Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Vấn đề nhân cách con người trong cơ chế thị trường định hướng XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.13 KB, 23 trang )

CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

A. Giới thiệu đề tài
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ
thấp đến cao, ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế - xã hội phù
hợp với nó. Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống chịu sự tác động của
qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và
các quy luật xã hội khác. C.Mác đã viết :”sự phát triển của những hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, để phát triển nền
kinh tế Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường đã tác động đến mọi mặt đời
sống xã hội. Điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý, suy nghĩ, lối
sống của người dân. Con người năng động nhiều hơn là ỷ lại, chủ động
nhiều hơn chờ đợi, trách nhiệm cá thể lớn hơn trách nhiệm làm chủ tập thể,
thách thức, cạnh tranh, đòi hỏi hơn là yên phận, chờ đợi sự ban phát. Từ đó
nảy sinh nhiều vấn đề, đó là con người kinh tế và con người đạo đức, lợi
ích cá nhân và lợi ích tập thể… Trong cơ chế thị trường con người cũng bị
tha hóa, đây là nguy cơ, nguồn gốc sản sinh ra tụt hậu kinh tế, tệ nạn xã
hội, diễn biến hoà bình …Bởi vậy, cần phải tìm ra nguyên nhân và biện
pháp để khắc phục các hiện tượng đó.
Là một con người lớn lên khi đất nước đang xây dựng nền kinh tế thị
trường và hơn thế nữa còn là một sinh viên kinh tế, em rất quan tâm đến
các vấn đề kinh tế - xã hội hiện nay của đất nước ta. Trong quá trình học
tập và nghiên cứu em đã nhận thấy rằng con người là yếu tố quyết định tới
sự phát triển của nền kinh tế, do đó việc tìm hiểu về nhân cách con người là
rất quan trọng. Bởi vậy, em đã chọn đề tài:
“Vấn đề nhân cách con người trong cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”.



1


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

B. Nội dung chính
I. Cơ sở của quá trình nghiên cứu

1.Cơ sở lí luận
Trong quá trình nghiên cứu, cơ sở chủ yếu là phép biện chứng duy
vật Mác – Lênin. Bên cạnh đó còn có sự vận dụng lí luận của MácĂngghen về kinh tế thị trường, hình thái kinh tế - xã hội, con người, nhân
cách con người và qui luật phủ định của phủ định.
Phép biện chứng duy vật Mác – Lênin : là học thuyết về mối liên hệ
phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
Qui luật phủ định của phủ định : những nhân tố mới xuất hiện sẽ
thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra - sự vật đó
không còn nữa mà bị thay thế bởi sự vật mới trong đó có những nhân tố
tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới
khác.
2. Cơ sở thực tế
Để nghiên cứu về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và nhân cách con người, em đã tìm hiểu qua một số sách báo, tạp chí và
văn kiện đại hội Đảng. Bên cạnh đó, em còn tìm hiểu thông tin qua đài, tivi
và các trang web.
II. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

1. Nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, cả nước cùng quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện cả trong và ngoài nước đang có những mặt

diễn biến không thuận lợi. Ở nước ta bắt đầu xuất hiện cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội sâu sắc vào cuối những năm 70 đầu những năm 80. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá tình
hình đất nước từ năm 1976 đến năm 1980 là thời kì nền kinh tế ở trạng thái
trì trệ. Sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh. Một phần tiêu
dùng của xã hội phải dựa vào vay và viện trợ, nền kinh tế chưa tạo được
tích luỹ. Chênh lệch giữa thu và chi, xuất khẩu và nhập khẩu ngày càng
lớn. Lực lượng sản xuất kém phát triển, cơ sở vật chất xã hội nghèo nàn,
lạc hậu. Lương thực, vải mặc, các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu và vẫn
2


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

áp dụng phân phối kiểu tem phiếu. Thị trường và vật giá không ổn định.
Việc cung ứng vật tư, giao thông vận tải gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều xí
nghiệp phải sử dụng công suất ở mức thấp thậm chí không có khả năng duy
trì hoạt động dẫn tới tình trạng công nhân thất nghiệp. Đất nước khi đó có
tới 90% làm nông nghiệp, 95% dân cư mù chữ và số người lao động chưa
được sử dụng còn đông. Những vấn đề đó đều ảnh hưởng rất lớn tới đời
sống nhân dân, dẫn tới mức sống của người dân thấp, cuộc sống gặp nhiều
khó khăn.
Tình hình trì trệ đó có nguyên nhân khách quan là nền kinh tế phải
gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề của hai cuộc chiến tranh chống
Pháp và chống Mỹ. Trong thời kì chiến tranh, mọi nguồn lực của tổ quốc
đều tập trung vào mục tiêu đánh thắng kẻ địch, kinh tế không được chú
trọng phát triển đã trở nên nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển. Đồng thời,
chúng ta còn bị thiệt hại to lớn về con người, cơ sở vật chất – kĩ thuật và
qua trình khắc phục còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, tình hình thế giới đã
có nhiều biến đổi, nguồn viện trợ từ bên ngoài giảm so với thời kỳ chiến

tranh.
Nhưng nguyên nhân chủ yếu làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn
về kinh tế - xã hội là cơ chế kinh tế không phù hợp qui luật kinh tế khách
quan. Lực lượng sản xuất lạc hậu không đủ điều kiện tác động đến quan hệ
sản xuất lỗi thời để phá vỡ nó, hình thành quan hệ mới. Cơ chế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu bao cấp xóa bỏ một cách khô cứng mọi sự tư hữu,
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là do chúng ta đã nhận
thức chưa đúng quan điểm của Lênin, Hồ Chí Minh về nền kinh tế hàng
hóa,dẫn tới những sai lầm trong quá trình vận dụng ở nước ta.
2.

Nền kinh tế thị trường – Tất yếu khách quan

a) Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường nói chung là một hình thức xã hội của các tổ chức và
hoạt động kinh tế, trong đó các mối quan hệ giữa con người với con người
được biểu hiện thông qua việc mua bán trao đổi bằng tiền, quá trình đó chủ
yếu là do thị trường điều tiết.

