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất.
1.2.1. Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển KTTT ở Việt Nam.
Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng
hoá chẳng những không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng
ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính
phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi
4


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

trên thị trường. Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là:
sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại
nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có
thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá tiền tệ. Thành phần kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các
đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về
trình độ kĩ thuât-công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất chi
phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
Quan hệ hàng hoá- tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại,
đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng
sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt đối với các hàng hoá đưa ra trao
đổi trên thị trường, thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá.
Như vậy, khi kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu khách quan, thì
không thể lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ nó được.

1.3. Thế nào là kinh tế thị trường định hướng XHCN và tác dụng to lớn
của nền KTTT.
1.3.1.
Thế nào là KTTT định hướng XHCN.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khac nhau. Mỗi mô
hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch
sử cụ thể. Nghiên cứu một cách nghiêm túc các mô hình kinh tế đó, cùng với
thời gian và kinh nghiệm thực tế, chúng ta đã rút ra cho mình một cách nhìn
đúng đắn hơn và một sự lựa chọn thực tế hơn. Đó là, chúng ta đã kịp thời
chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN.
Trước tiên cần tìm khái niệm KTTT. Kinh tế thị trường được hiểu là một
kiểu kinh tế-xã hộ mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị
trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá-tiền tệ, với quan hệ cung-cầu.
Trong nền KTTT nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hôi là quan
hệ hàng hoá. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hoá hay ít
nhất cũng phải sử dụng nó như là một khâu trung gian.
Nền KTTT từ khi mới ra đời cho đến nay đã trải qua các giai đoạn phát
triển khác nhau, mỗi giai đoạn đều có đặc điểm riêng. Trong các gia đoạn đó đã
từng có các nền KTTT theo định hướng này hay theo định hướng khác. Đến
năm 1986 khi nước ta đổi mới nền kinh tế chúng ta đã xác định được một định
hướng đúng đắn cho nền KTTT đó là định hướng XHCN.
KTTT định hướng XHCN theo quan điểm của Đảng ta là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN. Về bản chất khác với nền KTTT Tư bản chủ
nghĩa, nền KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế vì nhân dân phục vụ
nhân dân, lấy đời sống nhân dân, công bằng xã hội là mục tiêu để tăng trưởng
kinh tế.
1.3.2.
Tác dụng to lớn của sự phát triển KTTT.


5


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH còn mang tính
tự cung tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự
nhiên và chuyển thành kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.
Kinh tế hàng tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do
cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá buộc mọi chủ thể sản xuất phải
cải tiến kĩ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất
đến mức tối thiểu, nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trên thị
truờng. Quá trình đó giúp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng
suất lao động xã hội.
Trong nền KTHH, người sản xuất phải căn cứ cào nhu cầu của người tiêu
dùng, của thị trường quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu,
chất lượng như thế nào. Do đo KTHH kích thích tính năng động sáng tạo của
chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, cũng như
tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ.
Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng
hoa, đến lượt nó sự phát triển KTHH sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội
và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng lợi thế của từng
vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với
nước ngoài.
Sự phát triển của KTTT sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất,
do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn, có tính xã hội hoá cao, đồng thời
chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ
quản lý có trình độ lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Như vậy, phát triển KTTT là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một nhiệm vụ
kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế

hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng
đắn để phát triển lực lượng sản xuât, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất
nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực tế những năm đổi mới đă chứng minh rằng, việc chuyển sang nền
KTTT nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền KTHH nhiều
thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu
hút được vốn, kĩ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản
xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhip độ
tương đối cao trong thời gian qua.
Trình độ phát triển của KTTT có liên quan mật thiết với các giai đoạn phát
triển của lực lượng sản xuất. Về đại thể KTHH phát triển qua 3 giai đoạn tương
ứng với 3 giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất: Sản xuất hàng hoá giản
đơn, KTTT tự do, KTTT hiện đại. Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh
tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang KTHH. Mô hình kinh tế
Việt Nam được xác định là nền KTHH nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng XHCN.
2.
Tính đặc thù của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
2.1. Đặc tính chung thống nhất của KTTT.
6


