Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Vấn đề nhân cách con người trong cơ chế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.2 KB, 29 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiểu luận triết học
vấn đề nhân cách con ngời trong cơ chế thị trờng
Lời mở đầu
Phần I: Tính tất yếu của sự phát triển kinh tế thị trờng .
1. Khái niệm nền kinh tế Việt Nam Trớc thời kỳ đổi mới .
2. Kinh tế thị trờng bớc phát triển tất yếu khách quan .
Phần II: Vai trò của chủ thể x hội cá nhân trongã
việc định hớng nhân cách .
1. Bản chất con ngời và sự hình thành nhân cách con ngời .
2. Vai trò của chủ thể xã hội cá nhân trong việc định hớng nhân cách .
Phần III: Những đặc trng cơ bản của cơ chế thị trờng
trong việc hình thành nhân cách .
1 Những ảnh hỏng tích cực và tiêu cực .
3. Những nguyên nhân cơ bản của sự ảnh hởng tiêu cực của cơ chế thị tr-
ờng đến việc hình thành nhân cách .
Phần VI : Những giải pháp khắc phục.
1. Giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội
2. Sự phát triển nhân cách đạo đức phải đợc thực hiện trong các hành vi
đạo đức thực tế .
3. Các biện pháp giáo dục và giáo dục đạo đức .
4. Tăng cờng vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nớc .
Thay cho lời kết
Những tài liệu tham khảo .

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời Mở Đầu
Lịch sử phát triển của xã hội loài ngời trải qua nhiều giai đoạn nối
tiếp nhau từ thấp lên cao ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế xã
hội phù hợp với nó. Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội nối tiếp
nhau là một quá trình lịch sử tự nhiên. Quá trình này đợc C-Mác phân tích


nghiên cứu và khảng định ra rằng sự ra đời và phát triển của một hình thái
kinh tê - xã hội nhất định Bắt nguần đầu tiên từ sự vận động, phát triển củ
lực lợng sản xuất nhân tố vận động nhất của phơng thức sản xuất .
Do yêu cầuđời sống kinh tế và xã hội của loài ngời là nâng cao hiệu
quả trong sản xuất và giảm bớt lao động nặng nhọc, con ngời không ngừng
cải tiến, chế tạo công cụ sản xuất mới. Đồng thời với sự tiến bộ của công
cụ, tri thức khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật và mọi kỹ năng của ng-
ời lao động cũng ngày càng phát triển. Các yếu tố năng động này đồng thời
thúc đẩy sự phát triển của lực lợng sản xuất. Sự lớn mạnh của lực lợng sản
xuất tác động đến quan hệ sản xuất, đòi hỏi quan hệ sản xuất phải phù hợp
với nó theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với nó theo qui luật quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất.
Sự lớn mạnh của lực lợng sản xuất tác động đến quan hệ sản xuất đòi hỏi
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực l-
ợng sản xuất mâu thuẫn tất yếu sẽ nảy sinh, lúc đó sẽ diễn ra cuộc xung đột
gay gắt phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới;
hình thành một phơng thức sản xuất mới tiến bộ hơn, tạo điều kiện cho lực
lợng sản xuất tiếp tục phát triển, trong đó các yếu tố lực lợng sản xuất,quan
hệ sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thợng tầng có liên hệ biện chứng
với nhau thông qua cac quy luật khách quan của xã hội .
Khi phơng thức sản xuất thay đổi, một phơng thức sản xuất mới tiến
bộ hơn ra đời, nó đòi hỏi kiến trúc thợng tầng phải đợc biến đổi phù hợp với
xu hớng phát triển của phơng thức sản xuất mới đó. Chính do tác động của
quy luật khách quan này mà các hình thái xã hội kinh tế vận động và
phát triển nh một quá trình lịch sử tự nhiên không phụ thuộc vào
ý muốn chủ quan của con ngời .
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong quá trình tìm kiếm con đờng đa nền kinh tế phát triển đi nên
đảng và nhà nớc ta đã lựa chọn đờng lối đổi mới. Công cuộc đổi mới bắt
đầu từ năm 1986 chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang

nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định
hớng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời những giá trị mới cũng đã đợc đại hội VI
của Đảng cộng sản việt nam ( 1986) lựa chọn và xác nhận . Điều đó đã tạo
ra những động lực lành mạnh, làm nhộn nhịp các hoạt động kinh tế, làm tơi
tỉnh bộ mặt xã hội là nguyên nhân trực tiếp làm cho đất nớc có những bớc
ổn định và phát triển trong những năm gần đây .
Công cuộc đổi mới đã làm thay đổi bộ mặt của đời sống kinh tế xã
hội đặc biết là sự thay đổi hệ thống giá trị xã hội cộng đồng tạo ra những
chuẩn mực xã hội mới. Điều đó tác độnh không nhỏ đến cách suy nghĩ và
lối sống của ngời dân. ở con ngời Việt Nam dần hình thành những giá trị
mới đặc biệt là sự hình thành nhân cách con ngời; dân chủ và công bằng xã
hội: lợi ích cá nhân xã hội cùng những mâu thuẫn và sự thống nhất giữa
chúng Trong những trang viết này, chúng tôi xin đ ợc đề cập đến một
trong những vẫn đề đang đợc quan tâm đó là : Sự hình thành nhân cách con
ngời trong nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam.
a / Kinh tế thị tr ờng là gì ?
Kinh tế thị trờng nói chung là một hình thức xã hội của các tổ chức
hoạt động kinh tế, trong đó các mối quan hệ giữa con ngời với con ngời đợc
biểu hiện thông qua việc mua bán trao đổi bằng tiền. Quá trìnhđó chủ yếu
là do thị trờng điều tiết .
b/ Nhân cách con ng ời /
Nhân cách con ngời là toàn bộ những đặc tính và phẩm chất xã hội
sinh lý tâm lý của cá nhân tạo thành chỉnh thể đóng vai trò chủ thể tự ý
thức, tự đánh giá , tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình, là thế giới bên
trong riêng biệt của mỗi cá nhân. Nói cách khác, Nhân cách là những giá trị
làm ngời của mỗi cá nhân .
Phần I
tính tất yếu của sự phát triển kinh tế thị trờng
Website: Email : Tel : 0918.775.368

1. Khái quát nền kinh tế Việt Nam trớc thời kỳ đổi mới :
Suốt chiều dài tiến trình lịch sử, nớc ta liên tiếp chịu sự xâm lợc của
kẻ thù và lịch sử cũng đã chứng minh dân tộc ta đã anh dũng chiến đấu
giành chiến thắng bảo vệ độc lập dân tộc. Đất nớc ta là một đất nớc giàu tài
nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực dồi dào và vị trí địa lý thuận lợi cho
việc giao lu quốc tế và phát triển kinh tế. Tuy nhiên lịch sử chiến tranh liên
miên đã để lại những hậu quả của nó. Đó là một đất nớc mà toàn bộ sức ng-
ời sức của liên tiếp phục vụ các cuộc chiến tranh chống pháp và Mỹ, kinh tế
không đợc chú trọng phát triển, đã trở nên nghèo làn lạc hậu, kinh tế chậm
phát triển. Cần cù chăm chỉ, sáng tạo, giàu nghị lực là những đức tính tốt
đẹp của ngời dân Việt Nam. Vì vậy chúng ta đang cố gắng từng bớc xây
dựng lại đất nớc với đầy rẫy những khó khăn ban đầu .
Thời kỳ trớc năm 1986 , với cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp nền kinh tế Việt Nam không phát triển đợc thậm chí có chiều hớng có
đình trệ nguy hiểm, nền sản xuất không đủ đáp ứng nh cầu ngày càng đa
dạng của xã hội. Hoàn cảnh nớc ta trớc đó đang từ một nớc thuộc đụa nửa
phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ t
vản chủ nghĩa. Về mặt lí luận, lực lợng sản xuất phát triển đến một mức nào
đó thì mới thúc đẩy sự biến đổi của quan hệ sản xuất hình thành một phát
triển sản xuất mới. Nhng thực tế nớc ta sau chiến tranh cơ sở vật chất xã hội
còn nghèo nàn, lạc hậu, đất nớc có 90% làm nông nghiệp, 95% dân c mù
chữ. Vì vậy lực lợng sản xuất không đủ điều kiện tác động đến quan hệ sản
xuất cũ lỗi thời nhằm phá vỡ nó. Hơn nữa với cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, nhà nớc không cho phép tồn tại thành phần kinh tế t nhân, xoá bỏ
một cách khô cứng mọi sự t hữu, kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản
xuất, nền kinh tế gặp khó khăn nghiêm trọng.
2. Kinh tế thị trờng b ớc phát triển tất yếu khách quan
Từ những năm đầu thập kỷ 90 trở lại đây có lẽ không còn mấy ai nghi
ngờ về vai trò của sản xuất hàng hoá, của kinh tế thị trờng trong sự nghiệp
xây dựng đất nớc ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy

