Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Quan điểm triết học duy vật biện chứng về con người và vấn đề xây dựng con người trong sự nghiệp CNH và hđh ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.28 KB, 21 trang )

CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Quan điểm triết học duy vật biện chứng về con người và
vấn đề xây dựng con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam.
PHẦN MỞ ĐẦU
Lịch sử của khoa học nói chung, của triết học nói riêng là lịch sử nghiên
cứu về con người.
Con người là động vật cao cấp nhất, là tinh hoa của muôn loài Con người
là sản phẩm của quá trình hết sức lâu dài của tự nhiên, trong xã hội thì con
người là yếu tố chủ chốt, là nhân tố quan trọng không thể thay thế trong tiến
trình phát triển của lịch sử nhân loại của, lịch sử của loài người .
Chủ nghĩa Mác-Lenin cho rằng, con người vừa là thực thể tự nhiên, là là
thực thể xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh.
Con người là một thực thể “song phùng” tự nhiên và xã hội, là sự kết
hợp cái tự nhiên (sinh học) và cái xã hội. Hai yếu tố này gắn kết với nhau, đan
quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội và không có cái xã
hội tách rời cái tự nhiên.
Con người là sản phẩm tiến hóa, phát triển lâu dài của tự nhiên. Thế giới
tự nhiên luôn luôn vận động và phát triển, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiên
đến hoàn thiện mà đỉnh cao là con người.
Con nguời là thực thể sống, có quá trình chao đổi chất với môi trường
xung quanh, có tâm sinh lý, có những nhu cầu vật chất nhất định. Trước đây
C.mác đã từng khẳng định, trước khi hoạt động chính trị, văn học, nghệ thuật,
con người phải ăn, ở, đi lại. Mỗi cơ thể con người đều tuân theo quy luật của tự
nhiên như: sinh ra, tồn tại, phát triển, trưởng thành, già nua và chết đi. Tuy
1


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688


nhiên những nhu cầu sinh học của con người đã mang tính xã hội, do vậy,
C.Mác quan niệm con người là một thực thể tự nhiên đặc biệt, một thực thể tự
nhiên đã nhân loại hóa.
Con người trong quá trình tồn tại không chỉ tác động vào tự nhiên, làm
biến đổi tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên bản chất người.
Con người không thể tồn tại được khi tách rời xã hội. Xã hội càng phát
triển, con nguời còn người càng hòa vào cộng đồng xã hội, mối quan hệ giữa
con người ngày càng bền chặt hơn, con người được mở rộng mối quan hệ với
xã hội. Một khi quan hệ con người được mở rộng thì con người lại nhận thức về
mình rõ hơn và sự hiểu biết tăng lên, vai trò của con người trong xã hội càng
tăng lên.
Như vậy con người có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các tư tưởng
triết học, nó chiếm m ột phần không thể thiếu trong hệ thống triết học duy vật
biện chứng Mác-Lenin. Nghiên cứu về con người là một vấn đề vô cùng quan
trọng và bức thiết.
Nghiên cứu con người trong thời đại ngày nay có ý nghĩa hết sức to lớn
nhất là trong thời kỳ đổi mới cụ thể là sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá
của thế giới nói chung và nước ta nói riêng.
Việt Nam là một nước đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nhiệm vụ
quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ này là phải xây dựng cơ sở vật chất
và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó công nghiệp và nông nghiệp hiện đại,
có văn hóa và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan
trọng nói trên, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, tức là chuyển nền kinh
nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp.
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vĩ đại và đã
có rất nhiều nước đã trở thành những nước công nghiệp lớn, vì vậy chúng ta cần
tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
2