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

KTHH là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế tồn tại và phát triển trong nhiều
hình thái kinh tế xã hội. KTHH là loại hình kinh tế tiến bộ, là nấc thang cao hơn
kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc, trong sự phát triển của xã hội loài người. KTTT là
trình độ phát triển cao hơn của KTHH, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và
“đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường.
Ngày nay, không ai phủ nhận vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của KTTT

trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, phát triển lực sản xuất xã hội.
Trong xã hội, nếu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì tất yếu có thị trường.
Quy mô của lưu thông hàng hoá và sức mua của xã hội quyết định dung lượng
thị trường. Đến lượt mình, sử dụng, mở rộng và lành mạnh hoá thị trường lại có
tác dụng thúc đẩy lưu thông hàng hoá phát triển nhanh chóng về số lượng và
chất lượng. Thị trường gắn với lĩnh vực lưu thông hàng hoá, thị trường hình
thành ở đâu có cung- cầu hàng hoá, nói đến thị trường là nói đến giá cả, tiền tệ,
người bán, người mua. Thị trường là tổng hoà những mối quan hệ mua- bán
trong xã hội, được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử kinh
tế- xã hội nhất định. Cơ sở của thị trường là sự phân công lao động xã hội. Trình
độ và quy mô thị trường gắn liền với trình độ phát triển của phân công lao động
xã hội, sản xuất và thu mua của xã hội.
Nền KTTT có cả mặt tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực, đó là cơ chế tự
điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển; nó có tác dụng kích
thích mạnh và nhanh sự quan tâm thường xuyên đến đổi mới kỹ thuật, công
nghệ quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; nó có tác dụng lớn trong
tuyển chọn các doanh nghiệp và cá nhân quản lý kinh tế giỏi. Trên cơ sở đó,
KTTT kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển... Về mặt tiêu cực,
trên thị trường chứa đựng tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân
đối. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất, kinh doanh có thể gây nhiều hậu
quả xấu: môi trường bị huỷ hoại, tình hình cạnh tranh không lành mạnh, phá
sản, thất nghiệp, phân hoá xã hội cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ, các vấn đề
công bằng xã hội không được đảm bảo, tệ nạn xã hội tăng, thậm chí có người
làm ăn bất hợp pháp... Để hạn chế những khuyết tật đó đòi hỏi nhà nước quản lý
nền KTTT. Nhà nước quản lý nền KTTT bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch
định hướng, bằng các công cụ, chính sách, biện pháp kinh tế...
2.2.Đặc thù,bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là
sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm
bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời

đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát
triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị
trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là
7


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường.
Cũng có thể nói kinh tế thị trường là "cái phổ biến", còn kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là "cái đặc thù" của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và
đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không phải là
kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế
bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như trên đã nói, Việt Nam đang ở trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa có vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ
nghĩa xã hội.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp
thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của
kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao
động, cải tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều
của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời
phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân
hóa giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là

sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận
Mác - Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam.
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những
quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu,
tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế
8


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế
nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng
sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng
góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi
xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực của đất nước.
Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ
chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn
ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới
- xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định
hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị
trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền
vững của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Có ý kiến cho rằng, không thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; rằng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không thể dung hợp với nhau,
nếu đem "ghép" định hướng xã hội chủ nghĩa vào kinh tế thị trường thì chẳng
khác nào trộn dầu vào nước, tạo ra một cơ thể "đầu Ngô mình Sở". Theo chúng
tôi, ý kiến này không đúng. Không đúng là vì, hoặc ý kiến này muốn trì kéo Việt
Nam trong quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận định hướng xã hội
chủ nghĩa, không muốn Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là điều trái với
quy luật khách quan, không thể chấp nhận. Hoặc ý kiến này không thoát ra được
khỏi tư duy cũ, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, cho kinh tế thị
trường là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, từ đó "dị ứng" với kinh tế thị trường,

không thấy hết những yếu tố mới, xu hướng mới của kinh tế thị trường trong
điều kiện mới của thời đại, lặp lại sai lầm của một thời trước đây.
Cũng có ý kiến nhấn mạnh một chiều những đặc trưng chung, những cái phổ
biến của kinh tế thị trường, chưa thấy hết hoặc còn phân vân, nghi ngờ về những
9


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

đặc điểm riêng, những cái đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Từ đó chưa tin là kinh tế thị trường có thể phát triển trên cơ sở chế độ
công hữu là nền tảng, kinh tế quốc doanh là chủ đạo; rằng trong kinh tế thị
trường không thể có kế hoạch, không thể thực hiện được công bằng xã hội,
không thể khắc phục được những tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường, v.v..
Lại có ý kiến băn khoăn cho rằng, việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa thực chất là trở về với chủ nghĩa tư bản, có thêm định ngữ
"định hướng xã hội chủ nghĩa" thì cũng chỉ là để cho yên lòng, cho có vẻ "giữ
vững lập trường" mà thôi, trước sau gì thì cũng trượt sang con đường tư bản chủ
nghĩa.
Những băn khoăn này là dễ hiểu, bởi vì đây là những điều còn rất mới mẻ, chưa
có tiền lệ, nếu không xác định rõ nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa và kiên
trì vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường
thì những điều đó rất dễ xảy ra. Nhưng có điều cần khẳng định là: trong điều
kiện mới của thời đại ngày nay, nhất định không thể duy trì mãi mô hình kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa, không thể đồng nhất kinh tế thị trường với chủ
nghĩa tư bản. Chính C.Mác đã phê phán sự lầm lẫn giữa kinh tế hàng hóa với
kinh tế tư bản chủ nghĩa của phái kinh tế học tầm thường. C.Mác khẳng định
rằng : "... sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là những hiện tượng thuộc về
nhiều phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm quan
trọng của chúng không giống nhau... Chúng ta hoàn toàn chưa biết một tí gì về