3


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Nói cách khác, kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh
tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất
đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường không
đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển.
b) Tình tất yếu khách quan
Từ việc phân tích thực trạng của nền kinh tế, Đảng ta đã đề ra chủ

trương : “quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình
chuyển hoá nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh
tế hàng hoá … Việc sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền
tệ trong kế hoạch kinh tế quốc dân là một yếu tố khách quan … Việc sử
dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường”.
Sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là có cơ sở khách
quan.
Thứ nhất, phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều rộng và
chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng
ngày càng phát triển, điều đó được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và
chất lượng ngày càng cao của sản phẩm trao đổi trên thị trường.
Thứ hai, trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu. Đó
là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Trong
đó sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản
tư nhân. Tương ứng với mỗi loại hình sở hữu là một thành phần kinh tế.
Như vậy trong xã hội tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập với lợi ích
riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng
hoá - tiền tệ.
Thứ ba, thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng các đơn vị kinh tế có sự
khác biệt nhất định, có lợi ích riêng. Các đơn vị kinh tế còn có sự khác
nhau về trình độ kĩ thuật – công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý nên chi
phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
Thứ tư, quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế
đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát
triển mạnh mẽ. Mỗi quốc gia là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá
đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới và sự trao đổi phải theo nguyên tắc

4



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

ngang giá. Bởi vậy, cần có một quan hệ kinh tế áp dụng chung cho tất cả
các nước, đó chính là quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
Như vậy, kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại tất yếu, khách quan và
không thể lấy ý chí chủ quan để xoá bỏ nó được.
3.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

a) Quá trình chuyển đổi
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường ở nước ta là một quá trình lâu dài.
Trước tình hình khó khăn của nền kinh tế, Đảng, Nhà nước ta đã
đưa ra chỉ thị 100 và quyết định 25/CP. Khi đó, kế hoạch hoá theo kiểu
tập trung bị suy yếu, cơ chế bao cấp bắt đầu chuyển đổi. Đến Nghị quyết
Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương khoá V và Nghị quyết
Bộ chính trị khoá V về các quan điểm kinh tế, cốt lõi của mô hình kinh tế
mới đã cơ bản hình thành.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là bước ngoặt trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội quyết định
đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, đổi mới kinh tế là chủ yếu. Đại hội
lần thứ VII của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.“Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần…
là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản
xuất trong xã hội”. Đại hội VIII mở đầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Đến đại hội IX của Đảng, chúng ta đã đưa ra
mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta, đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

b) Những đặc trưng
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có
quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Giá cả do thị trường quyết định,
hệ thống thị trường phát triển đầy đủ làm cơ sở cho việc phân phối các
nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Nền kinh tế vận
động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá
trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, …Sự tác động của các quy luật
đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường

5


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

hiện đại có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thông qua pháp luật kinh tế,
kế hoạch hoá và các chính sách kinh tế.
Ngoài những tính chất chung của nền kinh tế thị trường, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn có những đặc trưng
bản chất được xác định trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X. Đó là:
- Nhằm mục tiêu thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”, giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát
triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân.
- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển, hình thành cấu trúc kinh tế - xã hội phát triển
ổn định, bền vững, thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao

động, hiệu quả kinh tế đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn
lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
- Phát huy vai trò làm chủ của người dân, bảo đảm vai trò quản lý
điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
4.

Vai trò của nền kinh tế thị trường
Sản xuất hàng hoá phát triển phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển
thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất và đem lại
những tác dụng to lớn.
Thứ nhất kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Trên thị trường, các nhà sản xuất cạnh tranh với nhau, từ
đó buộc mỗi chủ thể phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào
sản xuất để giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Quá trình đó
thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật phát triển, đồng thời buộc
người lao động phải được nâng cao về trình độ, tay nghề. Do đó, lực
lượng sản xuất phát triển mạnh, năng suất lao động xã hội không ngừng
được nâng cao.
6


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Thứ hai, kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động, sáng tạo của
chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất phải căn cứ
vào nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường để quyết định sản xuất
sản phẩm gì, với khối lượng, chất lượng như thế nào. Xã hội càng phát
triển, nhu cầu của con người và thị trường cũng ngày càng tăng lên. Do
vậy, các nhà sản xuất muốn tồn tại và phát triển bắt buộc phải nắm bắt

được nhu cầu đó một cách nhạy bén và có những sáng tạo trong việc
nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng
hoá, dịch vụ.
Thứ ba, kinh tế hàng hoá thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và
chuyên môn hoá sản xuất. Trong kinh tế tự nhiên, một người có thể tạo
ra nhiều sản phẩm để phục vụ cho nhu cầu của bản thân. Nhưng trong
kinh tế hàng hoá, nhiều người cùng tham gia vào quá trình sản xuất ra
một sản phẩm, mỗi người chỉ tập trung vào một khâu trong quá trình đó
và sản phẩm ấy được tung ra thị trường phục vụ cho xã hội. Như vậy,
trình độ phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất phải
tăng lên. Nhờ đó, tiềm năng, lợi thế của từng vùng cũng như của cả
nước được tận dụng và phát huy tối đa.
Thứ tư, sự phát triển của kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình tích
tụ và tập trung sản xuất. Kinh tế thị trường tạo điều kiện ra đời của sản
xuất lớn có tính xã hội hoá cao, chọn lọc được những người sản xuất
kinh doanh giỏi đồng thời hình thành được đội ngũ cán bộ quản lý có
trình độ và lao động lành nghề.
Thực tiễn những năm đổi mới đã cho thấy việc chuyển đổi từ nền
kinh tế quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn.
Chúng ta đã khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn,
kỹ thuật, công nghệ nước ngoài, giải phóng năng lực sản xuất. Nhờ đó,
kinh tế nước ta đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm qua.
Như vậy, kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân
loại. Nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, quá trình phân
công lao động xã hội và đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Kinh tế thị
trường là động lực mạnh mẽ thúc đẩy toàn xã hội phát triển.

7



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

III.

Nhân cách con người

1.