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

hiện đại hóa vì con người là nhân tố quyết định trong mọi hoạt động của xã hội,
là chủ thể của nền sản xuất, Nghiên cứu con người đó là phương thức duy nhất
để phát triển kinh tế.
Việt Nam là một trong số các quốc gia nghèo nhất trên thế giới, nền kinh
tế vẫn còn ở tình trạng lạc hậu, làm ăn tản mạn, tùy tiện của sản xuất nhỏ, sản
suất còn mang tính tự cung tự cấp, đời sông nhân dân còn nhiều khó khăn. Tổng
sản phẩm quốc dân tính theo đầu người thuộc loại thấp nhất thế giới, tốc độ
tăng bình quân chậm hơn nhiều nước trong khu vực. Vì vậy muốn không bị tụt
hậu xa hơn nữa, muốn ổn định mọi mặt và phát triển thì tất yếu phải thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tại hội nghị lần thứ VI ban chấp hành
TW Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa VII đã xác định nước ta “…Chuyển dần
sang một thời kỳ phát triển mới, đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới.”
Chủ trương này có tiếp tục được hoàn thiện và có bước phát triển mới ở các Đại
hội VII, VIII,IX và trong nhiều nghị quyết quan trọng của TW.
Theo Mác thì con người có vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất và
tổ chức xã hội, không có gì thay thế được con người trong tiến trình phát triển
của lịch sử nhân loại, của xã hội loài người. Bản thân sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang từng bước thực hiện với những thành công
bước đầu của nó cũng ngày càng đòi hỏi mỗi chúng ta phải nhận thức sâu sắc
“Những giá trị lớn lao, và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người” phải thấy
rõ vai trò của con người trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội.

3



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN VỀ
VẤN ĐỂ CON NGƯỜI
1. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người.
1.2. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã
hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của
thế giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh
học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con ngườI là điều kiện đầu tiên quy định sự
tồn tại của con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ thể của con
người”. Con người là bộ phận của giới tự nhiên. Con người là tinh hoa của
muôn loài, là sản phẩm của quá trình lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người
phải tìm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như thức
ăn, nước uống, hang động để ở. Đó là quá trình con người đấu tranh với tự
nhiên, thú dữ để sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm con người đã thay đổi
từu vượn thành người, điều đó đã được chứng minh trong các công trình nghiên
cứu của Đácuyn. Các gia đọan mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh
thành, phát triên đến mất đi quy định bản chất sinh học trong đời sống con
người. Như vậy con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong
những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ
của nó đối với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình
tâm sinh lý các giai đoạn phát triển giống nhau nói lên bản chất sinh học của cá
nhân con người. Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy
định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với
4



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

thế giới loài vật là mặt xã hội. Trong kịch sử đã có hững quan niệm khác nhau
phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao
động, là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con người là động vật có tư duy …
Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh
nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc
của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác đã nhận thức vấn đề
con người một cách toàn diện, cụ thể trong toàn bộ tính hiện thực của nó, mà
trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất con người đã làm thay đổi, cải
biến tự nhiên: “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản
xuất toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã hội của con người biểu hiện trong sản xuất
vật chất; hoạt động vật chất tự biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con
người. Thông qua hoạt động lao động sản xuẩt, con người sản xuất ra của cải
vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành phát triển ngôn
ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định
hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá
nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau,
nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự
phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự chao đổi chất, về di chuền, biến
dị tiến hóa …quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy
luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người
như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã
hội quy định quan hệ giữa người với người.


5


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối
quan hệ sinh học và xã hội trong đời sống con nggười như nhu cầu ăn, mặc, ở ;
nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ
các giá trị tinh thần.
Như vậy với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng
quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu
xã hội trong mỗi con ngườI là thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để tạo
thành con người viết hoa, con người tự nhiên xã hội.
1.2. Bản chất con người là sự tổng hòa những quan hệ xã hội.
C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng Luân cương về Phoiơbắc: “bản chất
con người không phải là một cái trìu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ
xã hội.”
Luận đề khẳng định rằng, không có con người trìu tượng, thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh kịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống
trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều
kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá
trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ
trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời
đại; quan hệ chính trị, kinh tế ; quan hệ cá nhân, gia đình xã hội …) con người
mới bộc lộ bản chất của mình.
1.2. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của

thế giới hữu sinh. Song điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ
thể của lịch sử - xã hội.
6


