Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Quan điểm lịch sử cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.59 KB, 23 trang )

Quan điểm lịch sử cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
________________________________________________________
A.Đặt vấn đề:
1.1
Sơ lược quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN
1.2
Việc cần thiết phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể khi nghiên
cứu quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1.3
Tác dụng của việc nghiên cứu quá trình xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN khi quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào
đó.
1.4
Suy nghĩ của bản thân khi nghiên cứu đề tài này.
B Nội dung:
1.
Sự cần thiết xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.
1.1.
Tình hình kinh tế Việt Nam trước thời kỳ đổi mới (1976-1985)
1.2.
Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.3.
Khái niệm kinh tế thị trường. Tác dụng to lớn của nền kinh tế thị
trường.
2.
Tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta.
2.1.


Đặc tính chung thống nhất của nền kinh tế thị trường.
2.2.
Hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
3.
Các bước xây dựng và phát triển kinh tế thị trường
4.
Những điều kiện để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta.
4.1 điều kiện trong nước.
4.2 điều kiện thế giới và khu vực.
4.3Kết quả đạt được sau công cuộc đổi mới kinh tế, xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
CKết luận:
Khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Đảng ta đang
xây dựng đồng nghĩa với nền kinh tế thị trường nhân văn, mang giá trị nhân đạo
cao cả.
Khẳng định quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm gắn liền với quá trình
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nền kinh tế
thị trường Việt Nam trong thế kỷ 21-thế kỷ của cách mạng khoa học và công
nghệ.

1


A.ĐẶT VẤN ĐỀ :
Thực tế 20 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị
trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường
phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một
quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy

luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam
Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên mô hình KTTT định hướng
XHCN được chính thức đưa vào văn kiện của Đảng: “ Đảng và Nhà nước ta chủ
trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN”(4). Sự khẳng định mô hình KTTT định hướng XHCN là mục tiêu của đất
nước ta trong Đại hội IX có hai ý nghĩa sâu sắc: một là, khẳng định tính nối tiếp
của quá trình đổi mới của nước ta từ Đại hội VI; hai là, xác định rõ tính chất thị
trường, tính chất nhiều thành phần, trong đó Nhà nước không những thực thi vai
trò chính trị mang bản chất XHCN, mà còn là một thành phần kinh tế cùng với
thành phần kinh tế tập thể tạo nền tảng của chế độ kinh tế mới. Đồng thời, Đại
hội IX cũng phân định kinh tế nhà nước có nội hàm rộng lớn hơn so với doanh
nghiệp nhà nước, phân định sở hữu, thành phần và hình thức tổ chức kinh
doanh, phân định quyền chủ sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của
doanh nghiệp nhà nước. Với việc chính thức hoá các đặc điểm nêu trên, Đại hội
IX đã đưa ra quan điểm mới về thành phần kinh tế nhà nước. Thứ nhất, thành
phần kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu nhà nước; thứ hai, sở hữu nhà
nước có thể nằm trong tài sản của doanh nghiệp, có thể nằm dưới hình thức khác
như ngân sách nhà nước, tài sản công…; thứ ba, chỉ với toàn bộ sức mạnh của
sở hữu nhà nước hậu thuẫn cho chính sách kinh tế của Nhà nước, cho quản lý
của Nhà nước, cho doanh nghiệp nhà nước ...thì Nhà nước mới có thể định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế…, tức thực thi
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Ngoài ra, Đại hội Đảng lần thứ IX một lần
nữa lại khẳng định tư tưởng công hữu phải là nền tảng của chế độ kinh tế
XHCN, nhưng quá trình hình thành nền kinh tế XHCN phải dần dần, trong đó
cần phát huy tối đa khả năng sản xuất của các thành phần kinh tế khác nhằm xây
dựng nước ta thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
Khi nghiên cứu quá trình nền KTTT và quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể

vào đó sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta đi đúng hướng, giup Đảng ta vạch ra
những đường lối, chính sách đúng đắn đưa nền kinh tế nước ta đi lên phát huy
được mặt tích cực hay thế mạnh của nền KTTT đồng thời khắc phục được
những mặt hạn chế, tiêu cực của nền KTTT đó.
Khi nghiên cứu đề tài này,em đã dựa trên chính những yêu cầu của quan
điểm lịch sử cụ thể hay xây dựng trên quan điểm đó để chứng minh những vấn

2


đề có liên quan đến nền KTTT. Và nền KTTT đã được xây dựng phát triển như
thế nào? Vị trí vai trò của nó trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Với khuôn khổ của bài tiểu luận, em không thể khái quát được nhiều hoặc
nghiên cứu ở tầm vĩ mô của nền kinh tế mới mà chỉ nghiên cứu ở tầm vi mô. Em
hy vọng với những kiến thức nhỏ bé này em sẽ phần nào cung cấp cho một số
thông tin cần thiết, giúp cho bạn đọc hiểu được những thuận lợi, khó khăn và vai
trò của nền KTTT trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Từ đó có thể đóng góp
một phần nào đó để tiếp tục xây dựng nền kinh tế Việt Nam để nước ta có thể
sánh vai với các nước phát triển trên thế giới.

3


B. NỘI DUNG
1.
Sự cần thiết xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở nước
ta. ì
1.1. Tình hình kinh tế Việt Nam trước thời kỳ đổi mới (1976-1985)
Dất nước giải phóng, nhân dân Việt Nam đứng trước một cơ hội mới để
xây dựng và phát triển nền kinh tế vì có thuận lợi cơ bản là tiềm năng kinh tế