những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất ấy và chúng ta chưa thể
nói gì về những phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ biết có những phạm trù
trừu tượng của lưu thông hàng hóa, những phạm trù chung cho tất cả các
phương thức ấy"(1). Phải chăng việc nhận thức cho đúng và nói cho được những
đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất đặc thù ấy là trách nhiệm mà
C.Mác giao cho và gửi gắm các thế hệ ngày nay?
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải
đơn giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền
kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải chuyển
sang nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều kiện
lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi sau, cho phép các nước này
giảm thiểu được những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới chủ
nghĩa xã hội trên cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những
khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị trường. Nói cách khác, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân
theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm
tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối
và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt
tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều
10


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát triển khoa học và công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian không dài có thể
khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.

2.2. Hình thành đồng bộ thể chế KTTT định hướng XHCN
2.2.1. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu
Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế
chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật
mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh mọi thành phần kinh tế với các hình
thức sở hữu khác nhau. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác
nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều đước khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác,
cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền KTTT định
hướng XHCN. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từng bước hình
thành một số tập đoàn kinh tế mạnh.
Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tôt vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là
công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tập trung đầu tư
cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, và là một cơ sở công nghiệp quan trọng.
Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Phát triển doanh nghiệp nhà
nước trong những ngành sản xuất và ngành dịch vụ quan trọng, xây dựng các
tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế
lớn có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế như dầu khí,
điện, than, đường sắt, hàng không, vận tải viễn dương, viễn thông, cơ khí... Đổi
mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của
doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động
theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Bảo đảm quyền
tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp, xoá bỏ bao cấp của nhà nước đối với doanh nghiệp. Thực hiện chủ
trương cổ phần hoá những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100%
vốn, để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, ưu tiên cho người lao động được mua cổ
phần. Thực hiện việc giao bán, khoán cho thuê các doanh nghiệp loại nhỏ mà

nhà nước không cần lắm giữ... Phấn đấu trong khoảng 5 năm cơ bản hoàn thành
việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh doanh các doanh nghiệp nhà
nước, củng cố và hiện đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước.
Phát triển kinh tế tập thể với hình thức hợp tác đa dạng, chuyển hợp tác xã
cũ theo luật hợp tác xã đạt hiệu quả thiết thực, tạo điều kiện mở rộng quy mô
sản xuất, kinh doanh phù hợp với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong
nông nghiệp trên cơ sở phát huy tính tự chủ của hộ gia đình, chú trọng phát triển
11


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

các hình thức hợp tác và hợp tác xã cung cấp dịch vụ, vật tư và tiêu thụ sản
phẩm cho kinh tế hộ gia đình, trang trại. Mở rộng các hình thức kinh tế hỗn hợp,
liên kết, liên doanh hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế. Nhà nước giúp đỡ hợp tác xã đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật và quản lý,
mở rộng thị trường, ứng dụng công nghệ mới, phát triển vốn tập thể, giải quyết
nợ tồn đọng của hợp tác xã cũ. Kinh tế cá thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành
thị được nhà nước tạo điều kiện để phát triển. Kinh tế tư bản tư nhân được
khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong từng ngành, nghề, lĩnh
vực và địa bàn mà pháp luật không cấm. KTTB nhà nước dưới hình thức liên
doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước
ngày càng phát triển bài bản. Kinh tế vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của
nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển hướng mạnh vào sản xuất,
kinh doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hóa và dịch vụ công nghệ cao,
xây dựng kết cấu hạ tầng.
2.2.2. Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực
quản lý của nhà nước.
Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi
đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế để thị trường hoạt động năng