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Con người có hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên,cải biến tự
nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới
loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại,
thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự
nhiên, tái tạo lai một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên con người cũng làm ra lịch sử của
mình. Con người là sản phẩm của tự nhiên, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch
sử của chính bản thân con người. Hoat động lao động sản xuất vừa là vừa là
điều kiện cho sự tồn tại con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống
và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của kịch sử xã hội, con người
thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến
cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người dặt ra. Không có hoạt động
của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn
tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
* Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ
đại đến hiện đại. Triết học Mác – Lênin đã giải quyết những nội dung liên quan
đến con người.Con người có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với thế giới, và
trong thực tế hiện nay thì con người là một lực lượng chủ đạo trong nền sản
xuất xã hội. Trong công cuộc đổi mới xã hội chỉ có con người – yếu tố quan
trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội mớI là nhân tố chính, là nguồn
lực mang tính quyết định sự thành công hay thất bại. Nhưng con người cũng là
mục tiêu, là cái đích của sự phát triển, đổi mới này.
Với thực trạng nước ta hiện nay là nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu thì

biện pháp duy nhât để thoat khỏi tình trạng đó kà nhất thiết phải tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nó vì lợi ích của con người và có thành công
hay không là phụ thuộc vào con người.
7


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

CHƯƠNG II
CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở VIỆT NAM
2.1. Thế nào là công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.1.1. Khái niệm công nhiệp hóa.
Khái niệm đơn giản: Là đưa tính công nghiệp cho một hoạt động, trang
bị cho (một vùng, một nước), các nhà máy, các loại công ngiệp …Khái niệm
này được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình hình thành lịch sử công
nghiệp hóa ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ.
Theo các nhà kinh tế Liên Xô thì công nghiệp hóa là phát triển đại công
nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng, sự phát triển ấy cần thiết cho việc cải tạo
toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật tiên tiến.
Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc đã đưa ra
định nghĩa: Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình
này, một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên
để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều nghành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại.
2.1.2. Khái niệm công nghiệp hóa hiện, đại hóa
Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
gắn liền với đổi mới công nghệ xây dựng cơ cấu vật chất - kỹ thuật, là quá trình
chuyển nền sản xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp sang trình độ công nghệ
cao hơn, nhờ đó mà tạo ra sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả của toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.

Khái niệm này rất phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay. Nước ta là
một nước nông nghiệp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp.Nền
8


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

công nghiệp của nước ta còn yếu kém và lạc hậu, vì vậy thực hiện
công nghiệp hóa hiện đại hóa là một bước đi vô cùng đúng đắn.
2.2. Nhân tố con người là nhân tố quyết định trong công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
2.2.1. Tầm quan trọng của con người.
Để thực hiện được công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cần có môi trường
ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết như: nguồn lực con người, vốn tài
nguên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý …Trong đó thì con
người là nhân tố quyết định.
Các nước lạc hậu đi sau như (nước ta hiện nay) không thể phát triển
nhanh chóng nếu không tiếp thu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại của
các nước phát triển. Nhưng không phải chuyển giao công nghệ bằng mọi cách
mà không cần đến yếu tố con người. Công nghệ đó được phát huy tác dụng, hay
bị phá hoại điều đó phụ thuộc vào con người. Con người là yếu tố chủ lực bởi
vì:
Thứ nhất, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lý nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chung chỉ phát huy tác dụng khi có sự tác
động của con người, con người là nguồn lực duy nhất có trí tuệ, có ý trí, và biết
gắn kết các nguồn lực khác lại với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp,
cùng tác động vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, trong khi đó nguồn lực con
người là vô hạn. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà con tự
đổi mới không ngừng.

Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được
vật thể hóa, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.Thực tế đã chứng minh trí tuệ
con người chúng ta hiện nay đã đạt tới mức siêu đẳng, đã xản xuất ra người
9


