Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Pháp luật về kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.79 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THỊ NHUNG

PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT VỐN TẠI CÁC
DOANH NGHIỆP CÓ 100% VỐN NHÀ NƯỚC

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 62 38 01 07

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. DƯƠNG ĐĂNG HUỆ
2. TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Thị Mơ
Phản biện 2: TS. Đoàn Trung Kiên
Phản biện 3: TS. Nguyễn Thị Dung

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp trường,


Họp tại Trường Đại học Luật Hà Nội, vào hồi h ngày tháng năm 201

Có thể tìm hiểu luận án tại:
1) Thư viện Quốc gia;
2) Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội.


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Doanh nghiệp nhà nước nắm giữ những ngành kinh tế trọng yếu, then
chốt của đất nước, do đó, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân. Bên cạnh những thành quả mang lại cho nền kinh tế, doanh
nghiệp nhà nước cũng đã bộc lộ không ít hạn chế, yếu kém trong nhiều lĩnh
vực hoạt động của mình. Một lượng không nhỏ doanh nghiệp nhà nước sản
xuất, kinh doanh đạt hiệu quả thấp, chưa phát huy hết vai trò chủ lực trong
nền kinh tế, chưa tương xứng với lợi thế và sự đầu tư của nhà nước. Một số
doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài, không bảo toàn được vốn
nhà nước, thậm chí đã và đang trong tình trạng phá sản. Các doanh nghiệp nhà
nước có tình trạng đầu tư dàn trải, không tập trung vào ngành nghề kinh doanh
chính được nhà nước xác định, đầu tư vào những lĩnh vực nhạy cảm, rủi ro và
không thuộc thế mạnh như bất động sản, chứng khoán, ngân hàng... Ngoài ra, cơ
chế chính sách của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập, các
quy định về doanh nghiệp nhà nước chưa đầy đủ, thiếu hệ thống và có nhiều
khoảng trống pháp luật…
Như vậy, nhu cầu hoàn thiện pháp luật về kiểm soát vốn nhà nước là vô
cùng cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước của doanh nghiệp
có 100% vốn nhà nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận án là thông qua việc làm rõ những vấn đề lý
luận cơ bản liên quan đến hoạt động kiểm soát vốn nhà nước đầu tư tại doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước; phân tích rõ thực trạng của các quy định pháp luật
của nhà nước về vấn đề này; quán triệt những yêu cầu mới trong chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về phát triển doanh nghiệp nhà nước, luận án đề xuất một
số giải pháp pháp lý nhằm tăng cường hiệu quả của công tác kiểm soát vốn nhà
nước đầu tư tại doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, làm rõ những vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát vốn nhà
nước tại các doanh nghiệp mà nhà nước đầu tư 100% vốn.


2
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện
pháp luật về kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, qua đó
làm rõ những hạn chế, yếu kém của pháp luật hiện hành của Nhà nước ta về
kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
Ba là, đề xuất các nhóm giải pháp nhằm góp phần xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Một là, các quan điểm, lý thuyết về kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp
100% vốn nhà nước ở Việt Nam và trên thế giới;
Hai là, hệ thống các văn bản pháp luật của Việt Nam và của một số quốc
gia có điều kiện kinh tế - xã hội gần giống với Việt Nam liên quan đến kiểm
soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước;
Ba là, thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp
100% vốn nhà nước ở nước ta trong thời gian qua.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Hiện nay, Nhà nước ta đầu tư vào nhiều loại hình doanh nghiệp khác

nhau và với các mức độ rất khác nhau. Vốn của nhà nước không chỉ được
đầu tư vào công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu mà
còn có thể được đầu tư vào các doanh nghiệp khác như công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Tuy nhiên, để phù hợp
với tên đề tài luận án thì luận án không đề cập đến việc kiểm soát vốn của
nhà nước đầu tư vào mọi loại hình doanh nghiệp mà chỉ tập trung nghiên
cứu việc kiểm soát vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp do nhà nước đầu
tư 100% vốn. Đây thực chất là các công ty TNHH 100% vốn của nhà nước.
- Doanh nghiệp nhà nước (doanh nghiệp có 100% vốn của nhà nước) đã
được hình thành và tồn tại từ lâu ở nước ta, nhất là trong giai đoạn nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung trước đây. Tuy nhiên, do sự hạn chế về thời gian
cũng như về liều lượng (số trang) của một luận án tiến sĩ luật học, đồng thời
để đảm bảo tính hiệu quả cũng như ý nghĩa thực tiễn của các kết luận mà
luận án đưa ra, luận án này chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật về kiểm soát
vốn, tài sản của nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp trong những năm gần