của hai miền có thể bổ sung cho nhau. Tuy nhiên, do xuất phát điểm của nền
kinh tế thấp kém lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cùng với những vấp váp, sai
lầm trong các chính sách kinh tế nên đến năm 1985 kinh tế nước ta đã rơi vào
khủng hoảng và vòng xoáy của lạm phát, thể hiện trên những mặt chủ yếu sau
đây:
1.1.1. Kinh tế tăng trưởng thấp.
Từ năm 1976 đến năm 1985, tổng sản phẩm xã hội tăng 50% tức là bình
quân mỗi năm trong giai đoạn này chỉ tăng 4,6%. Đã thế sản xuất kinh doanh lại
kém hiệu quả nên chi phí vật chất cao và không ngừng tăng lên. Năm 1980, chi
phí vật chất chiếm 41,9% tổng sản phẩm xã hội; năm 1985 tăng lên chiếm
44,1%. Do vậy, thu nhập quốc dân qua hai kế hoạch 5 năm tăng 38,8%, bình
quân mỗi năm tăng 3,7%.
1.1.2. Làm không đủ ăn và dựa vào nguồn bên ngoài ngày càng lớn.
Năm 1985, dân số cả nước gần 59,9 triệu người tăng 25,7% so với
năm 1975. Như vậy, trong 10 năm 1975-1985 bình quân mỗi năm dân số tăng là
2,3%. Để đảm bảo đủ việc làm và thu nhập của nhân dân không giảm thì ít nhất
nền kinh tế phải tăng 7% mỗi năm. Nhưng trên thực thế nền kinh không đạt
mức đó nên sản xuất trong nước luôn luôn không đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng tối thiểu. Thu nhập quốc dân sản xuất trong nước chỉ bằng 80% đến 90%
nhu cầu sử dụng. Tích luỹ tuy nhỏ bé, nhưng toàn bộ tích luỹ và một phần quỹ
tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài. Trong những năm 1976 -1980 thu
vay và tiền viện trợ nước ngoài bằng 38,2% tổng thu ngân sách và bằng 61,9%
tổng thu trong nước. Nếu so với tổng chi ngân sach thì bằng 37,3%, ba chỉ tiêu
tương ứng của thời kỳ 1981-1985 lần lượt là 22,4%, 28,9% và 18,6%. Tính đến
năm 1985, nợ nước ngoài đã lên tới 8,5 tỉ Rúp và 1,9 tỉ USD. Tuy nguồn thu về
từ nước ngoài lớn như vậy nhưng ngân sách vẫn trong tình trạng thâm hụt và
phải bù đắp bằng phát hành bội chi ngân sách năm 1980 là 18,1% và năm 1985
là 36,6%. Giá trị xuất khẩu hàng năm có tăng lên nhưng vẫn còn thấp so với giá
trị nhập khẩu. Tỉ lệ xuất khẩu thường chỉ bằng 20%-40%, nhập khẩu năm 1976
bằng 21,7% , 1977 bằng 26,5%, 1978 bằng 25,1%, 1979 bằng 21,0%, 1980 bằng

25,8%, 1981 bằng 29,0%, 1982 bằng 35,8%, 1983 bằng 40,4%, 1984 bằng
32,2%, 1985 bằng 37,5%. Hầu hết các loại hàng hoá thiết yếu phục vụ cho sản
xuất và đời sống đều phải nhập khẩu toàn bộ hay một phần do sản xuất trong
nước không đảm bảo được tiêu dùng. Ngoài sắt, thép, máy móc, xăng dầu, thiết
bị còn nhập cả những loại hàng hoá lẽ ra sản xuất trong nước đáp ứng được nhu
cầu như gạo, vải mặc. Trong những năm 1976-1980 đã phải nhập 60 triệu mét
vải các loại và 1,5 triệu tấn lương thực quy gạo. Sau 10 năm đất nước thống nhất
4


việc xây dựng và phát triển kinh tế trong bối cảnh hòa bình mà cái gì cũng thiếu
nên cái gì cũng quý.
1.1.3. Siêu lạm phát hoành hành và giá cả tăng cấp số nhân.
Cơn sốt lạm phát không biết đã ra đời trong nền kinh tế từ bao giờ song
ngay từ năm1976 nó đã từng tồn tại và cứ lớn dần lên ngoài ý muốn của con
người. Năm 1985 cuộc cải cách giá-lương-tiền theo giải pháp sốc đã thất bại làm
cho cơn sốt lạm phát vụt lớn nhanh, hoành hành trên mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế-xã hội. Giá cả leo thang từng ngày đã vô hiệu hoá tác dụng đổi tiền chỉ
mới tiến hành vài tháng trước đó, làm rối loạn điều hành kinh tế vĩ mô. Giá cả
không chỉ tăng ở thị trường tự do mà còn tăng rất nhanh trong thị trường có tổ
chức. Về cơ bản, giá cả đã tuột khỏi tầm tay bao cấp của nhà nước. Siêu lạm
phát đạt đỉnh cao trong năm 1986, với tốc độ tăng giá cả năm lên tới 774,4%.
1.2. Sự cần thiết khách quan cần thiết phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam.
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội, trong đó sản phẩm
sản xuất ra để trao đổi để bán ra thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế
hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiêp của người sản xuất mà nhằm
để bán, tức là để thoả mãn nhu cầu của người mua, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Trong
đó, toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị

trường. KTHH và KTTT không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình
độ phát triển và về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất.
1.2.1. Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển KTTT ở Việt
Nam.
Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng
hoá chẳng những không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng
ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính
phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi
trên thị trường. Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là:
sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại
nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có
thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá tiền tệ. Thành phần kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các
đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về
trình độ kĩ thuât-công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất chi
phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
Quan hệ hàng hoá- tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc
biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu
5


sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi
trên thị trường, thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá. Như
vậy, khi kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu khách quan, thì không
thể lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ nó được.
.
1.3. Thế nào là kinh tế thị trường định hướng XHCN và tác dụng to
lớn của nền KTTT

Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô
hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch
sử cụ thể. Nghiên cứu một cách nghiêm túc các mô hình kinh tế đó, cùng với
thời gian và kinh nghiệm thực tế, chúng ta đã rút ra cho mình một cách nhìn
đúng đắn hơn và một sự lựa chọn thực tế hơn. Đó là, chúng ta đã kịp thời
chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN.
Trước tiên cần tìm khái niệm KTTT. Kinh tế thị trường được hiểu là một
kiểu kinh tế-xã hộ mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị
trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá-tiền tệ, với quan hệ cung-cầu.
Trong nền KTTT nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hôi là quan
hệ hàng hoá. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hoá hay ít
nhất cũng phải sử dụng nó như là một khâu trung gian.
Nền KTTT từ khi mới ra đời cho đến nay đã trải qua các giai đoạn phát
triển khác nhau, mỗi giai đoạn đều có đặc điểm riêng. Trong các gia đoạn đó đã
từng có các nền KTTT theo định hướng này hay theo định hướng khác. Đến
năm 1986 khi nước ta đổi mới nền kinh tế chúng ta đã xác định được một định
hướng đúng đắn cho nền KTTT đó là định hướng XHCN.
KTTT định hướng XHCN theo quan điểm của Đảng ta là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN. Về bản chất khác với nền KTTT Tư bản chủ
nghĩa, nền KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế vì nhân dân phục vụ
nhân dân, lấy đời sống nhân dân, công bằng xã hội là mục tiêu để tăng trưởng
kinh tế.
1.3.1. Tác dụng to lớn của sự phát triển KTTT.
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH còn mang tính
tự cung tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự
nhiên và chuyển thành kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.
Kinh tế hàng hóa tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá buộc mọi chủ thể sản xuất
phải cải tiến kĩ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản

xuất đến mức tối thiểu, nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trên
thị truờng. Quá trình đó giúp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao
năng suất lao động xã hội.