vậy do những quan niệm trớc ở thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Tuy vậy do những quan niệm trớc đây về một chủ nghĩa không có
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh tế hàng hoá , không có quan hệ thị trờng và bản thân nền kinh tế lại có
tính hai mặt của nó cho nên trong thực tế việc nhận thức cho đúng vai trò
của kinh tế thị trờng đối sự nghiệp xây dựng con ngời nhng vẫn còn nhiều
vấn đề cần phải thảo luận.
Nh chúng ta biết, C.Mác và Ăng-ghen không dự báo về mô hình chủ
nghĩa xã hội không có kinh tế hàng hoá. VI Lênin, trớc cách mạng tháng
mời cũng cho trong chủ nghĩa xã hội , nền kinh tế hàng hoá sẽ bị xoá bỏ
để tổ chức nền sản xuất không có những nhà kinh doanh. Thế nhng khi nội
chiến kết thúc trứoc những nhiệm vụ nặng nề của việc khôi phục nền kinh
tế khắc phục hậu quả của chính sách cộng sản thời chiến, Lênin đã quyết
định thực hiện chính sách kinh tế mmới, mà nội dung chủ yếu là thừa nhận
kinh tế hàng hoá thừa nhận tự do buôn bán cho phép tồn tại đến một giới
hạn nhất định thành phần kinh tế t bản, t nhân, sử dụng các hình thức kinh
tế quá độ, xem chủ nghĩa t bản nhà nớc và hợp tác xã nh lànhững chiếc cầu
nhỏ lên chủ nghĩa xã hội
Nh vậy, chính Lênin khi căn cứ vào điểm xuất phát từ trình độ phát
triển kinh tế văn hoá xã hội còn thấp ở nớc Nga lúc bắt đầu quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã đề xuất mô hình chủ nghĩa xã hội có vai trò của kinh tế
hàng hoá kinh tế thị trờng.
Có thể nói suất một thời gian các nớc XHCN ( trong đó có nớc ta) đã
không nhận thức đúng vai trò cuả sản xuất hàng hoá của kinh tế thị trờng
đã đống nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức nền kinh tế vàthành
phần kinh tế coi nhẹ thậm chí phủ định qui luật giá trị qui luật cung cầu chỉ
thấy mặt tiêu cực của kinh tế thị trờng phủ nhận quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
Do đối lập kinh tế hàng hoá và thị trờng với kinh tế kế hoạch hoá cho thị tr-
ờng là phạm trù riêng của chủ nghĩa t bản cho nên chúng tachỉ thừa nhận sự
tồn tại của sản xuất hàng hoá trong khuân khổ của thị trờng. Bởi vậy chúng