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

máy “bắt trước” hay “phỏng theo’’ những đặc tính trí tuệ của con người. Như
vậy bằng những công nghệ kỹ thuật hiện đại do chính bàn tay khối óc con
người làm ra, mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ
trong lịch sử phát triển của mình.
Thứ tư, sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc chủ
yếu vào hoạch định đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là
phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Khi
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì mặt chất lượng, cơ cấu và cơ chế sử
dụng nguồn nhân lực rất quan trọng.
Tóm lại, nguồn nhân lực con người là nguồn lực có vai trò quyết định sự
thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy muốn có công
nghiệp hóa hiện đại hóa thành công thì phải đầu tư vào con người, đây là nhiệm
vụ quan trọng nhất và khó khăn nhất trong công cuộc đổi mới hiện nay, với
nước ta thì đây là một nhiệm vụ nặng nề và cấp bách trong công cuộc thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.2.2. Con người Việt nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Chúng ta đã thấy rõ vai trò của con người rất quan trọng trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Với Việt Nam thì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa có thành công hay không sẽ phụ thuộc phần lớn vào yếu tố con
người, nhưng người Việt Nam liệu có làm được điều đó không? Ta cần nghiên
cứu những thế mạnh và những hạn chế của nhân tố con người từ đó xem những

điểm nào cần phát huy và những điểm nào cần khắc phục.
Trước hết con người Việt Nam có những thế mạnh:
Thứ nhất, theo thống kê năm 2001 cả nước ta có 39.489 nghìn người từ
15 tuổi trở lên đang có việc làm ổn định,khu vực thành thị có 9.182 nghìn

10


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

người, khu vực nông thôn có 30.307 nghìn người. Như vậy tỷ lệ có việc làm là
97,24%, tỷ lệ thất nghiệp là 2,76% .
Thứ hai, Việt Nam có tỷ trọng tương đối cao về lao động trẻ, phần lớn có
học vấn phổ thông kể cả ở nông thôn. Đây là yếu tố quan trọng trong việc tiếp
thu kỹ năng nghề nghiệp. So với các nước có thu nhập như nước ta thì lực
lượng lao động của nước ta có trình độ cao. Tính đến năm 2001 lực lượng lao
động có chuyên môn kỹ thuật lên tới 22,2% có khoảng gần một triệu người tốt
nghiệp Đại học, Cao đẳng và 120.000 người có bằng thạc sỹ và tiến sỹ .
Thứ ba, chúng ta có một lượng lớn Việt kiều làm ăn sinh sống ở nước
ngoài và phần lớn họ có trình độ cao về chuyên môn nghiệp vụ cao. Đây là
nguồn lực quan trọng giúp phát triển đất nước, là cầu nối giữa Việt Nam với
nước ngoài về mặt chuyển giao tri thức, công nghệ và các quan hệ quốc tế.
Thứ tư, đó là bản tính hiếu học, thông minh cần cù lao động của con
người Việt Nam. Truyền thông đó cần được duy trì để làm cơ sở cho việc nắm
bắt, tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng, sáng tạo những phát minh,
sáng kiến khoa học của nhân loại phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất
nước. Tính cộg đồng, ý thức trách nhiệm với cộng đồng được phát huy mạnh
mẽ sẽ hỗ trợ đắc lực không chỉ cho việc chuyền bá tay nghề, kinh nghiệm nghề
nghiệp mà còn có thể giúp nhau về vốn, tạo dựng và phát triển cơ nghiệp, hỗ trợ
nhau tìm kiếm việc làm, góp phần làm giảm sức ép lao động hiện nay. Dân tộc

Việt Nam còn có truyền thống biết chịu đựng gian khổ để tiết kiệm, tích lũy cho
đầu tư mở rộng, tạo dựng cơ đồ cho mình và cho nền kinh tế nước nhà nói
chung.
Bên cạnh những thế mạnh đó thi nguồn nhân lực Việt Nam còn có những
mặt yếu kém sau:
Thứ nhất, số người lao động được đào tạo quá ít chỉ chiếm 20% tổng số
lao động, 77,71% sản xuất nông nghiệp có nghĩa là tỷ lệ qua đào tạo là rất hạn
11