6


Trong nền KTHH, người sản xuất phải căn cứ cào nhu cầu của người tiêu
dùng, của thị trường quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu,
chất lượng như thế nào. Do đó KTHH kích thích tính năng động sáng tạo của
chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, cũng như
tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ.
Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng
hoa, đến lượt nó sự phát triển KTHH sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội
và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng lợi thế của từng
vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với
nước ngoài.
Sự phát triển của KTTT sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất,
do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn, có tính xã hội hoá cao, đồng thời
chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ
quản lý có trình độ lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Như vậy, phát triển KTTT là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một nhiệm vụ
kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế
hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng
đắn để phát triển lực lượng sản xuât, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất
nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực tế những năm đổi mới đă chứng minh rằng, việc chuyển sang nền
KTTT nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền KTHH nhiều
thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu
hút được vốn, kĩ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản

xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhip độ
tương đối cao trong thời gian qua.
Trình độ phát triển của KTTT có liên quan mật thiết với các giai đoạn phát
triển của lực lượng sản xuất. Về đại thể KTHH phát triển qua 3 giai đoạn tương
ứng với 3 giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất: Sản xuất hàng hoá giản
đơn, KTTT tự do, KTTT hiện đại. Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh
tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang KTHH. Mô hình kinh tế
Việt Nam được xác định là nền KTHH nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng XHCN.
2 Tính đặc thù của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là
sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm
bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời
đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát
triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị
trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là
7


một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường.
Cũng có thể nói kinh tế thị trường là “cái phổ biến”, còn kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và
đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không
phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là
kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là

kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như trên đã nói, Việt Nam đang ở
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa có vừa chưa có đầy đủ các yếu tố
của chủ nghĩa xã hội.Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy
vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất,
xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật – công nghệ, nâng cao chất lượng sản
phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống
nhân dân; đồng thời phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu
cực của kinh tế thị trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc
liệt, bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề
xã hội. Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ
sở quán triệt lý luận Mác – Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận
dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo
những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi
phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba
mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế

hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế
nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
8


phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng
sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng
góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi
xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực của đất nước.
Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu
tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế
còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội
mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được
định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát
thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển
bền vững của đất nước.
Có ý kiến cho rằng, không thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; rằng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không thể dung hợp với nhau,
nếu đem “ghép” định hướng xã hội chủ nghĩa vào kinh tế thị trường thì chẳng
khác nào trộn dầu vào nước, tạo ra một cơ thể “đầu Ngô mình Sở”. Theo chúng
tôi, ý kiến này không đúng. Không đúng là vì, hoặc ý kiến này muốn trì kéo Việt
Nam trong quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận định hướng xã hội

chủ nghĩa, không muốn Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là điều trái với
quy luật khách quan, không thể chấp nhận. Hoặc ý kiến này không thoát ra được
khỏi tư duy cũ, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, cho kinh tế thị
trường là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, từ đó “dị ứng” với kinh tế thị
trường, không thấy hết những yếu tố mới, xu hướng mới của kinh tế thị trường
trong điều kiện mới của thời đại, lặp lại sai lầm của một thời trước đây.
Cũng có ý kiến nhấn mạnh một chiều những đặc trưng chung, những cái phổ
biến của kinh tế thị trường, chưa thấy hết hoặc còn phân vân, nghi ngờ về những
đặc điểm riêng, những cái đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Từ đó chưa tin là kinh tế thị trường có thể phát triển trên cơ sở chế độ
công hữu là nền tảng, kinh tế quốc doanh là chủ đạo; rằng trong kinh tế thị
trường không thể có kế hoạch, không thể thực hiện được công bằng xã hội,
không thể khắc phục được những tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường, v.v..
Lại có ý kiến băn khoăn cho rằng, việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa thực chất là trở về với chủ nghĩa tư bản, có thêm định ngữ
9


“định hướng xã hội chủ nghĩa” thì cũng chỉ là để cho yên lòng, cho có vẻ “giữ
vững lập trường” mà thôi, trước sau gì thì cũng trượt sang con đường tư bản chủ
nghĩa.
Theo em, những băn khoăn này là dễ hiểu, bởi vì đây là những điều còn rất
mới mẻ, chưa có tiền lệ, nếu không xác định rõ nội dung định hướng xã hội chủ
nghĩa và kiên trì vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh
tế thị trường thì những điều đó rất dễ xảy ra. Chúng ta còn phải vừa làm vừa
tổng kết, rút kinh nghiệm. Nhưng có điều cần khẳng định là: trong điều kiện mới
của thời đại ngày nay, nhất định không thể duy trì mãi mô hình kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa, không thể đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư
bản. Chính C.Mác đã phê phán sự lầm lẫn giữa kinh tế hàng hóa với kinh tế tư
bản chủ nghĩa của phái kinh tế học tầm thường. C.Mác khẳng định rằng : “... sản

xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là những hiện tượng thuộc về nhiều
phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm quan trọng của
chúng không giống nhau... Chúng ta hoàn toàn chưa biết gì về những đặc điểm
riêng của những phương thức sản xuất ấy và chúng ta chưa thể nói gì về những
phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ biết có những phạm trù trừu tượng của
lưu thông hàng hóa, những phạm trù chung cho tất cả các phương thức ấy”. Phải
chăng việc nhận thức cho đúng và nói cho được những đặc điểm riêng của
những phương thức sản xuất đặc thù ấy là trách nhiệm mà C.Mác giao cho và
gửi gắm các thế hệ mai sau?
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải
đơn giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền
kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải chuyển
sang nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều kiện
lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi sau, cho phép các nước này
giảm thiểu được những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới chủ
nghĩa xã hội trên cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những
khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị trường. Nói cách khác, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân
theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm
tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối
và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt
tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều
tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát triển khoa học và công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian không dài có thể
khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.