ta không tạo đợc động lực để phát triển sản xuất năng xuất lao động tăng
chậm , gây rối loạn và ách tắc trong lĩnh vực phân phối lu thông làm cho
nền kinh tế rơi vào tình trangj kém năng động trì trệ.
Do thực tế đó từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng và Nhà n-
ơchính sách ta đã phân tích rõ nguyên nhân thực trạng nền kinh tê và đâ
thừa nhận sai lầm khuyết điểm rút ra những bài học kinh nghiệm quí báu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trong sự phát triển kinh tế và quyết định cho nền kinh tế phát triển theo
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng co sự quản lý vĩ mô
của Nhà nớc. Đảng ta đã đề ra chủ trơng; Quá trình từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn ở nớc ta là quá trình chuyển hoá nền kinh tế còn nhiều tính
chất tự cấp tự túc thành nền kinh tế hàng hoá Việc sử dụng đầy đủ và
đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong kế hoạch hoá kinh tế quốc dân là
một tất yếu khách quan Việc sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ đòi hỏi
sản xuất phải gắn với thị trờng. Đờng lối đúng đắn đó một lần nữa đợc chỉ
rõ trong Đại hội toàn quốc lần thứ VII: Để phát huy vai trò to lớn cảu nền
kinh tế nhiều thành phần phải tiếp tục xó bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, chuyển sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc bằng Pháp
luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác; Nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy đ ợc
các tiềm năng sản xuất trong xã hội.
Đến Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai
trò của kinh tế thị trờng: Cơ chế thị trờng đã phát huy tác dụng tích cực to
lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn
là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nớc
theo con đờng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trờng không đồng nhất với
kinh tế t bản chủ nghĩa, không phải là thành quả riêng của chủ nghĩa t bản.
Kinh tế thị trờng đã từng xuất hiện khá sớm trớc chủ nghĩa t bản và là thành
quả chung của văn minh loài ngời. Việc chuyển đất nớc sang vận hành theo
cơ chế thị trờng không đơn thuần chỉ là quá trình thay đổi lại cấu trúc nền

sản xuất xã hội với sự đổi mới cơ cấu sở hữu t liệu sản xuất, cơ cấu sử dụng
nhân lực, lao động mà còn là đổi mới nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của nền
kinh tế xã hội nh cơ chế quản lý kinh tế và quản lý xã hội, hệ thống giáo
dục và đào tạo cán bộ, các thiết chế và chính sách xã hội.
Cụ thể là:
Với kinh tế thị trờng, qui luật phân công lao động đợc diễn ra mạnh
mẽ hơn, phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đem lại hiệu quả cao cho
sự phát triển và tăng trởng kinh tế. Mặt khác không chỉ dừng lại ở phân
công lao động trong nớc mà còn mở rộng phân công lao động và hợp tác
trong khu vực và trên thế giới. Điều đó không chỉ cho phép nớc ta học hỏi
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh nghiệm của các nớc tiên tiến về phơng diện làm ăn kinh tế mà còn có
thể giao lu trong lĩnh vực văn hoá xã hội
Vấn đề sở hữu t nhân vốn là sử hữu cơ bản vốn có của con ngời nhng
đã có một thời gian dài chúng ta không thừa nhận mà thậm chí còn phủ
định một cách tuyệt đối mọi hình thức sở hữu t nhân trong kinh doanh và
làm ăn kinh tế. Khắc phục sai lầm đó, cơ chế thị trờng với sự phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã và đang tồn tại nhiều thành phần kinh
tế với những hình thức sở hữu khác nhau về t liệu sản xuất và sản phẩm lao
động, tạo động lực và môi trờng thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt
động, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh và có hiệu quả, góp phần
xây dựng đồng bộ cơ chế thị trờng.
Trên con đờng đi của lịch sử phát triển kinh tế hàng hoá ở các nớc
XHCN đã xuất hiện mô hình kinh tế chỉ huy hay mô hình kế hoạch hóa
tập trung quan liêu bao cấp. Mô hình này xét về mặt thực chất là xoá bỏ các
thành phần kinh tế với t cách là cơ sở của sự tồn tại và phát triển kinh tế
hàng hoá, và trong mô hình kinh tế đó quan hệ hàng hoá - tiền tệ hầu nh bị
hình thức hoá nếu không muốn nói là bị phủ nhận.
Cùng với sự kém hiệu quả của mô hình kinh tế đó thì chúng phải
thừa nhận vai trò to lớn của kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị trờng. Nền