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

chế, hiện nay nước ta số lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ là 51,74% (có
học vấn từ tiểu học trở xuống). Đây là trở ngại lớn nhất trong công nghiệp hóa
nông nghiệp trong kinh tế nông thôn nói riêng và trong cả nền kinh tế Việt Nam
nói chung.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ còn quá ít. Điều tra ở 17 trường đại
học cho thấy số cán bộ giang dạy dưới 35 tuổi chỉ có 8%. Phần lớn những tri
thức có trình độ trên đại học đã ở độ tuổi từ 55 đến 60 tuổi. Có hơn 60% phó
tiến sĩ va tiến sĩ, hơn 70% giá sư và hơn 90% giáo sư đều ở độ tuổi này, trong
khi đó phần lớn các sinh viên giỏi ra trường không muốn ở lại trường giảng dạy
vì thế mà việc chuẩn bị cho đội ngũ trí thức kế cận gặp rất nhiều khó khăn
Thứ ba, việc sử dụng cán bộ còn nhiều bất hợp lý giữa các vùng, các
nghành cụ thể là 80% cán bộ khoa học công nghệ làm việc tại Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh. Đa số các cán bộ này nghiên cứu trong các viện, các trường
học, còn tham ra vào các nghành sản xuất vật chất thì ít ,ví dụ như trong nghành
lâm ngư nghiệp chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học còn sau đại học là 6,49%
.Trong khi đó các nước trong khu vực như Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản thì tỷ
lệ đó chiếm tỷ lệ cao. Việc phân bố lao động không hợp lý dẫn tới việc nơi thì
có việc làm, nơi thì lại thiếu. Qua điều tra thì tỷ lệ sinh viên có việc là 70% tức

là còn 30% không có việc, trong khi đó nhiều vùng, nhiều miền nhất là miền
núi lại không có cán bộ khoa học kỹ thuật. Vì thế việc sử dụng, phân bố nguời
lao động có vai trò rất quan trọng.
Thứ tư, Nguời lao động nước ta chưa có tác phong công nghiệp, quen với
sản xuất nhỏ, lao động còn đơn giản còn giữ phong tục nghề nghiệp “cha truyền
con nối”. Mặt khác thể chất và sức khỏe của người Việt Nam còn nhiều hạn chế
vì thế mà khi lao động còn gặp nhiều khó khăn.
Trên đây là những thế mạnh và yếu kém của nguồn lực Việt Nam. Với
nhưng thế mạnh thì tiếp tục phát huy còn những hạn chế thì cần có biện pháp
12


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

khắc phục. Phải có cuộc “cách mạng con người”, tức là cách mạng về người
lao động, phải phát huy tối đa yếu tố con người, chỉ có như vậy thì Việt Nam
mới vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.3. Phát huy yếu tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Phát huy nguồn lực con người là quá trình đào tạo, bồi dưỡng làm tằng
nguồn lực con người về thể lực, trí lực, phẩm chẩt đạo đức, v.v…, là quá trình
khai thác có hiệu quả những yếu tố đó trong lao động, học tập, chiến đấu nhằm
phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc.
Xã hội loài người chỉ được phát triển khi phát triển tối đa từng cá nhân.
Vấn đề phát triển cá nhân không còn là vấn đề lý thuyết mà là nhu cầu thiết yếu
trong thực tiễn xã hội ta ngay từ hôm nay. Cụ thể để công nghiệp hóa, hiện đại
hóa cần phải tiến hành một cuộc “cách mạng con người” nhằm tạo ra một số
lượng lớn các nhà khoa học, đội ngũ đông đảo các nhân viên kỹ thuật có trình
độ tri thức tương đối cao và những người lao động lành nghề. Điều đó đòi hỏi
sự nghiệp giá dục bồi dưỡng nhân tài phải phát triển tương ứng.

Phát triển nguồn nhân lực có mối quan hệ chặt chẽ với đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển
nguồn nhân lực trong điều kiện cách mạng khoc học và công nghệ có những
biến đổi nhanh chóng như ngày nay được coi là những phương thức cơ bản,
quan trọng nhất để cải biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội
công nghiệp văn minh. Hai quá trình nay không tách rời, biệt lập nhau, trái lại
chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động biện chứng. Kết quả là sự cộng hưởng
giữa chúng tạo nên quá trình phát triển liên tục của xã hội.
Với nước ta vấn đề phát triển nguồn nhân lực đã được nhà nước quan
tâm và chú trọng. Nhà nước đã có những chính sách, biện pháp kịp thời, khá
hợp lý tuy không tránh khỏi những hạn chế do điều kiện kinh tế hạn hẹp.
13