động, có hiệu quả, có trật tự kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh,
công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát được quyền kinh doanh, có giải
pháp hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại. Phát triển thị trường vốn
và tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung hạn và dài han. Tổ chức và vận hành an
toàn, hiệu quả thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, từng bước mở rộng
quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn nước ngoài. Từng bước
mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước
ngoài tham gia đầu tư, phát triển thị trường lao động, người lao động được tìm
và tạo việc lảm ở mọi nơi trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự tham
gia của các thành phần kinh tế. Phát triển các loại thị trường dịch vụ, khoa học
công nghệ, sản phẩm trí tuệ... Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt
động khách quan của thị trường, tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, đồng thời
khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường. Nhà nước điều tiết
thu nhập hợp lý, xây dựng pháp luật và kiểm tra giám sát việc thực hiện. Kiên
quyết xoá bỏ những quy định và thủ tục mang nặng tính hành chính quan liêu,
bao cấp, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, gây phiền hà sách nhiễu
cho doanh nghiệp và nhân dân.
2.2.3. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính-tiền tệ quốc
gia, động viên hợp lý và phân phối có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Thực hiện nguyên tắc công bằng, hiệu quả
trong chính sách phân phối và phân phối lại nguồn thu nhập trong xẫ hội. Tạo
lập môi trường tài chính lành mạnh thông thoáng, nhằm giải phóng và phát triển
các nguồn lực tài chính và tiềm năng sản xuất của các doanh nghiệp. Kết hợp
chặt chẽ kế hoạch hoá với các chính sách kinh tế, tài chính để định hướng và
khuyến khích nhân dân, doanh nghiệp tiết kiệm đầu tư kinh doanh. Bảo đảm sự
12


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688


phát triển an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính- tiền tệ trong toàn bộ nền
kinh tế.
Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam
kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hoá các sắc thuể. Hiện đại hoá công
tác thu thuế và tăng cường quản lý của nhà nước.
Tiếp tục cơ cấu lại ngân sách nhà nước, tăng dần tỉ lệ tích luỹ cho đầu tư
phát triển, phân định rõ hoạt động của sự nghiệp quản lý hành chính, thực hiện
cải cách tiền lương đi liền với tinh giảm biên chế bộ máy hành chính. Cải cách
thủ tục hành chính giảm mạnh và đi đến xoá bỏ những khoản chi mang tính chất
bao cấp trong ngân sách. Sử dụng ngân sách nhà nước phải chủ động và có hiệu
quả, tăng cường kiểm soát các khoản chi, kiên quyết chống lãng phí thất thoát.
Thực hiện chính sách khuyến khích phát triển đối với các vùng kinh tế trọng
điểm, đồng thời quan tâm đầu tư nhiều hơn vào vùng khó khăn. Tiếp tục đổi mới
chính sách tài trợ giải quyết việc làm, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, giúp
đỡ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời đảm bảo cho người nghèo
được hưởng phúc lợi cơ bản.
Thực hiện chế độ tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính của doanh
nghiệp, tách biệt tài chính nhà nước với tài chính doanh nghiệp, thực hiện công
khai hoá tài chính doanh nghiệp và tài chính công. Nhà nước giảm sát, điều tiết
tài chính doanh nghiệp, thông qua chế độ kế toán, kiểm toán và hệ thống thuế
bảo hộ , các nguồn thu nhập hợp pháp , khuyến khích tất cả các tầng lớp dân
cư , các thành phần kinh tế , cần kiệm đầu tư kinh doanh , làm giàu chính đáng.
Thực thi chính sách tiền tệ bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô . Kiểm soát lạm
phát , thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng , kích thích đầu tư và phát triển. Sử dụng
linh hoạt , có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ như tỉ giá ,lãi suất . Cơ cấu
lại hệ thống ngân hàng , phân biệt chức năng của ngân hàng nhà nước và ngân
hàng thương mại nhà nước , chức năng cho vay của ngân hàng chính sách với
chức năng kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại , bảo đảm quyền tự chủ
và tự chịu trách nhiệm của ngân hàng thương mại trong kinh doanh. Sắp xếp lại
các ngân hàng cổ phần , xử lý các ngân hàng yếu kém , đưa hoạt động của quỹ

tín dụng nhân dân đi đúng hướng và bảo đảm an toàn..
2.2.4.Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá ,
đa dạng hoá , chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều
kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song
phương và đa phương như AFTA , APEC , hiệp định thương mại Việt - Mỹ ,
tiến tới gia nhập WTO . Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi
thành phần kinh tế tham gia sản xuất , kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và
dịch vụ . Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường và quốc tế. Xây dựng các
quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản, khuyến khích sử dụng
thiết bị , hàng hoá sản xuất trong nước. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến

13


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

tới cân bằng xuất nhập.Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn , có thời hạn
đối với sản phẩm sản xuất trong nước.
Đẩy mạnh các lĩnh vực dịch vụ thu ngoại tệ : du lịch , xuất khẩu lao động,
tài chính tiền tệ, tư vấn...
Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế , chú trọng các thị
trường trung tâm kinh tế thế giới , duy trì và mở rộng thị phần trên các thị
trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới . Từng bước hiện
đại hoá phương thức kinh doanh phù hợp với xu thế của thương mại thế giới.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư,
nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Năng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước đối với các khu công
nghiệp, khu chế xuất và doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài.Thực hiện

cổ phần hoá các doanh nghiệp, nếu có điều kiện, triển khai từng bước vững chắc
các hình thức đầu tư gián tiếp của nước ngoài ở nước ta. Khuyến khích người
Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước đầu tư kinh doanh, doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài và có chính sách hỗ trợ công dân Việt Nam kinh
doanh hợp pháp ở nước ngoài.
Tiếp tục tranh thủ nguồn tài trợ của các phủ và các tổ chức tài chính quốc
tế, các tổ chức phi chính phủ.Đẩy nhanh tốc độ giải ngân nâng cao hiệu quả của
sử dụng vốn.
(Trang 28, 29, 30, 31, 32, 33 tài liệu)
3.
Những điều kiện để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3.1
Những điều kiện trong nước
Đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu xuất phát điểm về nền kinh tế của nước ta
khi bắt đầu đổi mới. Bức tranh chung của nền kinh tế Việt Nam 10 năm trước
đổi mới là tăng trưởng thấp 3,7%/năm, làm không đủ ăn và dựa vào nguồn bên
ngoài ngày càng lớn.Thu nhập quốc dân trong nước, sản xuất chỉ đáp ứng được
80-90% thu nhập quốc dân sủ dụng. Đến năm 1985 tỉ trọng thu từ bên ngoài
chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử dụng, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỉ Rup và 1,9
tỉ USD. Cũng vào các năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng
nghiêm trọng, siêu lạm phát ở mức 774,7% vào năm 1986 kéo theo giá cả leo
thang và vô phương kiểm soát.
Sự tàn phá của chiến tranh và của nền kinh tế bao cấp yếu kém trên kéo
dài đã để lại những hậu quả nặng nề. Cơ sở vật chất thấp kém vơí nền KH-CN,
kĩ thuật lạc hậu, hầu hết những hệ thống máy móc trong các nhà máy đều do
Liên Xô cũ giúp đỡ từ trong chiến tranh nên năng suất thấp , chất lượng kém.
Hệ thống giao thông vận tải vốn đã không tốt lại thêm bom đạn của chiến tranh
nên ngày càng xuống cấp. Công nghiệp dịch vụ hầu như không phát triển, chiếm
tỉ trọng chưa đến 50% GDP còn chủ yếu là nông nghiệp. Bên cạnh đó còn có

một hậu quả nặng nề khác là cơ chế bao cấp phân phối bình quân, lợi ích của
mọi người đều như nhau dẫn đến việc không phát huy hết năng lực sáng tạo của
con người, lực lượng nhân tài ngày càng giảm sút, trình độ dân trí thấp và đặc
14


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

biệt nghiêm trọng là tư tưởng thụ động ỷ lại, thiếu tính năng động quyết đoán ẩn
sâu trong người dân và tất cả các cán bộ trong hệ thống quản lý kinh tế.
Điều kiện địa lý cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến
nền kinh tế. Về địa hình, lãnh thổ nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang
hẹp, địa hình phức tạp mang đậm nét của sự phân độ sâu sắc. Về điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội, các đặc điểm này chi phối sự phân công lao động xã hội
theo lãnh thổ và chiến lược phát triển của vùng. Ta cũng có thuận lợi là nằm ở
Tây Thái Bình Dương và Đông Nam á, khu vực phát triển cao , ổn định, nơi cửa
ngõ của giao lưu quốc tế, Việt Nam có nhiều khả năng để phát triển nhiều loại
hình kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn thông
du lịch. Tài nguyên khoáng sản phân bố không đều trên các vùng , ngay ở mỗi
vùng cũng phân tán và thiếu đồng bộ, không gắn với nhau gây khó khăn cho
việc khai thác sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố trí kinh tế của các vùng.
Về dân số, nước ta có số dân đông, nguồn lao động dồi dào nhưng phân bố
không đồng đều. Đặc biệt ở cấp vĩ mô, do đất nước bị chia cắt lâu dài, giữa hai
miền Bắc - Nam còn có sự khác biệt không nhỏ hoặc khác biệt giữa các khu vực
xa xôi hẻo lánh với những khu vực có đô thị tập trung.
Về chế độ chính trị, quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong những
vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị:" Chính trị là sự biểu hiện
tập trung của kinh tế, chính trị không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để
thực hiện mục đích kinh tế". Vấn đề kinh tế không thể tách rời cấn đề chính trị

mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Như
vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng
với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Sau khi miền Bắc được giải
phóng và từ sau năm 1975 thống nhất đất nước , cả nước ta đã kiên quyết đi theo
con đường CNXH. Đây là sự lựa chọn tất yếu và đúng đắn. Vì không qua giai
đoạn TBCN đã gặp nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng một hệ
thống chính trị vững mạnh. Thêm vào đó , khi ta đang trong giai đoạn đầu của
công cuộc đổi mới, một giai đoạn quan trọng mà chính trị là yếu tố định hướng
dẫn đường thì CNXH ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu sụp đổ hàng loạt đã
gây nhiều hoang mang cho Đảng ta. Điều này cũng chứng tỏ rằng Đảng có rất
nhiều thế lực phản động, không ngừng tìm mọi cách phá hoại lật đổ chế độ
CNXH ở nước ta.
Về văn hoá xã hội, nói đến văn hoá của một dân tộc là nói đến bản sắc cốt
cách riêng thể hiện trong những yếu tố cấu thành văn hoá của dân tộc đó. Theo
định nghĩa được thừa nhận khá rộng rãi của UNESCO thì văn hoá là tổng thể
sống động các hoạt động sáng tạo của con người diễn ra trong quá khứ cũng như
đang diễn ra trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ , các hoạt động sáng tạo ấy đã cấu
tạo nên một hệ thống giá trị, truyền thống, thị hiếu , thẩm mỹ và lối sống mà
dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình . Với chiều dài 4000
năm lịch sử, nước ta có một nền văn hoá lâu đời với các giá trị tinh thần truyền
thống tốt đẹp. Các giá trị đạo đức truyền thống vừa là kết quả, vừa là cơ sở,
15


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

động lực của quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước và giao lưu văn hoá lâu
dài của dân tộc góp phần tạo dựng bản lĩnh dân tộc và nhân cách con người Việt
Nam. Chủ nghĩa yêu nước , lòng thương người, tinh thần đoàn kết cộng
đồng...trong đó chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi của bản sắc văn hoá dân tộc , là giá

trị cao nhất trong hệ giá trị đạo dức của dân tộc, là tình cảm và tư tưởng lớn nhất
của nhân dân ta...Với bề dày văn hoá đó cùng với chế độ chính trị đúng đắn là
CNXH, chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nền KTTT định
hướng XHCN tiên tiến.
Bên cạnh đó nền kinh tế thị trường năng động và khắc nghiệt rất cần
những nhà quản lý kinh tế tài giỏi, sáng tạo, năng động thì chúng ta lại chưa có
được. Nhân dân ta yêu nước , sẵn sàng xả thân hi sinh vì tổ quốc nhưng trong
hoạt động kinh tế thì nhân dân ta vẫn còn thiếu tính năng động, thiếu tính quyết
đoán, thiếu những phẩm chất rất quan trọng của một nhà quản lý kinh tế .
3.2
Những điều kiện thế giới và khu vực
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mặc dù tình hình thế giói có nhiều diễn
biến phức tạp nhưng hoà bình và hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo, là đòi
hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia.Các cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ đạt được những bước tiến vượt bậc, đặc biệt trong các lĩnh vực tin
học, viến thông, sinh học, vật liệu mới và năng lượng mới đang đẩy mạnh quá
trình quốc tế hoá cao độ các lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động
quốc tế ngày càng sâu sắc. Như vậy có nghĩa là ngày nay , không một nền kinh
tế nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Tình hình đó đòi hỏi một sự
hợp tác ngày càng rộng tạo nên thế tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay
nhỏ, phát triển hay đang phát triển.Trong lịch sử phát triển của XH có lẽ chưa
bao giờ có một sự hợp tác để phát triển rộng rãi đan xen lồng ghép và nhiều tầng
lớp như hiện nay với sự hình thành nhiều tổ chức kinh tế như ASEAN ( Hiệp hội
các nước Đông nam á ), WTO ( Tổ chức Thương mại thế giới ), AFTA, EU...
Đối với khu vực, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á, Châu á Thái
Bình Dương, mnột khu vực được coi là có nền kinh tế năng động và có tốc độ
tăng trưởng cao nhất thế giới trong những năm gần đây. Hâù hết các nước trong
khu vực như Singapore, Thái lan, Inđonexia đã tiến hành nền KTTT được mấy
thập kỷ và một số nước đã trở thành các nước công nghiệp mới.
Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển vượt ta khá xa về mọi mặt đặc

biệt là về kinh tế. Vì thế đã đặt ra cho Việt nam nhiều thách thức trong quá trình
phấn đấu xây dựng và cải tiến nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng
XHCN.
3.3
Kết quả đạt được sau công cuộc đổi mới kinh tế , xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Sau những năm đổi mới kinh tế, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN điều đầu tiên mà ta thấy đó là tốc độ tăng trưỏng kinh
tế cao và tương đối ổn định. Nếu như những năm 1976 - 1985 nền kinh tế rơi
vào khủng hoảng trầm trọng thì giai đoạn 1986 - 1990 , GDP tăng trung bình
3,9% đến năm 1991 đến nay GDP tăng bình quân 8,2%, cơ cấu giữa các thành
16