10



2.1. Đặc tính chung thống nhất của KTTT.
KTTT là trình độ phát triển cao hơn của KTHH, trong đó toàn bộ các yếu
tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. KTHH là kiểu
tổ chức hoạt động kinh tế tồn tại và phát triển trong nhiều hình thái kinh tế xã
hội. KTHH là loại hình kinh tế tiến bộ, là nấc thang cao hơn kinh tế tự nhiên tự
cấp, tự túc, trong sự phát triển của xã hội loài người.
Ngày nay, không ai phủ nhận vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của KTTT trong
quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, phát triển lực sản xuất xã hội. Trong xã
hội, nếu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì tất yếu có thị trường. Quy mô của
lưu thông hàng hoá và sức mua của xã hội quyết định dung lượng thị trường.
Đến lượt mình, sử dụng, mở rộng và lành mạnh hoá thị trường lại có tác dụng
thúc đẩy lưu thông hàng hoá phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng.
Thị trường gắn với lĩnh vực lưu thông hàng hoá, thị trường hình thành ở đâu có
cung- cầu hàng hoá, nói đến thị trường là nói đến giá cả, tiền tệ, người bán,
người mua. Thị trường là tổng hoà những mối quan hệ mua- bán trong xã hội,
được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử kinh tế- xã hội nhất
định. Cơ sở của thị trường là sự phân công lao động xã hội. Trình độ và quy mô
thị trường gắn liền với trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, sản
xuất và thu mua của xã hội.
Nền KTTT có cả mặt tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực, đó là cơ chế tự
điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển; nó có tác dụng kích
thích mạnh và nhanh sự quan tâm thường xuyên đến đổi mới kỹ thuật, công
nghệ quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; nó có tác dụng lớn trong
tuyển chọn các doanh nghiệp và cá nhân quản lý kinh tế giỏi. Trên cơ sở đó,
KTTT kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển... Về mặt tiêu cực,
trên thị trường chứa đựng tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân
đối. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất, kinh doanh có thể gây nhiều hậu
quả xấu: môi trường bị huỷ hoại, tình hình cạnh tranh không lành mạnh, phá

sản, thất nghiệp, phân hoá xã hội cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ, các vấn đề
công bằng xã hội không được đảm bảo, tệ nạn xã hội tăng, thậm chí có người
làm ăn bất hợp pháp... Để hạn chế những khuyết tật đó đòi hỏi nhà nước quản lý
nền KTTT. Nhà nước quản lý nền KTTT bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch
định hướng, bằng các công cụ, chính sách, biện pháp kinh tế...
2.2. Hình thành đồng bộ thể chế KTTT định hướng XHCN.
2.2.1. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở
hữu.
Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế
chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật
mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh mọi thành phần kinh tế với các hình
thức sở hữu khác nhau. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác
nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều đước khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác,
cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền KTTT định
11


hướng XHCN. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từng bước hình
thành một số tập đoàn kinh tế mạnh.
Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tôt vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là
công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tập trung đầu tư
cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, và là một cơ sở công nghiệp quan trọng.
Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Phát triển doanh nghiệp nhà
nước trong những ngành sản xuất và ngành dịch vụ quan trọng, xây dựng các
tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế
lớn có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế như dầu khí,
điện, than, đường sắt, hàng không, vận tải viễn dương, viễn thông, cơ khí... Đổi

mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của
doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động
theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Bảo đảm quyền
tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp, xoá bỏ bao cấp của nhà nước đối với doanh nghiệp. Thực hiện chủ
trương cổ phần hoá những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100%
vốn, để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, ưu tiên cho người lao động được mua cổ
phần. Thực hiện việc giao bán, khoán cho thuê các doanh nghiệp loại nhỏ mà
nhà nước không cần lắm giữ... Phấn đấu trong khoảng 5 năm cơ bản hoàn thành
việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh doanh các doanh nghiệp nhà
nước, củng cố và hiện đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước.
Phát triển kinh tế tập thể với hình thức hợp tác đa dạng, chuyển hợp tác xã
cũ theo luật hợp tác xã đạt hiệu quả thiết thực, tạo điều kiện mở rộng quy mô
sản xuất, kinh doanh phù hợp với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong
nông nghiệp trên cơ sở phát huy tính tự chủ của hộ gia đình, chú trọng phát triển
các hình thức hợp tác và hợp tác xã cung cấp dịch vụ, vật tư và tiêu thụ sản
phẩm cho kinh tế hộ gia đình, trang trại. Mở rộng các hình thức kinh tế hỗn hợp,
liên kết, liên doanh hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế. Nhà nước giúp đỡ hợp tác xã đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật và quản lý,
mở rộng thị trường, ứng dụng công nghệ mới, phát triển vốn tập thể, giải quyết
nợ tồn đọng của hợp tác xã cũ. Kinh tế cá thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành
thị được nhà nước tạo điều kiện để phát triển. Kinh tế tư bản tư nhân được
khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong từng ngành, nghề, lĩnh
vực và địa bàn mà pháp luật không cấm. KTTB nhà nước dưới hình thức liên
doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước
ngày càng phát triển bài bản. Kinh tế vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của
nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển hướng mạnh vào sản xuất,
kinh doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hóa và dịch vụ công nghệ cao,
xây dựng kết cấu hạ tầng.

12


2.2.2. Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu
lực quản lý của nhà nước.
Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi
đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế để thị trường hoạt động năng
động, có hiệu quả, có trật tự kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh,
công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát được quyền kinh doanh, có giải
pháp hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại. Phát triển thị trường vốn
và tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung hạn và dài han. Tổ chức và vận hành an
toàn, hiệu quả thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, từng bước mở rộng
quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn nước ngoài. Từng bước
mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước
ngoài tham gia đầu tư, phát triển thị trường lao động, người lao động được tìm
và tạo việc lảm ở mọi nơi trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự tham
gia của các thành phần kinh tế. Phát triển các loại thị trường dịch vụ, khoa học
công nghệ, sản phẩm trí tuệ... Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt
động khách quan của thị trường, tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, đồng thời
khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường. Nhà nước điều tiết
thu nhập hợp lý, xây dựng pháp luật và kiểm tra giám sát việc thực hiện. Kiên
quyết xoá bỏ những quy định và thủ tục mang nặng tính hành chính quan liêu,
bao cấp, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, gây phiền hà sách nhiễu
cho doanh nghiệp và nhân dân.
2.2.3. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính-tiền tệ quốc
gia
Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam
kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hoá các sắc thuể. Hiện đại hoá công
tác thu thuế và tăng cường quản lý của nhà nước.Động viên hợp lý và phân phối
có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.