3
đây, nhất là sau khi có Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014.
4. Những điểm mới của luận án
Luận án có một số điểm mới cơ bản như sau:
Thứ nhất, luận án tập trung vào việc tìm hiểu, nghiên cứu, hệ thống hoá
những quan điểm khoa học pháp lý và kinh tế có liên quan đến về việc kiểm
soát vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước. Đặc biệt là,
luận án đã xây dựng được cơ chế kiểm soát này thông qua việc làm rõ ba
yếu tố cấu thành của nó là: (1) chủ thể kiểm soát, (2) nội dung kiểm soát, (3)
phương tiện kiểm soát. Khi một trong ba yếu tố này có khiếm khuyết thì
việc kiểm soát của nhà nước đối với vốn, tài sản mà mình đã đầu tư vào
doanh nghiệp chắc chắn sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn.

Thứ hai, luận án phân tích, đánh giá một cách khách quan, trung thực
thực trạng pháp luật về kiểm soát vốn nhà nước tại các doanh ngiệp có
100% vốn nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh việc khẳng định một số
thành công nhất định, luận án đã làm rõ nhiều hạn chế, khiếm khuyết của
lĩnh vực pháp luật này thông qua việc phân tích các hạn chế, yếu kém trong
quy định của pháp luật liên quan đến 6 công cụ (phương thức) mà Nhà nước
ta đang sử dụng để kiểm soát vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
Thứ ba, qua việc nghiên cứu pháp luật của Việt Nam và một số nước
trên thế giới về kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước,
luận án đã đề xuất một số quan điểm và giải pháp để góp phần hoàn thiện
pháp luật, bảo đảm pháp luật về kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước được thực thi một cách nghiêm túc trong thực tiễn.
Trong số các kiến nghị có giá trị mà luận án đã đề xuất, có thể kể đến
một số kiến nghị sau đây:
Một là, kiến nghị về việc cần phải thay đổi địa vị pháp lý của Tổng Công
ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) từ là một công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên là nhà nước như hiện nay thành công ty cổ phần.
Hai là, kiến nghị về việc cần phải chấm dứt tình trạng manh mún, phân
tán, không có một đầu mối duy nhất và thống nhất trong việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu là nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung


4
và kiểm soát vốn do nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nói riêng bằng việc
sớm xây dựng một cơ quan chuyên trách với tên gọi là Ủy ban giám sát tài
sản nhà nước tại doanh nghiệp, trực thuộc chính phủ với đầy đủ quyền hạn
và năng lực chuyên môn để thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận án
- Về mặt lý luận: luận án tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về kiểm
soát vốn (như: khái niệm về doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước; cơ sở

của việc kiểm soát vốn nhà nước; công cụ (phương tiện) kiểm soát vốn;
pháp luật về kiểm soát vốn…)
- Về mặt thực tiễn: luận án không những đã chỉ ra những thành tựu mà
còn tập trung làm rõ những nhược điểm, hạn chế của cơ chế kiểm soát vốn
nhà nước tại các doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước ở Việt Nam, đồng
thời đã vạch ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các hạn chế đó. Đây là
cơ sở thực tiễn để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể căn cứ vào đó
mà đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm soát vốn nhà nước tại các
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở nước ta trong thời gian tới.
Như luận án đã khẳng định, kiểm soát vốn nhà nước tại các doanh nghiệp
không chỉ là công việc của Nhà nước Việt Nam mà đã từng và đang là công việc
của rất nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, nghiên cứu để tìm hiểu và vận dụng
một cách khoa học, sáng tạo kinh nghiệm của các nước đi trước trong lĩnh vực
này là vấn đề mà nhà nước ta đang rất quan tâm hiện nay. Để góp phần giải
quyết các vấn đề do thực tiễn Việt Nam đặt ra, luận án đã dành nhiều thời gian
và công sức để tìm hiểu, phân tích, đánh giá kinh nghiệm của một số nước có
điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng với Việt Nam như Trung Quốc, Hungary,
Singapore. Kinh nghiệm của các nước này, ví dụ như, ở Trung Quốc thành lập
Ủy ban giám sát và quản lý tài sản nhà nước (SASAC), ở Hungary thành lập
Công ty tư nhân hóa và quản lý tài sản nhà nước (APVRT), ở Singapore thành
lập Temasek (Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước) là rất có ý nghĩa đối
với thực tiễn hoàn thiện pháp luật và xây dựng các thiết chế để kiểm soát vốn
một cách có hiệu quả ở nước ta.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận án gồm 4 chương.