Bản chất con người

a) Quan điểm trước Mác
Từ thời kỳ cổ đại, các trường phái triết học phương Đông đã tìm
cách lý giải vấn đề bản chất con người, quan hệ giữa con người với thế
giới. Các trường phái triết học tôn giáo phương Đông nhận thức con
người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí hoặc nhị nguyên luận.
Trong triết học Phật giáo con người là sự kết hợp giữa danh và sắc (vật
chất và tinh thần), đời sống con người trên trần thế là ảo giác hư vô. Cuộc
đời con người khi còn sống là sống gửi tạm bợ, là bể khổ. Con người phải
hướng tới cuộc sống vĩnh cửu ở cõi Niết bàn, nơi tinh thần con người
được giải thoát để trở thành bất diệt.
Tư tưởng Nho giáo, Lão giáo trong triết học Trung Hoa đã quan
niệm về bản chất con người rất phong phú. Khổng Tử cho rằng “thiên
mệnh” quyết định nhân sự, đức “nhân” là giá trị cao nhất của con người.
Mạnh Tử qui tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh
hưởng của phong tục, tập quán xấu mà con người bị nhiễm cái xấu. Cả
hai ông đều cho rằng con người có thể tu dưỡng, rèn luyện để hướng tới
các gía trị đạo đức tốt đẹp. Trái lại, Tuân Tử quan niệm bản chất con
người khi sinh ra là ác, phải chống lại cái ác ấy con người mới tốt được.
Đó là một tư tưởng thuộc chủ nghĩa duy vật thô sơ. Đổng Trọng Thư lại
cho rằng trời và con người có thể hoà hợp với nhau, thông hiểu lẫn nhau,

gọi là thuyết “thiên nhân cảm ứng”. Đây là tư tưởng kế thừa Nho giáo
theo khuynh hướng duy tâm cực đoan, qui yếu tố quyết định đối với cuộc
đời con người là “thiên mệnh”. Lão Tử, người sáng lập ra trường phái
Đạo gia, cho rằng con người sinh ra từ “Đạo”, bản tính nhân loai có hai
khuynh hướng “hữu vi” và “vô vi”. Theo ông, con người cần phải sống
“vô vi”, theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không giả tạo, gò ép. Đây là một tư
tưởng duy tâm chủ quan.
Cũng giống như triết học phương Đông, các trường phái triết học tôn
giáo phương Tây nhận thức vấn đề con người trên cơ sở thế giới quan duy
tâm, thần bí. Kitô giáo cho rằng thể xác mất đi nhưng linh hồn thì tồn tại

8


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

vĩnh cửu. Linh hồn là giá trị cao nhất mà mỗi con người phải thường
xuyên chăm sóc để hướng tới thiên đường vĩnh cửu.
Trong triết học Hi Lạp cổ đại, con người được xem là điểm khởi
đầu của tư duy triết học và có nhiều quan điểm khác nhau. Theo Hêraclit,
linh hồn con người chỉ là một biểu hiện của lửa, là sự thống nhất của hai
mặt đối lập: cái ẩm ướt và lửa. Đêmôcrit lại cho rằng linh hồn được tạo
nên từ các nguyên tử hình cầu nhưng lại lệ thuộc vào thể xác con người
nên sẽ mất đi cùng thể xác. Đối lập với Đêmôcrit, Platôn quan niệm linh
hồn được sinh ra từ thế giới ý niệm, hiểu biết được cái ý niệm, nó cư trú ở
một ngôi sao rồi bay đến trái đất nhập với thân xác tạo ra một con người.
Do đó, linh hồn tồn tại vĩnh viễn. Còn theo Arixtôt, chỉ có linh hồn tư
duy, trí nhớ, ý chí, năng khiếu nghệ thuật làm cho con người nổi bật lên,
con người là “một động vật chính trị”.
Dưới thời kì trung cổ, tôn giáo bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời

sống xã hội. Con người được xem là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo
ra, số phận, niềm vui, nỗi buồn đều do Thượng đế sắp đặt. Con người
phải chấp nhận cuộc sống tạm bợ trên trần thế vì hạnh phúc vĩnh cửu chỉ
chờ đợi họ ở thế giới bên kia. Trái lại, triết học thời kì phục hưng - cận
đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lí tính của con người. Con người được
nhấn mạnh về mặt cá thể nhưng chưa được nhận thức đầy đủ về mặt sinh
học và về mặt xã hội.
Trong triết học cổ điển Đức, quan niệm về con người được phát
triển theo khuynh hướng của chủ nghĩa duy tâm. Theo Cantơ, nhận thức
con người chỉ biết được hiện tượng bên ngoài mà không xâm nhập được
vào bản chất đích thực, nhận thức cần hạn chế phạm vi của lí tính để dành
cho đức tin. Hêghen, một nhà duy tâm khách quan, cho rằng con người là
hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”. Ông cũng khẳng định con người là chủ
thể đồng thời là kết quả của sự phát triển lịch sử.
Vượt qua những hạn chế trong triết học của Hêghen, nhà duy vật
Phoiơbăc phê phán tính chất siêu tự nhiên, phi vật chất, phi thể xác về bản
chất con người. Ông khẳng định con người do sự vận động của thế giới
vật chất tạo nên, là kết quả của sự phát triển của thế giới tự nhiên.
Phoiơbắc đề cao vai trò trí tuệ của con người với tính cách là những cá

9


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

thể người đa dạng, phong phú, không ai giống ai. Tuy nhiên, ông đã
không thấy được bản chất xã hội của con người, tách con người khỏi môi
trường sống của họ, biến con người trở thành phi lịch sử, phi giai cấp,
trừu tượng.
Như vậy quan niệm về con người ở phương Đông hay phương Tây