Thực hiện nguyên tắc công bằng, hiệu quả trong chính sách phân phối và phân
phối lại nguồn thu nhập trong xẫ hội. Tạo lập môi trường tài chính lành mạnh
thông thoáng, nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính và tiềm
năng sản xuất của các doanh nghiệp. Kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá với các
chính sách kinh tế, tài chính để định hướng và khuyến khích nhân dân, doanh
nghiệp tiết kiệm đầu tư kinh doanh. Bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh
của thị trường tài chính- tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế.
Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam
kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hoá các sắc thuể. Hiện đại hoá công
tác thu thuế và tăng cường quản lý của nhà nước.
Tiếp tục cơ cấu lại ngân sách nhà nước, tăng dần tỉ lệ tích luỹ cho đầu tư
phát triển, phân định rõ hoạt động của sự nghiệp quản lý hành chính, thực hiện
cải cách tiền lương đi liền với tinh giảm biên chế bộ máy hành chính. Cải cách
thủ tục hành chính giảm mạnh và đi đến xoá bỏ những khoản chi mang tính chất
bao cấp trong ngân sách. Sử dụng ngân sách nhà nước phải chủ động và có hiệu
quả, tăng cường kiểm soát các khoản chi, kiên quyết chống lãng phí thất thoát.
13


Thực hiện chính sách khuyến khích phát triển đối với các vùng kinh tế trọng
điểm, đồng thời quan tâm đầu tư nhiều hơn vào vùng khó khăn. Tiếp tục đổi mới
chính sách tài trợ giải quyết việc làm, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, giúp
đỡ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời đảm bảo cho người nghèo
được hưởng phúc lợi cơ bản.
Thực hiện chế độ tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính của doanh
nghiệp, tách biệt tài chính nhà nước với tài chính doanh nghiệp, thực hiện công
khai hoá tài chính doanh nghiệp và tài chính công. Nhà nước giảm sát, điều tiết
tài chính doanh nghiệp, thông qua chế độ kế toán, kiểm toán và hệ thống thuế
bảo hộ , các nguồn thu nhập hợp pháp , khuyến khích tất cả các tầng lớp dân
cư , các thành phần kinh tế , cần kiệm đầu tư kinh doanh , làm giàu chính đáng.

Thực thi chính sách tiền tệ bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô . Kiểm soát lạm
phát , thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng , kích thích đầu tư và phát triển. Sử dụng
linh hoạt , có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ như tỉ giá ,lãi suất . Cơ cấu
lại hệ thống ngân hàng , phân biệt chức năng của ngân hàng nhà nước và ngân
hàng thương mại nhà nước , chức năng cho vay của ngân hàng chính sách với
chức năng kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại , bảo đảm quyền tự chủ
và tự chịu trách nhiệm của ngân hàng thương mại trong kinh doanh. Sắp xếp lại
các ngân hàng cổ phần , xử lý các ngân hàng yếu kém , đưa hoạt động của quỹ
tín dụng nhân dân đi đúng hướng và bảo đảm an toàn..
2.2.4 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá ,
đa dạng hoá , chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều
kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song
phương và đa phương như AFTA , APEC , hiệp định thương mại Việt – Mỹ ,
tiến tới gia nhập WTO . Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi
thành phần kinh tế tham gia sản xuất , kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và
dịch vụ . Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường và quốc tế. Xây dựng các
quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản, khuyến khích sử dụng
thiết bị , hàng hoá sản xuất trong nước. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến
tới cân bằng xuất nhập.Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn , có thời hạn
đối với sản phẩm sản xuất trong nước.
Đẩy mạnh các lĩnh vực dịch vụ thu ngoại tệ : du lịch , xuất khẩu lao động,
tài chính tiền tệ, tư vấn...
Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế , chú trọng các thị
trường trung tâm kinh tế thế giới , duy trì và mở rộng thị phần trên các thị
trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới . Từng bước hiện
đại hoá phương thức kinh doanh phù hợp với xu thế của thương mại thế giới.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư,
nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Năng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước đối với các khu công
nghiệp, khu chế xuất và doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài.Thực hiện
14


cổ phần hoá các doanh nghiệp, nếu có điều kiện, triển khai từng bước vững chắc
các hình thức đầu tư gián tiếp của nước ngoài ở nước ta. Khuyến khích người
Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước đầu tư kinh doanh, doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài và có chính sách hỗ trợ công dân Việt Nam kinh
doanh hợp pháp ở nước ngoài.
Tiếp tục tranh thủ nguồn tài trợ của các phủ và các tổ chức tài chính quốc
tế, các tổ chức phi chính phủ.Đẩy nhanh tốc độ giải ngân nâng cao hiệu quả của
sử dụng vốn.
(Trang 28, 29, 30, 31, 32, 33 tài liệu)
3.Các bước xây dựng và phát triển kinh tế thị trường
Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là
kinh tế thị trường:. Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ
không phải nói về toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh tế. Do
đó, trong khi phê phán nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp
và đề ra chủ trương đổi mới quản lý kinh tế (một bộ phận của đường lối đổi mới
toàn diện), Đại hội VI khẳng định: “thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế
là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển thêm một bước, Đại hội VII (qua
Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước”.
Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư
bản, không đối lập với chủ nghĩa xã hội:. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phầ
đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định

hướng xã hội chủ nghĩa đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế. Có
nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, còn có chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước.
Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ:. Đại hội IX của Đảng
(2001) ghi rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với
xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân
phối

15


Bước IV: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trương
toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn. Đại hội
X của Đảng chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Bốn nội dung quan trọng nhất là: nắm vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta, nâng cao vai trò và hoàn thiện
quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành
các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các
thành phần kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh doanh
2
Những điều kiện để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

4.1
Điều kiện trong nước
Trước tiên ta cần biết khi bắt đầu đổi mới,tình trạng kinh tế của nước ta
như thế nào. Bức tranh chung của nền kinh tế Việt Nam 10 năm trước đổi mới là
tăng trưởng thấp 3,7%/năm, làm không đủ ăn và dựa vào nguồn bên ngoài ngày
càng lớn.Thu nhập quốc dân trong nước, sản xuất chỉ đáp ứng được 80-90% thu
nhập quốc dân sủ dụng. Đến năm 1985 tỉ trọng thu từ bên ngoài chiếm 10,2%
thu nhập quốc dân sử dụng, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỉ Rup và 1,9 tỉ USD.
Cũng vào các năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng,
siêu lạm phát ở mức 774,7% vào năm 1986 kéo theo giá cả leo thang và vô
phương kiểm soát.
Có thể nói,thời kì bao cấp la thời kì kìm hãm sự phàt triển nền kinh tế của
nước taCộng thêm sự tàn phá nặng nề của chiến tranh,nước ta đã có một xuất
phát điểm thấp khi bước vào đổi mới nền kinh tề. Cơ sở vật chất thấp kém với
nền KH-CN, kĩ thuật lạc hậu, hầu hết những hệ thống máy móc trong các nhà
máy đều do Liên Xô cũ giúp đỡ từ trong chiến tranh nên năng suất thấp , chất
lượng kém. Hệ thống giao thông vận tải vốn đã không tốt lại thêm bom đạn của
chiến tranh nên ngày càng xuống cấp. Công nghiệp dịch vụ hầu như không phát
triển, chiếm tỉ trọng chưa đến 50% GDP còn chủ yếu là nông nghiệp. Bên cạnh
đó còn có một hậu quả nặng nề khác là cơ chế bao cấp phân phối bình quân, lợi
ích của mọi người đều như nhau dẫn đến việc không phát huy hết năng lực sáng
tạo của con người, lực lượng nhân tài ngày càng giảm sút, trình độ dân trí thấp
và đặc biệt nghiêm trọng là tư tưởng thụ động ỷ lại, thiếu tính năng động quyết
đoán ẩn sâu trong người dân và tất cả các cán bộ trong hệ thống quản lý kinh tế.
Điều kiện địa lý cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến
nền kinh tế. Về địa hình, lãnh thổ nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang
hẹp, địa hình phức tạp mang đậm nét của sự phân độ sâu sắc. Về điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội, các đặc điểm này chi phối sự phân công lao động xã hội
theo lãnh thổ và chiến lược phát triển của vùng. Ta cũng có thuận lợi là nằm ở
Tây Thái Bình Dương và Đông Nam á, khu vực phát triển cao , ổn định, nơi cửa

