Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Quan điểm lịch sử cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.59 KB, 18 trang )

ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: " Quan điểm lịch sử cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay"
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ THỂ
1. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
2. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể
3. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
II. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA DƯỚI GÓC NHÌN CỦA QUAN ĐIỂM
LỊCH SỬ CỤ THỂ
1. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1. Những điều kiện trong nước
1.2. Những điều kiện khu vực và thế giới
2. Thực trạng quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt
Nam dưới tác động của những điều kiện cụ thể
2.1. Giai đoạn 1986-1991
2.2. Giai đoạn 1991 đến nay
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM XÂY DỰNG NỀN KTTT THEO
ĐỊNH HƯỚNG XHCN
1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần:
2. Mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ tạo lập
đồng bộ các yếu tố thị trường.
3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
4. Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới các
chính sách tài chính tiền tệ giá cả.
5. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội


ngũ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi:
6. Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
7. Giải quyết những hạn chế còn tồn tại của kinh tế thị trường
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. MỞ ĐẦU
Bước vào thiên niên kỷ mới, loài người đã và đang có những bước tiến quan
trọng trong công cuộc chinh phục thế giới. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa
học-kỹ thuật nói riêng và trong mọi mặt của đời sống xã hội nói chung đã nâng
dần loài người lên một tầm cao mới. Trong sự chửên biến mạnh mẽ đó, Việt nam
chúng ta không ngừng biến đổi vận động. Tính đến nay nước ta đã thực hiện
công cuộc đổi mới được hơn một thập kỷ, bên cạnh nhưng thàn tựu đã đạt được,
những vấn đề của nền kinh tế luôn đặt ra cho các nhà kinh tế. So với thế giới,
nước ta vẫn là một nước nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát triển, những
tàn dư của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại đã kìm hãm sự
phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế chúng ta phải nghiên cứu tìm ra hướng đi
đúng đắn cho nên kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp
với khu vực và thời đại. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích các yếu tố kinh
tế trong tổng thể các mối quan hệ, trong sự vận động và phát triển không ngừng.
Do vậy việc vận dụng các quan điểm lịch sử cụ thể của triết học Mác – Lênin vào
quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam là rất cần thiết.
Quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt
Nam sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta có hướng đi đúng đắn. Vì vậy trong bài viết
tiểu luận triết học của mình em đã lựa chọn đề tài : " Quan điểm lịch sử cụ thể
với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay". Em mong nhận được sự góp ý và hướng dẫn của
các thầy cô trong khoa để bài viết có kết quả tốt hơn.
1
B. NỘI DUNG

I. QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ THỂ
1. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở
hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn
tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể
xác định. Điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất,
đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nếu tồn tại trong những điều kiện không
gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất và đặc điểm của nó sẽ khác nhau
thậm chí có thể làm thay đổi hoàn toàn bản chất của sự vật.
2. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể
Quan điểm lịch sử có 3 yêu cầu:
Thứ nhất là khi phân tích và xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong
điều kiện không gian và thời gian cụ thể của nó, phải phân tích xem những
điều kiện không gian ấy có ảnh hưởng như thế nào đến tính chất, đặc điểm
của sự vật, hiện tượng. Phải phân tích cụ thể mọi tình hình cụ thể ảnh hưởng
đến sự vật hiện tượng.
Thứ hai là khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào đó
cần phải phân tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh lý luận đó. Có
như vậy mới đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý luận đó. Việc tìm ra
những điểm mạnh và điểm yếu có tác dụng trực tiếp đến quá trình vận dụng
sau này.
Thứ ba là khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến
điều kiện cụ thể của nơi được vận dụng. Điều kiện này sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến kết quả của sự vận dụng đó.
3. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2
Trước tiên cần phải khẳng định rằng KTTT định hướng XHCN cũng là
một dạng vật chất. Nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất xã hội theo sự
phân loại của triết học Mác – Lênin. Chính vì thế nền KTTT định hướng