dù dựa trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu
hình thì đều chưa được phản ánh đúng đắn. Các quan niệm đó tuyệt đối
hoá một mặt nào đó, xem xét con người một cách trừu tượng nên đều
chưa tìm ra bản chất con người.
b) Quan niệm của triết học Mác – Lênin
Theo triết học Mác – Lênin, con người là một thực thể thống nhất
giữa mặt sinh vật với mặt xã hội. Con người là động vật cao cấp nhất, là
kết quả của sự tiến hoá lâu dài của thế giới tự nhiên. Các giai đoạn mang
tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất đi
qui định bản tính sinh học của con người. Cái sinh học trong con người
qui định sự hình thành những hiện tượng và quá trình tâm lí, là điều kiện
qui định sự tồn tại của con người. Không chỉ là sản phẩm của tự nhiên,
con người là sản phẩm của xã hội, mang tính xã hội. Con người chỉ có thể
tồn tại được khi họ lao động sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu
sinh học của mình. Thông qua hoạt động sản xuất, tính xã hội của con
người được thể hiện. Trong lao động, con người tạo ra nền văn hoá vật
chất và tinh thần, phát triển ngôn ngữ và tư duy, hình thành và phát triển
các quan hệ xã hội. Do đó, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản
chất xã hội của con người. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở hình
thành hệ thống các nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu xã hội trong đời sống
con người. Với phương pháp luận duy vật biện chứng chúng ta thấy quan
hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội là thống nhất. Hai mặt đó hoà quyện
vào nhau để tạo thành con người tự nhiên – xã hội.
C.Mác đã viết:”Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hoà những quan hệ xã hội”. Luận đề khẳng định không có con người
trừu tượng, thoát li mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người
luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong điều kiện nhất định, thời đại nhất
định. Con người sáng tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần cho xã hội

10



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

mà mình sống, qua đó con người bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Như vậy, không thể hiểu bản chất con người bên ngoài mối quan hệ giữa
cá nhân và xã hội, đó chính là sự phân biệt giữa con người và thế giới
động vật.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Nếu không có thế
giới tự nhiên thì cũng không có lịch sử xã hội, không có sự tồn tại của con
người. Không có con người trừu tượng mà chỉ có con người cụ thể gắn
với xã hội nhất định. Trong điều kiện lịch sử xã hội luôn vận động biến
đổi, con người cũng phải thay đổi cho phù hợp. Như vậy, con người là
sản phẩm của lịch sử. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động thực tiễn, con
người tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên. Con người sáng tạo ra
các giá trị vật chất tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao,
phù hợp với mục tiêu, nhu cầu do con người đặt ra. Không có con người
thì không thể có lịch sử xã hội loài người. Do đó, con người là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử.
2.

Sự hình thành nhân cách con người

Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của của mỗi
cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Nhân cách
biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, là sự tổng hợp của các yếu tố
sinh học, tâm lí, xã hội, tạo nên đặc trưng riêng về di truyền, về sinh lí
thần kinh, về hoàn cảnh sống của cá nhân theo cách riêng của mình. Nhân
cách là thế giới quan bên trong của mỗi cá nhân. Nói tóm lại, nhân cách là
toàn bộ những năng lực và phẩm chất xã hội – sinh lí – tâm lí của cá nhân

tạo thành chỉnh thể đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng
định và tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình.
Như đã nói ở phần trước, con người là sản phẩm của tự nhiên và xã
hội. Do đó, quá trình hình thành và phát triển nhân cách phụ thuộc vào
nhiều yếu tố. Thứ nhất, con người là động vật cao cấp nhất nên nhân cách
phải dựa trên tiền đề sinh học và tư chất di truyền học. Thứ hai, môi
trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách.
Môi trường gia đình, nhà trường và xã hội có thể tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp tới mỗi người. Thứ ba, hạt nhân của nhân cách là thế giới quan
cá nhân, bao gồm các quan điểm, lí luận, niềm tin, định hướng giá trị…
11


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Yếu tố quyết định để hình thành thế giới quan cá nhân là tính chất của
thời đại, lợi ích, vai trò, địa vị cá nhân trong xã hội, khả năng thẩm định
giá trị đạo đức – nhân văn và kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Từ thế giới
quan cá nhân sẽ hình thành các thuộc tính bên trong về năng lực, về phẩm
chất xã hội như năng lực trí tuệ, chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo
đức, pháp luật, thẩm mỹ. Như vậy, sự hình thành và phát triển nhân cách
là sự thống nhất của ba yếu tố sinh học, tâm lí và xã hội để xác lập “cái
tôi” của cá nhân.
3.

Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội

Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội
nhất định và được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất
và tính phổ biến của nó. Đó là một chỉnh thể đơn nhất vừa mang tính cá

biệt vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã
hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã
hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử - xã hội. Đó là
phương thức tồn tại cụ thể cuả loài người một cách trực tiếp cảm tính, là
phần tử đơn nhất, riêng lẻ, tạo thành cộng đồng xã hội , là cơ sở hình
thành lịch sử xã hội loài người. Cá nhân là một chủ thể toàn vẹn có nhân
cách, biểu hiện trong phẩm chất sinh lí, tâm lí riêng biệt của mỗi người.
Trong mối quan hệ với xã hội, đó còn là một hiện tượng lịch sử, vận động
phát triển phù hợp với mỗi thời đại nhất định.
Mỗi cá nhân đều ở trong một xã hội nhất định. Mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội dựa trên cơ sở lợi ích, biểu hiện mối quan hệ giữa cái bộ
phận và cái toàn thể, thể hiện tính biện chứng vừa thống nhất vừa mâu
thuẫn. Quan hệ đó luôn vận động, biến đổi và phát triển trong đó sự thay
đổi về chất chỉ diễn ra khi có sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này
bằng hình thái kinh tế - xã hội khác.
Theo triết học Mác – Lênin, xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá
nhân. Xã hội là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực
hiện. Xã hội càng phát triển thì cá nhân càng có điều kiện tiếp cận các giá
trị vật chất, tinh thần nhiều hơn. Vai trò của cá nhân ảnh hưởng tới xã hội
tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của nhân cách. Những cá nhân có tài
năng, phẩm chất, kinh nghiệm, có trách nhiệm cao, thực hiện tốt nghĩa vụ
12


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

đối với xã hội sẽ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Những cá nhân
thoái hoá biến chất về nhân cách sẽ ảnh hưởng xấu, cản trở sự phát triển
của xã hội.
Mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng của một nền văn hoá nhất định.

Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và
các cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỉ, hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu
- những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc. Đó là di sản
chung của xã hội, là môi trường sống của con người. Văn hoá là sự phát
huy các năng lực bản chất của con người, thể hiện đầy đủ nhất chất người,
dù đó là hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị hay cách ứng xử…
Như vậy, văn hoá có ảnh hưởng tới sự tồn tại, phát triển của cá nhân, tạo
cho mỗi người một lối sống, một phong cách nhất định. Nhân cách được
hình thành trong môi trường văn hoá nào sẽ đậm nét dấu ấn của nền văn
hoá đó. Mỗi con người đều mang một dấu vết văn hoá đặc trưng trong
nhân cách của mình. Nếu thiếu nhân cách, văn hoá sẽ phát triển một
chiều, con người sẽ trở thành phương tiện thuần tuý cho nền văn minh trí
tuệ chứ không phải trí tuệ con người tạo ra các giá trị của nền văn minh
đương đại.
Xã hội hoá là một khía cạnh của văn hoá, là quá trình mà qua đó cá
nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hoá của xã hội như các khuôn mẫu xã hội,
quá trình mà nhờ nó, cá nhân đạt được những đặc trưng xã hội của bản
thân, học được cách suy nghĩ và ứng xử phù hợp với vai trò xã hội của
mình, hoà nhập vào xã hội. Văn hoá tạo nên nhân cách con người không
cứng nhắc, nó phụ thuộc vào sự thích nghi của từng người. Mỗi người tiếp
thu văn hóa theo một cách riêng của mình và dựng lại nó theo cách riêng.
Nhân cách con người được hiểu một cách toàn diện là tài đức, là năng lực
thể chất, năng lực trí tuệ, trạng thái tinh thần tình cảm của mỗi cá nhân
bao gồm nhận thức, tình cảm, hành động , phong thái, tính khí, lối sống
của họ. Đó là sự thống nhất giữa mặt cá nhân và mặt xã hội ở mỗi người.
Con người hình thành và phát triển nhân cách bằng sự hoạt động của bản
thân, sự hướng dẫn của thế hệ trước, từ các quan hệ xã hội. Như vậy, xã

13



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

hội và cá nhân đều đóng vai trò quan trọng trong sự định hướng, hình
thành và phát triển nhân cách con người.
IV. Ảnh hưởng của cơ chế thị trường đến việc hình thành nhân cách

1.

Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực

a) Tích cực
Nền kinh tế thị trường đã có tác động mạnh mẽ tới đất nước ta. Tỷ lệ
hộ đói nghèo giảm từ 20% năm 1995 xuống còn 11% năm 2000. Trong 10
năm ( 1991-2000), tổng sản phẩm quốc nội tăng gấp 2 lần. Năng suất lao
động xã hội và thu nhập quốc dân đều tăng. Các chính sách đảm bảo xã
hội, nâng mức lương tối thiểu, tăng phụ cấp hưu trí, người có công… làm
cho mức sống của cán bộ công nhân viên chức, người về hưu, người có
công,… được nâng lên một bước. Tỷ lệ tăng dân số giảm từ 1,65% năm
1995 xuống còn 1,53% năm 2000. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân
có nhiều tiến bộ, đặc biệt trong lĩnh vực y tế dự phòng. Tỷ lệ trẻ em dưới 5
tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 38% năm 1995 xuống còn 33 - 34% năm
2000. Về cơ bản ta đã thanh toán được bệnh bại liệt và uốn ván sơ sinh, các
bệnh sốt rét, bướu cổ đã giảm gần 60% so với năm 1995. Phong trào thể
dục thể thao phát triển rộng rãi trong cả nước. Bởi vậy, con người được
phát triển tốt về thể lực.
Không chỉ phát triển thể lực, con người còn được phát triển cả về trí
lực. Sự nghiệp giáo dục – đào tạo có bước phát triển mới cả về qui mô, chất
lượng, hình thức đào tạo, cơ sở vật chất. Tài năng và trí tuệ con người được

tạo điều kiện phát huy, khả năng được thể hiện. Với môi trường sống ngày
càng nâng cao, con người càng có điều kiện phát triển một cách toàn diện,
hài hoà.
Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó
buộc con người phải năng động, sáng tạo linh hoat, có tác phong nhanh
nhạy, có đầu óc quan sát để thích nghi và hoạt động có hiệu quả. Từ đó con
người nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của mình, góp phần làm giảm
đi sự chậm chạp và trì trệ vốn có của người lao động trong nền kinh tế lạc
hậu cũ.
Kinh tế thị trường dẫn đến xu thế tất yếu là quốc tế hoá, toàn cầu
hoá. Với những điều kiện cơ sở vật chất ngày càng được nâng cao, con
14


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

người ngày càng mở rộng các mối quan hệ, giao lưu buôn bán cũng như
văn hoá với toàn thế giới. Từ đó, các chuẩn mực văn hoá, đạo đức theo tiêu
chí thị trường cũng như chữ tín trong chất lượng, giao dịch …được coi
trọng. Đây là một hướng tốt đẹp bù đắp những thiếu hụt trong hệ giá trị của
con người Việt Nam.
b) Tiêu cực
Kinh tế thị trường không chỉ làm cho con người tốt đẹp hơn mà
ngược lại, nó còn làm tha hoá bản chất con người. Nghị quyết Hội nghị 5
Ban chấp hành trung ương khoá 8 đã xác định :”cơ chế thị trường và sự hội
nhập quốc tế bên cạnh những tác động to lớn cũng đã bộc lộ mặt trái của
nó, ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân, bao
gồm cả một số cán bộ Đảng viên”. Về thế giới quan, con người càng ngày
càng ham danh lợi và sùng bái đồng tiền. Nhiều người quan niệm “ tiền là
tiên là phật”, “có tiền mua tiên cũng được”. Về lối sống, con người trở nên