ngõ của giao lưu quốc tế, Việt Nam có nhiều khả năng để phát triển nhiều loại
hình kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn thông
du lịch. Tài nguyên khoáng sản phân bố không đều trên các vùng , ngay ở mỗi

16


vùng cũng phân tán và thiếu đồng bộ, không gắn với nhau gây khó khăn cho
việc khai thác sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố trí kinh tế của các vùng.
Về dân số, nước ta có số dân đông, nguồn lao động dồi dào nhưng phân bố
không đồng đều. Đặc biệt ở cấp vĩ mô, do đất nước bị chia cắt lâu dài, giữa hai
miền Bắc – Nam còn có sự khác biệt không nhỏ hoặc khác biệt giữa các khu vực
xa xôi hẻo lánh với những khu vực có đô thị tập trung.
Về chế độ chính trị, quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong những
vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác – Lênin thì kinh tế quyết định chính trị:” Chính trị là sự biểu hiện
tập trung của kinh tế, chính trị không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để
thực hiện mục đích kinh tế”. Vấn đề kinh tế không thể tách rời cấn đề chính trị
mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Như
vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng
với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Sau khi miền Bắc được giải
phóng và từ sau năm 1975 thống nhất đất nước , cả nước ta đã kiên quyết đi theo
con đường CNXH. Đây là sự lựa chọn tất yếu và đúng đắn. Vì không qua giai
đoạn TBCN đã gặp nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng một hệ
thống chính trị vững mạnh. Thêm vào đó , khi ta đang trong giai đoạn đầu của
công cuộc đổi mới, một giai đoạn quan trọng mà chính trị là yếu tố định hướng
dẫn đường thì CNXH ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu sụp đổ hàng loạt đã
gây nhiều hoang mang cho Đảng ta. Điều này cũng chứng tỏ rằng Đảng có rất
nhiều thế lực phản động, không ngừng tìm mọi cách phá hoại lật đổ chế độ
CNXH ở nước ta.

Về văn hoá xã hội, nói đến văn hoá của một dân tộc là nói đến bản sắc cốt
cách riêng thể hiện trong những yếu tố cấu thành văn hoá của dân tộc đó. Theo
định nghĩa được thừa nhận khá rộng rãi của UNESCO thì văn hoá là tổng thể
sống động các hoạt động sáng tạo của con người diễn ra trong quá khứ cũng như
đang diễn ra trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ , các hoạt động sáng tạo ấy đã cấu
tạo nên một hệ thống giá trị, truyền thống, thị hiếu , thẩm mỹ và lối sống mà
dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình . Với chiều dài 4000
năm lịch sử, nước ta có một nền văn hoá lâu đời với các giá trị tinh thần truyền
thống tốt đẹp. Các giá trị đạo đức truyền thống vừa là kết quả, vừa là cơ sở,
động lực của quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước và giao lưu văn hoá lâu
dài của dân tộc góp phần tạo dựng bản lĩnh dân tộc và nhân cách con người Việt
Nam. Chủ nghĩa yêu nước , lòng thương người, tinh thần đoàn kết cộng đồng…
trong đó chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi của bản sắc văn hoá dân tộc , là giá trị cao
nhất trong hệ giá trị đạo dức của dân tộc, là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của
nhân dân ta…Với bề dày văn hoá đó cùng với chế độ chính trị đúng đắn là
CNXH, chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nền KTTT định
hướng XHCN tiên tiến.
Bên cạnh đó nền kinh tế thị trường năng động và khắc nghiệt rất cần
những nhà quản lý kinh tế tài giỏi, sáng tạo, năng động thì chúng ta lại chưa có
được. Nhân dân ta yêu nước , sẵn sàng xả thân hi sinh vì tổ quốc nhưng trong
17


hoạt động kinh tế thì nhân dân ta vẫn còn thiếu tính năng động, thiếu tính quyết
đoán, thiếu những phẩm chất rất quan trọng của một nhà quản lý kinh tế .
4.2
điều kiện thế giới và khu vực
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mặc dù tình hình thế giói có nhiều diễn
biến phức tạp nhưng hoà bình và hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo, là đòi
hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia.Các cuộc cách mạng khoa học và

công nghệ đạt được những bước tiến vượt bậc, đặc biệt trong các lĩnh vực tin
học, viến thông, sinh học, vật liệu mới và năng lượng mới đang đẩy mạnh quá
trình quốc tế hoá cao độ các lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động
quốc tế ngày càng sâu sắc. Như vậy có nghĩa là ngày nay , không một nền kinh
tế nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Tình hình đó đòi hỏi một sự
hợp tác ngày càng rộng tạo nên thế tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay
nhỏ, phát triển hay đang phát triển.Trong lịch sử phát triển của XH có lẽ chưa
bao giờ có một sự hợp tác để phát triển rộng rãi đan xen lồng ghép và nhiều tầng
lớp như hiện nay với sự hình thành nhiều tổ chức kinh tế như ASEAN ( Hiệp hội
các nước Đông nam á ), WTO ( Tổ chức Thương mại thế giới ), AFTA, EU…
Đối với khu vực, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á, Châu á Thái
Bình Dương, mnột khu vực được coi là có nền kinh tế năng động và có tốc độ
tăng trưởng cao nhất thế giới trong những năm gần đây. Hâù hết các nước trong
khu vực như Singapore, Thái lan, Inđonexia đã tiến hành nền KTTT được mấy
thập kỷ và một số nước đã trở thành các nước công nghiệp mới.
Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển vượt ta khá xa về mọi mặt đặc
biệt là về kinh tế. Vì thế đã đặt ra cho Việt nam nhiều thách thức trong quá trình
phấn đấu xây dựng và cải tiến nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng
XHCN.Tất nhiên đó là một thách thức rất lớn,nhưng điều quan trọng là ta phải
biết dựa vào các tổ chưc,các nước phát triển hơn để phát triển nền kinh tế nước
nhà
4.3
Kết quả đạt được sau công cuộc đổi mới kinh tế , xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Năm 1986, Đại hội lần thứ 6 Đảng cộng sản Việt Nam chính thức từ bỏ hình
thức kinh tế kế hoạch hoá Mác xít và bắt đầu đi theo các khuynh hướng kinh tế
thị trường coi đó là một phần trong kế hoạch cải cách kinh tế tổng thể, được gọi
là “Đổi mới”. Đổi mới, theo nhiều hình thức, tương tự với mô hình Trung Quốc,
và đã mang lại nhiều thành công. Một mặt, Việt nam đạt mức tăng trưởng GDP
ở mức khoảng 8% một năm trong giai đoạn 1990 tới 1997 và tiếp tục duy trì ở