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

2.3.1. Những thành tựu đã đạt được.
Trải qua mười lăm năm đổi mới, sự nghiệp giá dục - đào tạo nước ta có
bước phát triển về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo cơ sở vật chất. Trình
độ đân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên đáng kể. Theo báo cáo
phát triển con người năm 2004 do UNPD công bố ngày 26/7/2004 tại Hà Nội,
chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tiếp tục được cải thiện từ 0,686
năm 2003 lên 0,691 năm 2004. Với chỉ số trên, Việt Nam duy trì vị trí xếp hạng
về phát triển con người ở mức trung bình là 112 trong tổng số 177 nước được
xếp hạng. kể từ năm 1985 đến nay, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã
tăng lên đáng kể, từ 0,583 năm 1985 lên 0,691 trong thời gian gần đây, điều đó
phản ánh những thành tựu đạt được trong các lĩnh vực phát triển con người.
Quy mô giáo dục - đào tạo được nâng tiếp tục mở rộng ở tất cả các bậc
học, nghành học, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn của nhân dân. Hiện
nay gần 94% dân cư từ 15 tuổi trở lên biết chữ, tất cả các tỉnh, thành phố trong

cả nước đều đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Một số tỉnh
thành phố dã và đang tiến tới đạt phổ cập trung học. Năm học 2000 - 2001 cả
nước có 17.866.673 học sinh phổ thông, số sinh viên trên vạn dân đạt 118
người. Đã đào tạo được một lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật khoảng
8 triệu người, chiếm 18,3% trong tổng số 43,8 triệu lao động cả nước.
Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của học sinh, sinh viên
ngày càng được nâng cao. Số học sinh đạt giải quốc gia và quốc tế của một số
môn học ngày càng tăng, khẳng định tiềm năng trí tuệ của nước ta.
Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường được nâng cấp, cải thiện. Số trường
lớp được xây mới ngày càng nhiều. Các trương phổ thông có hầu hết ở các địa
bàn dân cư tạo điều kiện thuận lợi cho người học. mạng lưới các trường đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp từng bước sắp xếp lại. Hệ thống các cơ sở
14


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

đào tạo nghề phát triển rộng khắp. Giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số có
những chyển biến tích cực, đã có trên 1000 trường dân tộc nội trú.
Ngoài lĩnh vực giáo dục ra thì việc chăm sóc sức khỏe cho các tầng lớp
nhân dân cũng đã được quan tâm. Y tế phát triển, có nhiều cơ sở khám chữa
bệnh kể cả ở vùng sâu, vùng xa. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng
lên so với trước đây.
Nhìn chung, trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã chăm lo tới
việc bồi dưỡng nguồn nhân lực của đất nước cả sức khỏe, tri thức, năng lực,
phẩm chất đạo đức; tạo điều kiện cho mỗi người phát huy được khả năng của
mình đóng góp co sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2.3.2. Những mặt yếu kém trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người.
Chất lượng giáo dục đào tạo đại trà ở các cấp bậc học còn thấp. Đa số
học sinh, sinh viên quen với cách học thụ động thiếu năng lực tư duy độc lập,

sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng vào sản xuất và đời sống. Một số học
sinh, sinh viên ít quan tâm đến việc rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức lối
sống. Thể lực đa số học sinh, sinh viên còn yếu. Các điều kiện cơ bản đẻ đảm
bảo chất lượng còn bất cập như đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng, cơ cấu
không đồng bộ và chất lượng thập, phương pháp giáo dục lạc hậu, phương tiện
giảng dạy còn thiếu thốn.
Hiệu quả hoạt động giáo dục thấp. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cuối cấp so
với nhập học còn thấp, nhất là vùng núi vùng sâu vùng xa. Tỷ lệ lao động qua
đào tạo còn thấp làm cho khả năng tiếp thu kỹ thuật công nghệ mới gặp nhiều
khó khăn. Chưa có những giải pháp hữu hiệu trong việc đào tạo nhân lực để
tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế để phát triển nông thôn, phục vụ sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế lao động. Đào tạo đại học và giáo dục nghề nghiệp
chưa phù hợp với nhu cầu về lao động của xã hội, có nhiều người tốt nghiệp
15