ích kỷ, thu vén cá nhân, thực dụng và thích hưởng thụ. Nhiều người vô tổ
chức, không kỷ cương, bè phái, cào bằng, níu kéo theo kiểu “lụt lún cả
làng”. Hiện tượng đạo đức giả, thiên vị trở nên phổ biến. Chủ nghĩa cá
nhân, công thần, kiêu ngạo ngày càng gia tăng. Con người coi trọng giá trị
vật chất mà xem nhẹ giá trị tinh thần, chú ý lợi ích cá nhân mà coi nhẹ lợi
ích cộng đồng, chỉ thấy lợi ích trước mắt mà bỏ qua lợi ích lâu dài.
c) Các vấn đề trong xã hội hiện nay
Những tiêu cực trong suy nghĩ và lối sống người dân được biểu hiện
thành các vấn đề trong xã hội hiện nay. Việc quá đề cao lợi ích cá nhân, bất
chấp lợi ích tập thể, lợi ích xã hội là một nguy cơ lớn. Lợi nhuận tự phát
đẩy con người tới những hành vi phá hoại môi trường sống và làm tha hoá
đạo đức, nhân phẩm. Con người chỉ biết tới lợi nhuận mà sẵn sàng chà đạp
lên lương tâm, văn hoá, luân lí,… Sự cạnh tranh trên thương trường làm
cho con người mất đi lòng nhân ái, tính vị tha, biến con người trở thành
những cỗ máy chỉ biết tính toán sòng phẳng, lạnh lùng thiếu nhân tính. Ở
nước ta đã và đang xuất hiện khuynh hướng làm giàu bằng bất cứ giá nào,
kể cả lừa đảo, làm hàng giả, gây tội ác, vi phạm pháp luật. Nạn buôn lậu,
trốn thuế ngày càng trầm trọng. Nạn đổ vỡ tín dụng, phá sản trong kinh
doanh, nợ nần chồng chất không thanh toán được gây thiệt hại cho xã hội.

15


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Việc khuyến khích các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác và cạnh tranh với
nhau cùng phát triển sản xuất, kinh doanh tất yếu dẫn đến sự phân tầng xã
hội và sự phân hoá giàu nghèo. Chấp nhận sự phân tầng xã hội trong chừng
mực nhất định là điều kiện bắt buộc của sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã
hội. Nền kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình phân hoá cơ cấu xã hội, đặc

biệt là sự cách biệt khá xa giữa người giàu và người nghèo. Một bộ phận
dân cư có được điều kiện thuận lợi nên có thể ổn định nhanh cuộc sống và
ngày càng gia tăng mức sống. Một bộ phận khác ngày càng sa xút do
không đủ điều kiện khai thác các vận hội trong cơ chế mới, điều đó tạo ra
sự phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng.
Trong quá trình mở rộng hợp tác kinh tế và giao lưu với các nước, sự
xâm nhập của nền văn hoá ngoại lai làm cho văn hoá truyền thống có thể bị
mai một. Hệ giá trị đang bị xâm hại. Trước đây, các giá trị của cá nhân, gia
đình, nhóm xã hội và dân tộc được đề cao. Nó chi phối, chỉ đạo các khuôn
mẫu ứng xử của cá nhân, của nhóm xã hội trong cộng đồng như : đạo đức,
nề nếp, gia phong. Đạo đức được tôn trọng và được coi là những giá trị
thiêng liêng. Còn ngày nay, các lợi ích cá nhân, lợi ích vật chất được phát
huy một cách tuyệt đối trong cơ chế thị trường, nó lấn át các giá trị văn
hoá, tinh thần đích thực của đời sống xã hội. Văn nghệ nảy sinh khuynh
hướng coi nhẹ văn hoá dân tộc, chạy theo thị hiếu không lành mạnh, để cho
văn hoá phẩm độc hại phổ biến tràn lan, lối sống thực dụng và đồi trụy có
dịp lan rộng trong xã hội.
Đạo lí sa sút đã dẫn tới sự gia tăng của của tệ nạn xã hội. Ma tuý đưa
con người vào các hành động tội lỗi, huỷ hoại nhân cách, gây nên các xung
đột gia đình và là con đường truyền bệnh AIDS. Nạn mua bán dâm làm suy
đồi đạo đức trong xã hội, trụy lạc nhân cách con người, phá hoại hạnh phúc
gia đình, đồng thời là con đường lây lan HIV, hoa liễu,…Nạn cờ bạc, trộm
cướp, bạo hành, mê tín dị đoan ngày càng phát triển.
Không những thế, với tư cách là tế bào xã hội, gia đình Việt Nam
đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng. Mọi người sống thực dụng, ích kỷ,
ít quan tâm tới người khác kể cả người thân của mình. Về kinh tế, sự nghi
ngờ lẫn nhau, thu chi không rõ ràng cũng dẫn tới sự tan vỡ gia đình. Trong
một gia đình, cha mẹ mải lo kiếm tiền, những đứa trẻ đầy đủ vật chất

16



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

nhưng thiếu thốn tình cảm dễ dẫn tới ham chơi, bỏ học, có cái nhìn lệch lạc
và dễ bị lôi kéo vào tệ nạn xã hội. Ngày nay, tỷ lệ các cặp vợ chồng li thân,
li hôn cũng như số trẻ em bỏ nhà, bị bỏ rơi không ngừng tăng lên. Điều đó
đã để lại những hậu quả to lớn mà xã hội phải gánh chịu.
2.

Nguyên nhân

Ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường đến việc hình thành nhân
cách là do nhiều nguyên nhân. Trong đó, có bốn nguyên nhân chính:
Thứ nhất, chúng ta chưa lường hết những phức tạp, tác động tiêu cực
của cơ chế thị trường. Lợi nhuận kích thích sản xuất nhưng nó cũng làm tha
hoá nhân phẩm. Sự cạnh tranh làm con người năng động nhưng cũng khiến
họ mất đi lòng nhân ái. Giao lưu quốc tế làm phong phú nền văn hoá dân
tộc, đồng thời tạo cơ hội xâm nhập cho văn hoá ngoại lai, làm văn hoá
truyền thống bị mai một. Tác dụng tích cực của cơ chế thị trường hẳn ai
cũng thấy còn ảnh hưởng tiêu cực dần dần bộc lộ ngày càng rõ nét hơn chứ
không thể thấy ngay từ đầu. Mặt khác, sự tiêu cực diễn ra không ở một
ngành, một địa phương riêng biệt nào mà ở quy mô toàn xã hội với xu
hướng ngày càng phức tạp, khó lường trước.
Thứ hai, trước tình hình xã hội hiện nay, không ít người còn giữ tư
tưởng bảo thủ chậm đổi mới. Đổi mới để theo kịp thời đại. Đổi mới để tìm
ra cách hạn chế, khắc phục những vấn đề xã hội. Chúng ta không thể phát
triển xã hội tiến bộ, lành mạnh khi vẫn còn sự bảo thủ, cố chấp. Lối suy
nghĩ bảo thủ không những làm dịu đi những ảnh hưởng tiêu cực, ngược lại
nó còn làm cho tiêu cực có điều kiện phát triển và bùng nổ. Bên cạnh đó,