mức khoảng 7% từ năm 2000 đến 2002, khiến nước này có tốc độ phát triển
kinh tế đứng hàng thứ hai trên thế giới. Tương tự, đầu tư tăng gấp ba lần và tiết
kiệm trong nước tăng gấp bốn lần. Mặt khác, tỷ lệ thất nghiệp thành thị cũng
tăng đều trong những năm gần đây, và tỷ lệ thất nghiệp nông thôn được ước tính
lên tới 35% ngoài thời gian mùa vụ, ở mức đáng báo động. Tình trạng giãn thợ
trong khu vực kinh tế nhà nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

18


cộng thêm những ảnh hưởng của quá trình giải ngũ quân đội trước đó càng làm
tình hình trầm trọng thêm.
Dù có mức tăng trưởng ấn tượng tới 23% trong năm 1999 ở lĩnh vực xuất khẩu
đạt tới 11.5 tỷ dollar, sự suy giảm rõ rệt trong cam kết đầu tư nước ngoài báo
trước một sự giảm sút tăng trưởng kinh tế so với giai đoạn đầu thập kỷ 1990.
Việc chính phủ kiểm soát nền kinh tế cộng với một đồng tiền tệ không chuyển
đổi được đã bảo vệ Việt Nam khỏi những tác động nghiêm trọng từ cuộc Khủng
hoảng tài chính Đông Á. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng cộng với việc để mất đà
tăng trưởng trong giai đoạn cải cách kinh tế đầu tiên cũng giúp nước này nhận
thấy những vấn đề kém hiệu quả nghiêm trọng bên trong cơ cấu kinh tế.
Vị thế kinh tế Việt Nam sau cuộc khủng hoảng Đông Á cũng đáng lo ngại, nhấn
mạnh sự ổn định kinh tế vi mô hơn là sự tăng trưởng. Trong khi đất nước đang
tiến về một nền kinh tế theo định hướng thị trường, chính phủ Việt Nam tiếp tục
quản lý chặt chẽ các lĩnh vực chính của nền kinh tế, như hệ thống ngân hàng,
các doanh nghiệp nhà nước, và các lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Việc ký kết Thoả thuận thương mại song phương (BTA) ngày 13 tháng 7,
2000 giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là một mốc quan trọng đối với kinh tế Việt
Nam. BTA khiến hàng hoá Việt Nam được hưởng quy chế Quan hệ thương mại
bình thường (NTR) trên thị trường Hoa Kỳ. Khả năng tiếp cận thị trường Hoa
Kỳ sẽ cho phép Việt Nam nhanh chóng tiếp tục quá trình chuyển đổi nền kinh tế

sang nền kinh tế dựa trên sản xuất với định hướng xuất khẩu. Nó cũng khiến đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam, không chỉ từ Hoa Kỳ mà còn từ Châu Âu, Châu Á,
và các vùng khác tăng thêm
Trước xu thế chủ đạo của thế giới là hợp tác để phát triển, Việt Nam đã
bước đầu hội nhập được nền kinh tế thế giới bằng việc gia nhập các tổ chức kinh
tế ở khu vực cũng như của thế giới. Đầu tiên là gia nhập ASEAN vào năm 1995,
chúng ta cũng đã gia nhập diến đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương
APEC và tiếp theo chúng ta gia nhập AFTA.Gần đây nhất la việc gia nhâp Tổ
chức Thương mại thế giới WTO...chính sự hợp tác hội nhập này là cơ sở cho
Việt nam phát triển nền kinh tế thị trường.Hiện nay hàng hoá Việt Nam đã có
mặt trên 120 nước trên thế giới với số lượng và chất lượng ngày càng cao. Cán
cân xuất nhập khẩu đã được điều chỉnh, kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng
tăng lên và quan trọng hơn là đã thu hút được khá lớn lượng vốn đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài , ra đời ngày càng nhiêù các công ty liên doanh và các khu công
nghiệp.
Một thành tựu quan trọng nữa là trong điều kiện nền KTTT trên thế giới
với sự cạnh tranh rất khốc liệt gây ra sự phân cực giàu nghèo mạnh mẽ với nhiều
cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, Đảng ta đã kịp thời rút kinh nghiệm và
đã có những đường lối chính sách định hướng cho nền kinh tế phát triển theo

19


định hưỡng xã hội chủ nghĩa.Chính và thế nền KTTT của ta chẳng những không
xảy ra khủng hoảng tiêu cực từ những cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước
trong khu vực và thế giới mà cụ thể là cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997.
Tất nhiên,chi mới sau 20 năm xây dựng va phát triển nền kinh tế thị
trường,nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế giới vẫn là một nền kinh tế
đang phát triển.Lực lượng sản xuất của ta hiện nay vẫn là sự đan xen nhiều trình
độ trong đó chiếm đại bộ phận là kỹ thuật và công nghệ cũ với gần 80% lực