kinh tế thị trờng bản thân nó có những mặt tích cực là tạo ra những động
lực mới để phát huy năng lực sáng tạo, khai thác mọi nguồn lực, phát triển
và tăng trởng kinh tế cao. Đó là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có
khả năng to lớn đa nền kinh tế vợt khỏi thực trạng thấp kém, đa nền kinh tế
hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nớc còn hạn
hẹp.
Hơn nữa, chiến lợc phát triển kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế
thị trờng là tiền đề mở đờng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc nhằm xây dựng nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Tuy nhiên, Đảng ta không coi cơ chế thị trờng là liều thuốc vạn năng
và vì vậy không khuyến khích phát triển nó về mọi phơng diện. Bởi lẽ việc
tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế thị trờng sẽ rơi vào một sai lầm nguy hiểm
từ phía khác. Kinh tế thị trờng bản thân nó vốn có những giới hạn, khuyết
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tật mang tính tự phát hết sức bớng bỉnh. Hơn thế nữa, quan hệ thị trờng còn
là môi trờng thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tế
những năm qua cho thấy, tuy mới áp dụng cơ chế thị trờng cha đợc bao lâu,
mà bên cạnh những thành tựu, nh làm ăn thuần tuý chạy theo lợi nhuận đãn
đến các hình thức lừa đảo, hối lộ, trốn thuế, nợ nần khó trả, thơng mại hoá
một cách tràn lan, xâm nhập cả vào các lĩnh vực dễ tổn thơng nh ytế, giáo
dục, văn hoá làm giá trị đạo đức, tinh thần bị băng hoại và xuống cấp,
đồng tiền đã chi phối quan hệ giữa ngời với ngời, sự phân hoá giàu nghèo
và bất công xã hội có chiều hớng tăng lên; lối sống ích kỷ, thực dụng có
nguy cơ ngày càng tăng Sự đổi mới cơ chế kinh tế đã làm cho hệ thống
giá trị xã hội có ít nhiều thay đổi cùng với những giá trị và chuẩn mực mới
đã phần nào chi phối đến đời sống của từng cá nhân trong xã hội từ đó hình
thành nên những con ngời mới. Vì vậy việc hình thành nhân cách con ngời
trong nền kinh tế thị trờng đang là một vấn đề đợc sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu kinh tế xã hội.