chúng ta vẫn chịu ảnh hưởng những tàn tích phong kiến. Sự cổ hủ, lạc hậu
cản trở sự phát triển của con người và dễ dàng dẫn họ vào các tệ nạn như
cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, mê tín dị đoan,….Những tư tưởng “trọng nam
khinh nữ”, gia trưởng, phong tục lạc hậu,… làm méo mó nhân cách con
người, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
Thứ ba, pháp luật thiếu nghiêm minh, kỉ cương xã hội bị buông lỏng.
Trong tình trạng cả nền kinh tế và xã hội đều đang diễn biến phức tạp, pháp
luật và các cơ quan tư pháp còn chưa thể hiện rõ sự nghiêm minh của mình.
Không ít trường hợp bao che, thiên vị vẫn xảy ra và còn có sự nhúng tay
của chính các cán bộ Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị 5 Ban chấp hành
17


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Trung ương khoá VIII chỉ rõ :”Việc xử lí những phần tử thoái hoá, biến
chất trong Đảng và Nhà nước chưa nghiêm. Tinh thần tự phê bình và phê
bình bị sa sút ở nhiều cấp bộ Đảng”. Thiếu công bằng gây ra sự bất bình
trong người dân, khiến họ có những tư tưởng lệch lạc và hành động sai trái.
Thứ tư, xã hội bị ảnh hưởng bởi lối sống tư sản. Cơ chế thị trường
khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, thực dụng và du nhập quan điểm, tư
tưởng, văn hoá xấu. Lối sống ích kỉ khiến con người chỉ nghĩ tới bản thân
mà sẵn sàng chà đạp lên đồng loại để đạt được điều mình nuốn. Hiện nay
trên thị trường đang tràn ngập những văn hóa phẩm đồi trụy, bạo lực. Điều
đó có tác động mạnh mẽ tới người dân mà đặc biệt là giới trẻ khiến họ có
những tư tưởng lệch lạc, dễ sa vào nghiện hút, mại dâm, cờ bạc, rượu chè,
trộm cướp,…Trong các vụ án liên quan tới tệ nạn xã hội có thể thấy phần
đa tội phạm là thanh niên. Ngoài ra, quá trình diễn biến hoà bình cũng tác
động lớn tới nước ta. Các thế lực thù địch luôn mong muốn làm suy yếu ý
chí, nhân cách của con người Việt Nam.

IV. Giải pháp khắc phục

Cơ chế thị trường ngày càng có những tác động mạnh mẽ tới việc
hình thành nhân cách. Trước tình hình đó, em xin được phép đưa ra một số
giải pháp sau:
Thứ nhất, cần xây dựng hoàn thiện nền kinh tế thị trường. Không thể
chỉ vì ảnh hưởng tiêu cực mà chúng ta phủ nhận tầm quan trọng của kinh tế
thị trường. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải có một nền kinh tế
phát triển. Nhân cách hình thành trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, sẽ
chưa thể hoàn thiện. Trái lại, một xã hội tiến bộ lại là điều kiện phát triển
nhân cách hài hoà, toàn diện.
Thứ hai, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật. Sự thiếu nghiêm minh của
pháp luật gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội, làm con người mất lòng tin
vào lẽ phải. Bởi vậy, hệ thống pháp luật nghiêm minh, hoàn chỉnh không
chỉ giữ vững trật tự, công bằng xã hội mà còn hướng con người tới lẽ phải.
Một khi con người tin vào lẽ phải thì bản thân họ sẽ không có những tư
tưởng hay hành động xấu. Nhân cách con người được hình thành trong xã
hội công bằng cũng sẽ không méo mó, lệch lạc.

18


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Thứ ba, tăng cường thực hiện dân chủ hoá. Điều 1 chương I quy chế
dân chủ ghi rõ: “ nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân,
xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững
mạnh, ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng
… “. Như vậy thực hiện dân chủ tạo điều kiện cho cá nhân phát triển toàn
diện đồng thời kích thích họ quan tâm tới cách vấn đề xã hội, quốc gia. Từ

đó, những vi phạm của các cán bộ nhanh chóng được tìm ra, làm trong sạch
bộ máy Nhà nước.
Thứ tư, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Văn hoá có ảnh hưởng to
lớn tới sự hình thành nhân cách của mỗi cá nhân. Hiện nay, văn hoá ngoại
lai đang xâm nhập vào nước ta làm ảnh hưởng tới tư tưởng, lối sống của
người dân, đặc biệt là giới trẻ. Những nét đẹp văn hóa dân tộc chính là cội
nguồn của vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của con người Việt Nam. Bởi vậy,
chúng ta cần phát huy và tuyên truyền rộng rãi để bản sắc văn hoá dân tộc
không bị mai một. Bên đó, cũng cần tiếp thu những tinh hoa văn hoá trên
thế giới để làm phong phú nền văn hoá nước nhà, giúp cho nhân cách
người Việt ngày càng hoàn thiện.
Thứ năm, cần tăng cường công tác nghiên cứu về con người trong
thời đại mới. Xã hội ngày càng phức tạp và con người cũng vậy. Chúng ta
cần tìm hiểu con người và các yếu tố tác động nhằm khắc phục yếu kém,
phát huy khả năng, hướng họ tới cuộc sống lành mạnh, có ích cho xã hội.
Qua quá trình nghiên cứu, chúng ta cần xác lập nên một hệ chuẩn mực đạo
đức mới cho con người trong thời đại mới. Từ đó, mỗi cá nhân sẽ có định
hướng phát triển nhân cách cho riêng mình.
Thứ sáu, tăng cường sự giáo dục trong gia đình đối với mỗi cá nhân.
Gia đình là môi trường sống đầu tiên, là cái nôi hình thành nhân cách của
con người. Ngày nay, các bậc cha mẹ thường quan tâm tới việc kiếm tiền
mà quên đi việc dạy dỗ con cái. Họ thường khoán trách nhiệm đó cho
người giúp việc, gia sư, nhà trường. Thực tế cho thấy nề nếp, gia phong
cũng như cách ứng xử của các thành viên trong gia đình là những định
hướng nhân cách đầu tiên cho trẻ em. Bởi vậy, các bậc làm cha, làm mẹ dù
bận rộn nhưng nên dành nhiều thời gian hơn cho việc dạy dỗ và quan tâm
tới sự phát triển của con cái.