5
Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Trong mục này, tác giả luận án tham khảo các công trình nghiên cứu
trong nước có liên quan đến kiểm soát vốn đầu tư tại doanh nghiệp nói
chung và vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nói
riêng. Vì vấn đề kiểm soát vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp đang là
vấn đề bức xúc, được mọi tầng lớp trong xã hội quan tâm nên các công trình
nghiên cứu về vấn đề này cũng rất đa dạng. Vì vậy, các công trình được tác
giả phân tích trong mục này của luận án cũng rất phong phú, bao gồm sách
chuyên khảo, các công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ, các luận án tiến
sỹ (dưới góc độ luật học và kinh tế học), các bài viết được đăng tải trong các
tạp chí khoa học có uy tín của Nhà nước ta.
Xét về khía cạnh nội dung có liên quan đến đề tài luận án, các công trình
nghiên cứu này đã giải quyết được một số vấn đề sau đây:
Một là, bước đầu làm rõ các quan điểm khác nhau về vốn nhà nước; sự
cần thiết phải kiểm soát vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp; các hình
thức, biện pháp chủ yếu để kiểm soát vốn nhà nước đầu tư tại các doanh
nghiệp; vai trò của pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ này của Nhà
nước ta trong thời gian qua.
Hai là, phân tích được bức tranh hiện hành về thực trạng quản lý, sử
dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều khẳng định rằng, việc
sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp là kém hiệu quả, thể
hiện ở chỗ nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhiều nguồn lực của Nhà nước do
các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ đã và đang được sử dụng một cách lãng
phí, thất thoát, gây bất bình trong nhân dân và làm suy giảm đáng kể uy tín,
vai trò, sứ mệnh lịch sử của kinh tế nhà nước nói chung và các doanh nghiệp
nhà nước nói riêng.



6
Ba là, nêu và phân tích được các nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém hiệu
quả trong việc sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Các công trình
đã chỉ ra rằng, nguyên nhân của tình trạng này là rất đa dạng: nguyên nhân từ
phía pháp luật, nguyên nhân từ phía tổ chức thi hành pháp luật, nguyên nhân từ
phía bộ máy nhà nước… Tuy nhiên, có một nguyên nhân rất cơ bản của tình
trạng này là thiếu một cơ quan duy nhất và thống nhất, có đủ quyền lực để thay
mặt Nhà nước thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản, tiền vốn và
các nguồn lực khác đã được Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp.
Bốn là, đề xuất được một số giải pháp tương đối cụ thể nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp như: xóa bỏ chế độ
hành chính chủ quản; thay đổi phương thức quản lý vốn nhà nước từ quản lý
hành chính sang quan hệ đầu tư, kinh doanh vốn; hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC); tăng
cường công tác giám sát tài chính tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước và
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước…
Năm là, bước đầu đã đưa ra và phân tích được một số mô hình quản lý
vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp trên thế giới mà Việt Nam có thể
tham khảo để xây dựng cho mình một mô hình phù hợp với điều kiện kinh
tế- xã hội của Việt Nam.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong mục này, tác giả luận án tham khảo các công trình nghiên cứu
nước ngoài có liên quan đến đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án với
mục đích tìm hiểu xem, các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài
luận án đã từng được nghiên cứu và giải quyết như thế nào ở một số nước
trên thế giới, nhất là ở một số nước có điều kiện kinh tế-xã hội gần giống
với Việt Nam.
Qua nghiên cứu các công trình này cho thấy, một số vấn đề sau đây đã

được làm rõ và rất bổ ích cho việc nghiên cứu đề tài mà tác giả đã lựa chọn:
Một là, việc tồn tại doanh nghiệp nhà nước không phải là hiện tượng duy
nhất có ở các nước xã hội chủ nghĩa như Việt Nam mà còn tồn tại ở hầu hết
các nước phương Tây. Như vậy, sự tồn tại của các doanh nghiệp nhà nước là
một tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào chế độ chính trị và trình độ