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

phần kinh tế và các nghành cũng hợp lý hơn. Hàng loạt các công ty, doanh
nghiệp tư nhân hoạt động trong mọi lĩnh vực đã ra đời, tạo mọi điều kiện cho
việc sản xuất hàng hoá, làm cho số lượng hàng hoá phong phú hơn và chất
lượng không ngừng được cải tiến , giao thông vận tải được chú trọng, cơ sở hạ
tầng ngày càng được hoàn thiện.
Trước xu thế chủ đạo của thế giới là hợp tác để phát triển, Việt Nam đã
bước đầu hội nhập được nền kinh tế thế giới bằng việc gia nhập các tổ chức kinh
tế ở khu vực cũng như của thế giới. Đầu tiên là gia nhập ASEAN vào năm 1995,
chúng ta cũng đã gia nhập diến đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương
APEC và tiếp theo chúng ta gia nhập AFTA, Tổ chức Thương mại thế giới
WTO...chính sự hợp tác hội nhập này , hàng hoá Việt Nam có thêm cơ hội xuất
khẩu.
Hiện nay hàng hoá Việt Nam đã có mặt trên 120 nước trên thế giới với số
lượng và chất lượng ngày càng cao. Cán cân xuất nhập khẩu đã được điều chỉnh,

kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên và quan trọng hơn là đã thu hút
được khá lớn lượng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài , ra đời ngày càng nhiêù
các công ty liên doanh và các khu công nghiệp.
Một thành tựu quan trọng nữa là trong điều kiện nền KTTT trên thế giới
với sự cạnh tranh rất khốc liệt gây ra sự phân cực giàu nghèo mạnh mẽ với nhiều
cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, Đảng ta đã kịp thời rút kinh nghiệm và
đã có những đường lối chính sách định hướng cho nền kinh tế phát triển theo
định hưỡng xã hội chủ nghĩa.Chính và thế nền KTTT của ta chẳng những không
xảy ra khủng hoảng tiêu cực từ những cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước
trong khu vực và thế giới mà cụ thể là cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997.
Tuy nhiên , nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế giới vẫn là một nền
kinh tế đang phát triển.Lực lượng sản xuất của ta hiện nay vẫn là sự đan xen
nhiều trình độ trong đó chiếm đại bộ phận là kỹ thuật và công nghệ cũ voíư gần
80% lực lượng lao động xã hội hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp , hệ thống
giao thông vận tải, cơ sở vật chất còn yếu kém và chưa đồng bộ. Trong số gần
200 nghìn km đường bộ chỉ có 8,5% là đường rải nhựa, 6,5% đường đá còn 85%
là đường cấp phối và đường đất. Đường sắt có đến 80% là đường khổ hẹp , chất
lượng kém....
Sự mở rộng hợp tác kinh tế với thế giới đã thu hút được vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài nhưng vẫn còn rất ít và trong một, hai năm gần đây thì chững lại
nên còn nhiều hạn chế trong việc chuyển giao công nghệ, đẩy nhanh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Vì thế vốn vẫn là vấn đề nan giải cho nền KTTT nước
ta.
Với những thành tựu đã đạt được nền KTTT đã góp phần tích cực nâng
cao đời sống của nhân dân về vật chất cũng như tinh thần.
Bên cạnh những mặt tích cực của nền KTTT, còn có mặt tiêu cực của nó
đó là nạn tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác đang phát triển tràn
lan.Bên cạnh đó là sự ô nhiễm môi trường sinh thái , nạn phá rừng dẫn tới thiên
tai lũ lụt, can kiệt tài nguyên thiên nhiên. Cũng cần phải hiểu rằng đây không
17



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

phải là sự tác động một chiều mà chính những hậu quả này sẽ là những yếu tố
tác động lại nền KTTT định hướng XHCN, đến đời sống của con người.
Mục tiêu của nền KTTT định hướng XHCN đó là phát triển kinh tế để đạt
tới một xã hội giàu mạnh , dân chủ, công bằng, văn minh. Nếu như nền KTTT tự
do TBCN phục vụ lợi ích các nhà tư bản, xây dựng cơ sở kinh tế cho CNTB, bảo
vệ và phát triển CNTB thì KTTT định hướng XHCN lấy lợi ích và phục vụ toàn
dân làm mục tiêu. Phát triển KTTT để phát triển llsx, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho CNXH, nâng cao đời sỗng của nhân dân. KTTT bản thân nó là nội lực
tự thúc đẩy nền kinh tế xã hội. Đến lượt mình, chúng ta dùng cơ chế kinh tế đó
để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động , sáng tạo của người
lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây
dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, từng bước thực hiện lý
tưởng XHCN.
Đặc trưng KTTT định hướng XHCN đó là một kiểu tổ chức , một kiểu vận
hành kinh tế mà một mặt nó tuân theo những quy luật của KTTT, mặt khác dựa
trên cơ sở bản chất và nguyên tắc của CNXH, nó được chi phối bởi bản chất của
CNXH thể hiện trên cả 3 mặt cơ bản của một nền kinh tế - xã hội :sở hữu, quản
lý , phân phối.
Theo bản chất KTTT định hướng XHCN, sản phẩm kinh tế không chỉ
mang giá trị kinh tế, chúng được biến thành các giá trị xã hội. Một mặt , các giá
trị đó trở lại tái sản xuất và taí phát triển nền kinh tế, mặt khác chúng hoà vào
các chương trình phúc lợi y tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, nâng cao chất lượng
cuộc sống...Lý tưởng XHCN là lý tưởng nhân đạo nhất vì nó vươn tới một XH
giàu có , văn minh, đồng thời con người được hạnh phúc.Mục tiêu KTTT định
hướng XHCN là vươn tới điều đó. Vì vậy trong chế độ XH của KTTT định
hướng XHCN, các giá trị vật chất được gắn kết với giá trị tinh thần.