19



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Thứ bảy, đổi mới phương pháp giáo dục trong nhà trường. Có câu “
tiên học lễ, hậu học văn”, nhà trường không chỉ là nơi cá nhân học hỏi tri
thức mà còn là nơi rèn luyện nhân cách. Bởi vậy, cần tăng cường giáo dục
đạo đức trong nhà trường cụ thể là ở các môn đạo đức, giáo dục công dân,
bộ môn Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Phương pháp giảng dạy cũng
cần linh hoạt, đổi mới, đi sát với thực tế và theo kịp sự phát triển của xã
hội. Trong quá trình đó, cần nâng cao vai trò của người học tự tìm hiểu,
liên hệ bản thân, xã hội, giúp họ có những bài học kinh nghiệm thực tế bổ
ích. Bên cạnh đó, thái độ giảng dạy, cách ứng xử của đội ngũ giáo viên, cán
bộ nhân viên trong trường cũng cần phải giữ đúng mực, làm gương cho học
sinh. Sự giáo dục tốt sẽ giúp cho cá nhân hình thành nhân cách đúng đắn.
Thứ tám, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Đảng ta
vạch rõ sự thống nhất giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con
người XHCN, việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng
lực quản lý vĩ mô của nhà nước. Chúng ta cần có các chính sách cụ thể
nhằm thống nhất phát triển kinh tế với phát triển xã hội như chú trọng đầu
tư, phát triển con người, giáo dục, đào tạo, thực hiện hệ thống chính sách
xã hội, … Để tạo ra động lực cho sự phát triển, nhà nước cần khuyến khích
các tài năng trong các tầng lớp xã hội. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cần
đổi mới cơ cấu tổ chức, hệ thống chính trị và cơ chế vận hành để Nhà nước
thực sự là của dân, do dân, vì dân. Một đất nước ổn định về chính trị, công
bằng xã hội được đề cao, mọi tệ nạn bị lên án, loại trừ, đó chính là môi
trường cần có cho nhân cách con người phát triển hoàn thiện.

20



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

C. Kết luận
Nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan không chỉ đối với
nước ta mà là toàn thế giới. Tuy nhiên, cơ chế thị trường cũng dẫn tới
những ảnh hưởng tiêu cực, làm tha hoá nhân cách con người. Mục tiêu của
chúng ta hiện nay là phải thống nhất phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội và
phát triển con người để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước giàu
mạnh, bền vững.
Hồ Chí Minh đã từng viết “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đó là con người có ý thức,
trình độ, năng lực làm chủ. Con người lao động mới có tri thức sâu sắc về
công việc mà mình đảm nhận, lao động có ý thức, kỉ luật, tinh thần hợp tác,
biết đánh giá chất lượng lao động, hiệu quả lao động của bản thân. Đó là
con người sống có văn hoá, tình nghĩa, biết vị trí của mình trong từng mối
quan hệ xã hội và giải quyết đúng đắn, có ý thức nâng cao trình độ tri thức
mọi mặt, rèn luyện sức khoẻ, đảm bảo phát triển toàn diện. Đó còn là con
người giàu lòng yêu nước, thương dân, có tình yêu thương giai cấp, đồng
loại, sống nhân văn, nhân đạo, có ý thức, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chế
độ XHCN, thành quả cách mạng, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của
kẻ thù. Đó chính là mô hình nhân cách con người Việt Nam mà chúng ta
cần xây dựng.
Quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài đã giúp em có cách nhìn nhận
đúng đắn hơn về nền kinh tế thị trường và sự hình thành nhân cách con
người Việt Nam hiện nay. Qua đó, em thấy rằng phương hướng hoàn thiện
nhân cách bản thân chính là phấn đấu trở thành một con người xã hội chủ
nghĩa.
Trong quá trình sưu tập tài liệu và viết bài, do khả năng và sự hiểu
biết có hạn, em không tránh khỏi những thiếu sót và cách hiểu chưa đúng.
Em mong thầy chỉ ra những thiếu sót và góp ý giúp em hoàn thiện đề tài.

Em xin chân thành cảm ơn thầy.

21


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin : NXB Chính trị quốc gia
2. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học : NXB Chính trị quốc gia
3. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin : NXB Chính trị quốc
gia
4. Giáo trình xã hội học : NXB Lao động –Xã hội
5. Tâm lí người Việt Nam đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Những điều cần khắc phục : NXB Chính trị quốc gia
6. Tâm lí xã hội trong quá trình thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở :
NXB Chính trị quốc gia
7. Gia đình Việt Nam : Các giá trị truyền thống và những vấn đề
tâm - bệnh lí xã hội : NXB Lao động.
8. Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách : NXB
Tư pháp
9. Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay. Vấn đề và giải pháp : NXB
Chính trị quốc gia
10. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X : NXB Chính trị
quốc gia.

22


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688


MỤC LỤC
Trang
A. Giới thiệu đề tài...........................................................................................................1
B. Nội dung chính ...........................................................................................................2
I. Cơ sở của quá trình nghiên cứu ..............................................................................2
1.Cơ sở lí luận .......................................................................................................2
2. Cơ sở thực tế ...................................................................................................2
II. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN...............................................................2
1. Nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới.....................................................................2
2. Nền kinh tế thị trường – Tất yếu khách quan .......................................................3
3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...................................................5
4. Vai trò của nền kinh tế thị trường..........................................................................6
III. Nhân cách con người..............................................................................................8
1. Bản chất con người................................................................................................8
2. Sự hình thành nhân cách con người.....................................................................11
3. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội....................................................................12
IV. Ảnh hưởng của cơ chế thị trường đến việc hình thành nhân cách.......................14
1. Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực ..........................................................................14
2. Nguyên nhân .......................................................................................................17
IV. Giải pháp khắc phục .............................................................................................18
C. Kết luận.....................................................................................................................21
Tài liệu tham khảo.........................................................................................................22

23



×