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

không làm đúng ngành nghề, thiếu tự giác, trung thực trong lao động, thiếu
trách nhiệm không tôn trọng quy trình kỹ thuật tham ô lãng phí nguyên vật
liệu…
Cơ cấu đào tạo nhân lực về trình độ, ngành nghề và vùng miền chưa hợp
lý. Phần lớn học sinh phổ thông chỉ chọn một con đường lên đại học, việc học
nghề ở các trình độ khác còn hạn chế. Việc quy mô tăng đào tạo đại học chưa
được định hướng vào nhu cầu xã hội. Phân bố học sinh, sinh viên theo ngành
nghề, theo vùng miền chưa phù hợp với nhu cầu kinh tế xã hội của cả nước và
của địa phương, gây nên tinh trạng nơi thừa nơi thiếu. Khoảng cách về trình độ
phát triển giáo dục đào tạo giữa các vùng trong nước chưa được thu hẹp.
Như vậy có thể nói giáo dục và đào tạo ở Việt Nam đang đứng trước
những thách thức lớn lao, trước yêu cầu đổi mới kinh tế xã hội, trước yêu cầu

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước sức ép về nguy cơ tụt hậu so với
các nước trong khu vực. Trong những năm tới, giáo dục Việt Nam phải thực
hiện dược các mục tiêu cơ bản là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bbồi
dưỡng nhân tài theo hương khắc phục những hạn chế trong thời gian qua, trên
cơ sở của bản thân và sự giúp đỡ của các nước phát triển.Muốn vậy nhà nước ta
phải có những chính sách và biện pháp phù hợp.
2.3.3. Những chính sách và biện pháp của nhà nước ta.
Tăng ngân sách giáo dục vá đào tạo, sử dụng ngân sách đó một cách có
hệu quả. Đồng thời, nhà nước phải chăm lo đời sống của đội ngũ giáo viên, cải
thiện chế độ tiền lương, tăng phụ cấp cho giáo viên để giáo viên có thể nâng cao
vị trí xã hội của mình.
Chú ý đào tạo tập trung vào các nghành kỹ thuật, công nghệ nhiều hơn
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.

16


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Nâng cao chất lượng các bậc tiểu học, làm tiền đề vững chắc cho chất
lượng của các cấp học tiếp theo.
Những yếu tố trên mới chỉ đề cập đến vấn đề phát triển giáo dục và đào
tạo, là yếu tố quan trọng để con người Việt Nam thực hiện vai trò của mình.
Nhưng song song với nó nhà nước còn phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, căn cứ vào yêu cầu phát triển cảu cá nghành và các vùng lãnh
thổ, cần tổ chức bố trí lại lực lượng lao động một cách hợp lý trên phạm vi cả
nước theo hướng đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra những
nghành kinh tế mũi nhọn.
Thứ hai, trả lương đúng cho người lao động, trong đó chú ý đến đội ngũ
cá bộ khoa học. Bản thân tiền lương không đơn giản là việc trả công mà còn tái

sản xuất ra sức lao động (nhiều hay ít), kích thích những phẩm chất (tích cực
hay tiêu cực) của người lao động.
Thứ ba, tiến hành bồi dưỡng đào tạo lại lực lượng lao động hiện có và
đào taọ lực lượng nới theo chuên nghành nhất định. Trong đó đảm bảo sự cân
đối và đồng bộ giữa lao động phổ thông, lao động kỹ thuật và lao động khoa
học.
Thứ tư, bồi dưỡng thường xuyên đối với người lao động về mặt chính chị
- tư tưởng, lợi ích, ý thức pháp luật, trách nhiệm công dân, truyền thống. Trong
thực tế hiện nay nếu chỉ quan tâm đến lợi ích vật chất mà không thực hiện công
tác giáo dục thì sẽ dẫn đến sai lầm, là hư hỏng con người, thậm chí cả một thế
hệ người. C.Mác dã từng nói:''trong phát triển kinh tế phải gắn sự nghiệp giải
phóng con người với cuộc đấu tranh chống lại biểu hiện thực tiễn cực đoan của
sự tha hoá con người". Mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động tới từng
cá nhân, từng gia đình va mỗi tập thể chúng ta. Có những kẻ giàu có nưng vẫn
tham ô,buôn lậu ...Còn có những kẻ nghèo nhưng lại không chịu lao đọng chân