Một XH phát triển hài hòa các mặt kinh tế, đạo đức, văn hoá đó là một xã
hội đậm đà tình người. Bản chất KTTT định hướng XHCN mà chúng ta đang
phấn đấu như vậy là phát triển kinh tế, tất cả cho con người. Vì vậy, có thể nói,
khái niệm KTTT định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng đồng nghĩa với
khái niệm KTTT nhân văn.
Dù đang ở trình độ thấp và chưa đạt tới các yếu tố của nó, nền KTTT định
hướng XHCN - KTTT nhân văn mà tonà Đảng, toàn dân ta đang xây dựng luôn
hướng tới những mục tiêu mang những giá trị nhân văn cao quý nhất , nó vượt
lên trên bản chất của các nền KTTT trong lịch sử. Phấn đâú từng bước đạt tới
những mục tiêu của nền KTTT nhân văn đó chính là từng bước chúng ta thực
hiện lý tưởng nhân văn của nhân loài. Và cũng chính vì vậy, công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước ta hôm nay hoà được vào dòng chảy chung của nhân
loài, chúng ta được cả cộng đồng tiến bộ trên thế giới hưởng ứng và ủng hộ.
Có thể nói nề KTTT đã ra đời và phát triển qua nhiều giai đoạn và cho đến
bây giờ nó vẫn là kiểu kinh tế - xã hội tiến bộ nhất . Trải qua các giai đoạn
KTTT ngày càng được hoàn thiện và được áp dụng trên nhiều quốc gia.Nền
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam mặc dù mới ra đời cách đây gần 2 thập
18


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

kỷ nhưng cũng đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm không ngừng vận động và
đang biến đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn bên trong bản
thân nền KTTT, các yếu tố này vừa không ngừng có ảnh hưởng đến sự phát triển
của nền KTTT vừa chịu sự tác động của chính nền KTTT đó. Như thế trải qua
các giai đoạn lại hình thành nên những yếu tố mới khiến cho công công cuộc
xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam ngày càng phức
tạp, đòi hỏi phải có sự phân tích kỹ lưỡng, chi tiết và kịp thời từng yếu tố. Chính
vì vậy quan điểm lịch sử cụ thể luôn là quan điểm gắn liền với quá trình xây

dựng nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam.
Khi quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng và phát
triển nền KTTT định hướng XHCN, chúng ta sẽ phân tích kỹ lưỡng diễn biến
nền KTTT và yếu tố tác động nền KTTT sẽ giúp cho Đảng và nhà nước ta đưa
ra và thực hiện những giải pháp tốt nhất để phát triển nền kinh tế. Việt Nam sẽ
có thêm tự tin để bước vào thế kỷ 21 với những thách thức mới , cơ hội mới ,
nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam sẽ ngày càng phát triển ổn định và
nhanh chóng đuổi kịp trình độ của thế giới , trở thành một nước công nghiệp
phát triển trong tương lai không xa.

19


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Danh mục tài liệu tham khảo:
1.
Đảng cộng sản Việt Nam với công cuội đổi mới đất nước- NXB
Quân đội nhân dân.
2.
Một số vấn đề kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước taNXB chính trị quốc gia.
3.
Những vấn đề lý luận đặt ra từ các văn kiện đại hội IX của ĐảngNXB chính trị quốc gia.
4.
Nguyễn Sinh Cúc “Kinh tế thị trường định hướng XHCN”-NXB
chính trị quốc gia.
5.
Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin- NXB chính trị quốc gia.
6.
Tổng quan quy hoạch phát triển kinh tế- xã hôi Việt Nam- NXB

chính trị quốc gia.
7.
Thông tin khoa học xã hội số 6 năm 1997.

20



×