Phần II
Vai trò của chủ thể xã hội, cá nhân
trong việc định hớng nhân cách
1. Bản chất con ngời và sự hình thành nhân cách con ngời:
* Chủ nghĩa Mác khi nghiên cứu về bản chất con ngời đã đi tới một
quan niệm toàn diện về con ngời hiện thực, con ngời hoạt động thực tiễn
cải tạo tự nhiên và xã hội. Chủ nghĩa Mác xem xét con ngời nh một thực
thể sinh vật xã hội.
Con ngời là sản phẩm của tự nhiê, là kết quả của sự tiến hoá lâu dài
của giới hữu sinh. Cái sinh học trong con ngời qui định sự hình thành
những hiện tợng và quá trình tâm lý trong con ngời, là điều kiện qui định sự
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tồn tại của con ngời. Con ngời là sản phẩm của xã hội, là con ngời xã hội,
mang tính xã hội. Con ngời chỉ có thể tồn tại đợc một khi con ngời lao động
sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu sinh học của minhf. Chính
lao động sản xuất là yếu tố quyết định hình thành con ngời và ý thức. Lao
động là nguồn gốc tạo ra nền văn hoá vật chất và tinh thần. Mặt khác, trong
lao động, con ngời quan hệ với nhau trong lĩnh vực sản xuất, đó là những
quan hệ nền tảng để từ đó hình thành các quan hệ xã hội khác trong các
lĩnh vực của đời sống tinh thần. Nh vậy, chính lao động đã qui định bản
chất xã hội của con ngời, qui định cái xã hội trong con ngời, và cái xã hội
đến lợt nó, lại qui định sự hình thành cá nhân và nhân cách.
Với t cách là con ngời xã hội, là con ngời hoạt động thực tiến, con
ngời sản xuất ra của cải vật chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con ngời cũng tạo ra lịch sử của mình.
Con ngời không những là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể cải tạo xã
hội. Tòm lại, con ngời là thực thể thống nhất sinh học xã hội.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngời là tổng hoà những
quan hệ xã hội. Theo Mác trớc hết, bản chất chung nhất, sâu sắc nhất của
con ngời là tổng hoà các mối quan hệ giữa ngời với ngời trong xã hội hiện

tại và cả trong quá khứ. Hai là, bản chất con ngời không phải là cố định, bất
biến mà có tính lịch sử - cụ thể. Ba là, không thể hiểu bản chất con ngời
bên ngoài mối quan hệ cá nhân và xã hội.
Tuy nhiên ta cần thấy rằng Mác không hề phủ nhận mặt tự nhiên, cái
sinh học trong việc xác định bản chất con ngời. Hơn nữa, cái bản chất
không phải là cái duy nhất mà chỉ là cái chung nhất, sâu sắc nhất; do đó khi
nhấn mạnh bản chất xã hội của con ngời, trong khi nhận rtõ cái xã hội khôg
thể tách rời cái sinh học trong con ngời, ta cần phải chú ý tới tính riền biệt
và phong phú của mỗi cá nhân đợc qui định bởi t chất di truyền học, yếu tố
bản năng và trực giác, yếu tố tự ý thức, cái tôi của chủ thể. Nh vậy sẽ là sai
lầm nếu không hiểu bản chất chung của con ngời hay qui tất cả những gì
của con ngời chỉ vào bản chất.
* Khái niệm cá nhân chỉ tính đơn thuần của mỗi con ngời chủ thể.
Nh vậy cá nhân khác với tập thể, xã hội, loài ngời tồn tại với t cách tổng số
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các cá nhân có quan hệ với nhau. Khái niệm cá nhân khác với khái niệm
con ngời là khái niệm dùng để chỉ thuộc tính chung nhất của các cá nhân,
chỉ tính ngời hay bản chất ngời.
Khái niệm cá nhân còn dùng để xác định vai trò chủ thể hoạt động
thực tiễn và nhận thức của cá thể ngời. Cá nhân phải là sản phẩm của sự
phát triển xã hội, mang bản tính xã hội.
Nh vậy, cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất bao gồm những đặc điểm
cụ thể, không lặp lại kết hợp với đặc điểm chung của bản chất ngời có vị trí
xã hội và thực hiện những chức năng xã hội nhất định.
Khái niệm nhân cách chỉ bản sắc độc đáo của mỗi cá nhân, là toàn
bộ những đặc tính và phẩm chất xã hội sinh lý tâm lý của cá nhân toạ
thành chỉnh thể đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự khẳng định, tự ý thức, tự
điều chỉnh mọi hoạt động của mình.
Nhân cách hình thành và phát triển phụ thuộc và ba yếu tố. Thứ nhất,
nhân cách phải dựa trên tiền đề sinh học và di truyền học. Thứ hai, môi tr-