17


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

chính, và có những kẻ không chịu học hành, lao động chỉ lo ăn chơi và từ đó trở
thành tội phạm.
Thứ năm, phải nâng cao thể lực thanh niên,tức là phải nâng cao dần mức
sống của nhân dân về cả vật chất lẫn tinh thần. Trước mắt, cần tập trung đầu tư
nâng cao chất lượng của chương trình giáo dục thể chất và y tế học đường, đẩy
mạnh phong trào rèn luyện thân thể cho thanh niên tạo thể lực vững vàng để
học tập và lao động.
Thực hiện được những nhiệm vụ trên có nghĩa là nhà nước ta đã cơ bản
hoàn thành cuộc "cách mạng con người'', con ngươi Việt Nam sẽ vững vàng

trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

18


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

PHẦN KẾT THÚC
Con người có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các tư tưởng triết học, nó
chiếm một phần không thể thiếu trong hệ thống triết học duy vật biện chứng
Mác-Lenin. Con người là sản phẩm của quá trình hết sức lâu dài của tự nhiên,
là yếu tố chủ chốt của xã hội, là nhân tố quan trọng không thể thay thế trong
tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, của lịch sử của loài người. Thế giới tự
nhiên luôn luôn vận động và phát triển, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện mà đỉnh cao là con người. Vì thế mà hầu hết các tư tưởng triết học
đều tập trung nghiên cứu về con người. Mỗi trường phái triết học đều đưa ra
những quan niệm khác nhau về con người, giúp ta hiểu rõ hơn về qua trình hình
thành và phát triển của con người.
Trong thời đại hiện nay chúng ta cần có một cách nhìn đúng đắn về con
người, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu thế phát triển chung của tất cả các quốc gia trên
thế giới. Đó cũng là con đường tất yếu để nước ta đi tới mục tiêu :''dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh", mà chủ thể của quá trình này chính là
con người, vì thế mà đòi hỏi có nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất
lượng. Nói cách khác, nguồn nhân lực phải trở thành động lực của sự phát triển.
Việt Nam có thể rút ngắn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đạt tốc
độ tăng trưởng cao khi có sự đầu tư và phát triển mạnh nguồn nhân lực. Sự đầu
tư ấy được hiểu cả ba mặt đó là: chăm sóc sức khoẻ, nâng cao mức sống và phat
triển giáo dục, trong đó phát triển giáo dục là có hiệu quả nhất.
Tư tưởng C.Mác về sự phát triển vì con người, vì sự nghiệp giải phóng

của con người, giải phóng nhân loại, chúng ta có thể khẳng định rằng sựnghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên thế giới nói chung và đặc biệt là ở nước ta
hiện nay chính là cuộc cánh mạng "để sản xuất ra những con người toàn diện''
cần có một nền kinh tế phát triển, một nền văn hoá mới, một nền khoa học kỹ
19


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

thuật hiện đại, một nền giáo dục tiên tiến. Tạo ra những thành tựu kinh tế xã hội
không chỉ là phương pháp để tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là phương
pháp duy nhất để tạo ra những con người toàn diện. Như vậy công nghiệp hoá,
hiện đại hoá phải vì mục tiêu phát triển con người.
Tóm lại, để đất nước bước sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta phải lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền
vững, phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển
văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

20


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin
2.Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin
3.Giáo trình CNXHKH khoa học
4.Tạp chí cộng sản số 1(1/1994)
5.Tạp chí cộng sản số 1(3/1993)

6.Tạp chí cộng sản số 1(2/1996)
7.Tạp chí cộng sản số 5(10/1996)
8.Tạp chí cộng sản số 1(2/1997)
9. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước khu vực(Phạm
Khiêm Ích, Nguễn Đình Phan).
10. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam đầu năm 2000(Võ Đại Lược)
11. Vấn đề con người, cá nhân, xã hội trong học thuyết của Mác(Trần Hữu
Tiến)
12. Chỉ số con người năm 2004 (Bộ kế hoạch và đầu tư)

21



×