lượng lao động xã hội hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp , hệ thống giao
thông vận tải, cơ sở vật chất còn yếu kém và chưa đồng bộ. Trong số gần 200
nghìn km đường bộ chỉ có 8,5% là đường rải nhựa, 6,5% đường đá còn 85% là
đường cấp phối và đường đất. Đường sắt có đến 80% là đường khổ hẹp , chất
lượng kém....
Với những thành tựu đã đạt được nền KTTT đã góp phần tích cực nâng
cao đời sống của nhân dân về vật chất cũng như tinh thần.
Bên cạnh những mặt tích cực của nền KTTT, còn có mặt tiêu cực của nó
đó là nạn tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác đang phát triển tràn
lan.Bên cạnh đó là sự ô nhiễm môi trường sinh thái , nạn phá rừng dẫn tới thiên
tai lũ lụt, can kiệt tài nguyên thiên nhiên. Cũng cần phải hiểu rằng đây không
phải là sự tác động một chiều mà chính những hậu quả này sẽ là những yếu tố
tác động lại nền KTTT định hướng XHCN, đến đời sống của con người.
Mục tiêu của nền KTTT định hướng XHCN đó là phát triển kinh tế để đạt
tới một xã hội giàu mạnh , dân chủ, công bằng, văn minh. Nếu như nền KTTT tự
do TBCN phục vụ lợi ích các nhà tư bản, xây dựng cơ sở kinh tế cho CNTB, bảo
vệ và phát triển CNTB thì KTTT định hướng XHCN lấy lợi ích và phục vụ toàn
dân làm mục tiêu. Phát triển KTTT để phát triển llsx, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho CNXH, nâng cao đời sỗng của nhân dân. KTTT bản thân nó là nội lực
tự thúc đẩy nền kinh tế xã hội. Đến lượt mình, chúng ta dùng cơ chế kinh tế đó
để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động , sáng tạo của người
lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây
dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, từng bước thực hiện lý
tưởng XHCN.
Theo bản chất KTTT định hướng XHCN, sản phẩm kinh tế không chỉ
mang giá trị kinh tế, chúng được biến thành các giá trị xã hội. Một mặt , các giá
trị đó trở lại tái sản xuất và taí phát triển nền kinh tế, mặt khác chúng hoà vào
các chương trình phúc lợi y tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, nâng cao chất lượng
cuộc sống...Lý tưởng XHCN là lý tưởng nhân đạo nhất vì nó vươn tới một XH
giàu có , văn minh, đồng thời con người được hạnh phúc.Mục tiêu KTTT định

hướng XHCN là vươn tới điều đó. Vì vậy trong chế độ XH của KTTT định
hướng XHCN, các giá trị vật chất được gắn kết với giá trị tinh thần.

20


C.KẾT LUẬN
Có thể khẳng định một điều rằng,nền kinh tế thị trường mà nhà nước và
đảng ta đang xây dựng và phát triển chính là một nền kinh tế thị trường đày tính
nhân văn,mang một giá trị cao cả. Nền kinh tế thị trường đang tạo ra một xã hội
phát triển hài hòa các mặt kinh tế, đạo đức, văn hoá đó là một xã hội đậm đà tình
người.Cho dù chưa đạt trình độ cao,nhưng nền KTTT định hướng XHCN KTTT nhân văn mà toàn Đảng, toàn dân ta đang xây dựng luôn hướng tới những
mục tiêu mang những giá trị nhân văn cao quý nhất , nó vượt lên trên bản chất
của các nền KTTT trong lịch sử. Phấn đâú từng bước đạt tới những mục tiêu của
nền KTTT nhân văn đó chính là từng bước chúng ta thực hiện lý tưởng nhân văn
của nhân loài. Và cũng chính vì vậy, công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
ta hôm nay hoà được vào dòng chảy chung của nhân loài, chúng ta được cả cộng
đồng tiến bộ trên thế giới hưởng ứng và ủng hộ.
Cho đến nay, nhân loại mới chỉ biết đến nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa như là nền kinh tế phát triển ở trình độ cao. Nhân loại chưa biết đến nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi vì ở nơi mà chủ nghĩa xã hội
hiện thực đã ra đời thì lại không phát triển thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; còn ở nơi phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thì chủ nghĩa xã hội chưa phát triển hoàn chỉnh.Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đây là một điểm đột phá lý luận, một mô hình thực tiễn đang trong quá
trình thử nghiệm, là sự phủ định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội tập trung,
quan liêu, bao cấp. Đương nhiên, đó không phải là nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa, tuy rằng nó có thể học hỏi nhiều điều từ nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa hiện đại. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản

chất kinh tế khác với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Bản chất đó được
quy định bởi các quan hệ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Có thể nói nền KTTT đã ra đời và phát triển qua nhiều giai đoạn và cho
đến bây giờ nó vẫn là kiểu kinh tế - xã hội tiến bộ nhất . Trải qua các giai đoạn
KTTT ngày càng được hoàn thiện và được áp dụng trên nhiều quốc gia.Nền
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam mặc dù mới ra đời cách đây gần 2 thập
kỷ nhưng cũng đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm không ngừng vận động và
đang biến đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn bên trong bản
thân nền KTTT, các yếu tố này vừa không ngừng có ảnh hưởng đến sự phát triển
của nền KTTT vừa chịu sự tác động của chính nền KTTT đó. Như thế trải qua
các giai đoạn lại hình thành nên những yếu tố mới khiến cho công công cuộc
xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam ngày càng phức
tạp, đòi hỏi phải có sự phân tích kỹ lưỡng, chi tiết và kịp thời từng yếu tố. Chính
vì vậy quan điểm lịch sử cụ thể luôn là quan điểm gắn liền với quá trình xây
dựng nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam.
21


Khi quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng và phát triển
nền KTTT định hướng XHCN, chúng ta sẽ phân tích kỹ lưỡng diễn biến nền
KTTT và yếu tố tác động nền KTTT sẽ giúp cho Đảng và nhà nước ta đưa ra và
thực hiện những giải pháp tốt nhất để phát triển nền kinh tế. Việt Nam sẽ có
thêm tự tin để bước vào thế kỷ 21 với những thách thức mới , cơ hội mới , nền
KTTT định hướng XHCN Việt Nam sẽ ngày càng phát triển ổn định và nhanh
chóng đuổi kịp trình độ của thế giới , trở thành một nước công nghiệp phát triển
trong tương lai không xa.
Do phạm vi kiến thưc của em còn hạn hep,nên bài làm của em chưa thực sự
tốt.Em mong thầy đọc và cho em ý kiến.Em xin cảm ơn.


22


Danh mục tài liệu tham khảo:
Đảng cộng sản Việt Nam với công cuội đổi mới đất nước- NXB
Quân đội nhân dân.
2.
Một số vấn đề kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước taNXB chính trị quốc gia.
3.
Những vấn đề lý luận đặt ra từ các văn kiện đại hội IX của ĐảngNXB chính trị quốc gia.
4.
Nguyễn Sinh Cúc “Kinh tế thị trường định hướng XHCN”-NXB
chính trị quốc gia.
5.
Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin- NXB chính trị quốc gia.
6.
Tổng quan quy hoạch phát triển kinh tế- xã hôi Việt Nam- NXB
chính trị quốc gia.
7.
Thông tin khoa học xã hội số 6 năm 1997.
8.
Tạp chí cộng sản điện tử
1.

23



×