ờng xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách. Đó là
môi trờng gia đình, trờng học, và xã hội, môi trờng này có thể tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp. Quan hệ giữa cá nhân và môi trờng xã hội là quan hệ
biện chứng. Thứ ba, hạt nhân của nhân cách là thế giới quan cá nhân bao
gồm quan điểm, lý luận, niềm tin, định hớng giá trị
Nh vậy, có thể nói sự hình thành bản chất và nhân cách con ngời vừa
phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan vừa phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan.
2. Vai trò của chủ thể xã hội, cá nhân trong việc định h ớng nhân
cách.
Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, xã hội là mối quan hệ biện
chứng đợc thực hiện trên nền tảng lợi ích. Trong quan hệ giữ cá nhân và xã
hội, xã hội giữ vai trò quyết định. Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội
là sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho khai thác đợc cao nhất khả năng của
mỗi thành viên vào các quá trình kinh tế xã hội và thúc đẩy ccs quá trình đó
phát triển lên trình độ cao hơn. Xã hội là môi trờng, là phơng thức để lợi ích
cá nhân đợc thực hiện; xã hội càng phát triển thì cá nhân nhận đợc ngày
càng nhiều những giá trị vật chất và tinh thần.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vai trò của cá nhân ảnh hởng tới xã hội tuỳ thuộc vào trình độ phát
triển của nhân cách. Những cá nhân có tài năng, phẩm chất, kinh nghiệm
cao, có trách nhiệm cao đói với xã hội, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với xã hội
sẽ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Những cá nhân bị thoái hoá biến
chất về nhân cách sẽ gây ảnh hởng xấu tới xã hội, cản trở sự phát triển của
xã hội ng ợc lại, sự hình thành nhân cách của cá nhân nhận cũng còn tuỳ
thuộc vào trình độ văn minh khác nhau của chế độ xã hội.
Mỗi cá nhân sống trong một môi trờng xã hội, đều chịu ảnh hởng
của một nền văn hoá nhất định. Theo các nhà triết học thì văn hoá là toàn
bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con ngời tạo ra trong quá trình thực
tiễn lịch sử, xã hội và đặc trng cho trình độ đạt đợc trong sự phát triển của
lịch sử xã hội. Văn hoá là di sản chung của xã hội, văn hó một khi đã hình

thành cũng là môi trờng sống của con ngời. Nếu môi trờng tự nhiên và môi
trờng xã hội là điều kiện sự hình thành và phát triển của môi trờng văn hoá
thì ngợc lại môi trờng văn hoá một khi đã xuất hiện trong việc không ngừng
cải thiện môi trờng tự nhiên và môi trờng xã hội. Mọi ngời thể hiện văn hoá
của mình trong trang phục, ăn uống, công việc và hàng loạt các hoạt động
khác.
Văn hoá có ý nghĩa rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển của cá
nhân xã hội. Văn hoá có ảnh hởng đến toàn bộ hoạt động của mỗi cá nhân.
Có cho mỗi ngời một lối sống, một phong cách nhất đinh. Con ngời sinh ra,
lớn lên hay nhân cách đợc hình thành trong môi trờng văn hoá nào sẽ đậm
nét dấu ấn của nền văn hoá đó. Quá trình xã hội hoá là một khía cạnh của
văn hoá. ở đây văn hoá có thể coi nh khuôn để đúc nên nhân cách con ngời.
Tất nhiên, văn hoá tạo nên nhân cách con ngời hoàn toàn không cứng nhắc,
nó còn pơhụ thuộc vào sự thích nghi của từng ngời. Mỗi ngời tiếp thu văn
hóa theo một lối riêng của mình và dựng lại nó theo cách của mình ở một
góc độ nào đó. Có thể nói ở đây văn hoá đem lại cho cá nhân một hình thù,
một bộ mặt nhất định, cho phép họ hoạt động trong một xã hội nào đó. Mỗi
con ngời trong một xã hội nào đó đều mang một dấu vết văn hoá đặc trng
trong nhân cách của mình. Ngợc lại, thiếu nhân cách, văn hoá sẽ phát triển
một chiều, nền văn minh sẽ bị méo mó, con ngời sẽ trở thành phơng tiện

×