XHCN Việt Nam cũng tồn tại, vận động và phát triển theo những nguyên lý,
quy luật của triết học Mác – Lênin mà cụ thể là trong những điều kiện không
gian thời gian theo quan điểm lịch sử cụ thể.
Sự ra đời và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhiều năm
qua đã góp phần thay đổi bộ mặt của đất nước, nâng cao đời sống của nhân
dân, Tuy nhiên đó chưa phải là cái đích cuối cùng của Đảng ta và nhân dân ta,
bởi nền kinh tế nước ta vẫn còn chậm phát triển. Khi chúng ta vừa chuyển từ
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế theo cơ chế thị
trường, từ một nền kinh tế yếu kém lạc hậu với hệ thống sản xuất, hệ thống
quản lý kinh tế với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ lại sang nền kinh tế
thị trường năng động do đó khó có thể tránh khỏi những vấp váp sai lầm.
Thêm nữa thời điểm chúng ta bắt đầu đổi mới chuyển sang nền KTTT là quá
muộn so với những nước trên thế giới và khu vực khi mà các nước tư bản như
Mỹ, Nhật, Tây Âu…đã tiến hành cơ chế thị trường và phát triển vượt xa ta
mấy chục năm. Nhờ sử dụng triệt để KTTT, chủ nghĩa tư bản đã đạt được
những thành tựu về kinh tế xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao
năng suất lao động, quản lý xã hội đã đạt được những thành tựu về văn minh
hành chính, văn minh công cộng, con người nhạy cảm với tinh tế và khả năng
sáng tạo…bên cạnh đó thì còn có những tiêu cực sau : sự gay gắt dẫn đến tình
trạng " cá lớn nuốt cá bé " sự phân cách giàu nghèo ngày càng lớn, ô nhiễm
tài nguyên môi trường, tài nguyên cạn kiệt, tệ nạn xã hội…Tuy nhiên là nước
đi sau và theo định hướng XHCN chúng ta có cơ hội kế thừa và phát triển
những thành tựu của nhân loại mà trước hết là sử dụng văn minh của KTTT,
loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng CNXH có hiệu quả hơn.
3
Chính vì những lẽ đó mà chúng ta cần vận dụng các quan điểm lịch sử cụ
thể vào việc nghiên cứu quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở
Việt Nam.
II. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA DƯỚI GÓC NHÌN CỦA QUAN ĐIỂM

LỊCH SỬ CỤ THỂ
1. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1. Những điều kiện trong nước
Đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu xuất phát điểm của nền kinh tế của nước
ta khi mới bắt đầu đổi mới. Bức tranh chung của nền kinh tế Việt Nam năm
trước khi đổi mới là tăng trưởng thấp 3,7% /năm, làm không đủ ăn và dựa vào
nguồn viện trợ là chính. Thu nhập quốc dân trong nước sản xuất chỉ đáp ứng
được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng. Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ bên
ngoài chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử dụng, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỷ
rúp và 1,9 tỷ USD. Cũng vào các năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng, siêu lạm phát tăng ở mức 774,7% vào các năm 1986 kéo
theo giá cả leo thang và vô phương kiểm soát.
Sự tàn phá nặng nề của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém dài
để lại nhiều hậu quả nặng nề: cơ sở vật chất kém với nền khoa học công nghệ,
kỹ thuật lạc hậu, hầu hết các hệ thống máy móc trong các xí nghiệp đều do
Liên Xô cũ giúp đỡ từ chiến tranh nên năng suất lao động thấp, chất lượng
kém.
Điều kiện địa lý cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến
nền kinh tế. Về địa hình nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang hẹp, địa
hình phức tạp mang đậm nét của sự phân dị sâu sắc về điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội. Các đặc điểm này chi phối sự phân công lao động xã hội theo
4
lãnh thổ và phát triển các vùng kinh tế. Nằm ở Tây Thái Bình Dương và Đông
Nam Á, khu vực khá phát triển cao, ổn địng, nơi cửa ngõ của giao lưu kinh tế.
Việt Nam có nhiều khả năng phát triển nhiều loại hình kinh tế khác nhau dựa
trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn thông, du lịch. Tài nguyên
khoáng sản phân bố không đều trên các vùng, ngay ở mỗi vùng cũng phân tán
và thiếu đồng bộ không gắn với nhau gây khó khăn cho việc khai thác sử
dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố trí kinh tế các vùng. Về dân số nước ta

dân số còn đông, nguồn lao động dồi dào nhưng phân bố không đồng đều.
Về chế độ chính trị : Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong
những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin thì kinh tế quyết định chính trị " chính trị là
sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không phải là mục đích mà chỉ là
phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế" . Lênin đã chỉ rõ " Để thoả mãn
những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm phương
tiện đơn thuần". Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận vai trò
quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động của
chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà
nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Như vậy
chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng
với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế.
Sau khi miền Bắc giải phóng và từ sau năm 1975 thống nhất đất nước cả
nước ta đã kiên quyết đi theo con đường XHCN – đây là sự lựa chọn tất yếu
và đúng đắn. Tuy nhiên vì không qua giai đoạn TBCN nên chúng ta gặp nhiều
khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng một hệ thống chính trị vững
mạnh. Thêm vào đó khi ta đang trong tình trạng ban đầu của công cuộc đổi
mới, một giai đoạn quan trọng mà chính trị là yếu tố định hướng dẫn đường
thì CNXH ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu sụp đổ hàng loạt đã gay nhiều
hoang mang cho Đảng và nhân dân ta. Điều này cũng chứng tỏ rằng đang có
5

×