7
phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia.
Hai là, kiểm soát vốn cũng là vấn đề mà các nước này rất quan tâm để
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Như vậy,
cũng như việc thành lập doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách quan
thì việc kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp đó cũng là một yêu cầu khách
quan đối với mọi Nhà nước.
Ba là, các nước cũng đang tìm các giải pháp nhiều mặt để nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn tại các doanh nghiệp nhà nước. Đáng lưu ý là trong số các
giải pháp đó có hai biện pháp cơ bản, đó là: (1) tư nhân hóa (cổ phần hóa)
các doanh nghiệp nhà nước để thay đổi cơ chế quản trị doanh nghiệp và (2)
tăng cường vai trò giám sát của Chính phủ trong công tác đầu tư vốn và
quản lý, sử dụng tài sản. Trong số các giải pháp mà các nước này nêu ra,
đáng quan tâm nhất là giải pháp về mặt tổ chức như thành lập các cơ quan
nhà nước phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của nước mình để thực hiện
việc quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Ví dụ, trong tác phẩm:
“Cải cách doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng ở Trung Quốc”, các tác giả
Becky Chiu và Mervyn K. Lewis đã cho biết sau khi gia nhập WTO, ở
Trung Quốc đã thành lập Ủy ban Giám sát tài sản nhà nước (SASAC) trực
thuộc Quốc Hội có thẩm quyền đặc biệt để thực hiện chức năng quản lý,
giám sát tài sản thuộc sở hữu Nhà nước; ban hành các chính sách liên quan
và thực hiện việc bổ nhiệm, miễn nhiệm các vị trí chủ chốt trong doanh
nghiệp nhà nước. Thực tiễn này của Trung Quốc là rất đáng được Việt Nam

quan tâm vì hai nước có nhiều điểm tương đồng về thể chế kinh tế, chính trí,
xã hội…
1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án có thể rút
ra một số nhận định sau đây:
Thứ nhất, kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước đã
được nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến. Tuy nhiên, vấn đề này được
nghiên cứu chủ yếu dưới góc độ kinh tế, theo chuyên ngành quản trị kinh
doanh, quản lý tài chính công, quản lý tài chính doanh nghiệp, đổi mới quản


8
lý vốn trong các DNNN mà có rất ít công trình nghiên cứu chuyên sâu dưới
góc độ pháp lý.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu từ khía cạnh pháp luật nhằm hoàn
thiện khung pháp luật cho kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước ở Việt Nam không những còn ít về số lượng mà còn thiếu chiều
sâu và đặc biệt là chưa có công trình độc lập nào nghiên cứu một cách hệ
thống các vấn đề liên quan đến kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp do nhà
nước đầu tư 100% vốn. Vì vậy, có thể khẳng định đề tài “Pháp luật kiểm
soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở Việt nam” mà tác giả
lựa chọn làm đề tài luận án tiến sỹ luật học là đề tài độc lập và không trùng
lặp với các công trình đã công bố.
Thứ ba, về thực trạng kiểm soát vốn tại các DNNN, các công trình
nghiên cứu đều có chung nhận định là ở Việt Nam, vấn đề kiểm soát vốn tại
các DNNN là rất yếu kém vì tỷ suất lợi nhuận trên vốn của các DNNN thấp
hơn nhiều so với các doanh nghiệp dân doanh, mặc dù các DNNN được ưu
đãi về tín dụng, về đất đai, về tiếp cận thị trường, về lợi thế cạnh tranh…
Nhiều doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thua lỗ, làm thất thoát vốn, tình
trạng các DNNN đầu tư ra ngoài ngành kinh doanh chính là phổ biến. Sự

kiện tập đoàn Vinashin là ví dụ điển hình cho thấy việc kiểm soát vốn tại
các DNNN ở Việt Nam yếu kếm đến mức nào?.
Thứ tư, các công trình đã bước đầu có nhiều nhận định đúng về nguyên
nhân của việc kém hiệu quả trong việc quản lý tài sản nhà nước đầu tư tại
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nói riêng.
Trong số đó có hai nguyên nhân chủ yếu là:
Một là, việc kiểm soát vốn tại các DNNN trên thực tế là rất khó thực
hiện một cách triệt để và có hiệu quả vì tài sản mà Nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp là tài sản chung, của toàn dân, của mọi người nên người được
giao trách nhiệm thay mặt Nhà nước quản lí tài sản đó chắc chắn sẽ không
bao giờ tận tụy với công việc như người chủ đối với tài sản riêng của mình.
Tóm lại căn nguyên của vấn đề là lợi ích, đúng như người Việt Nam có câu
“Cha chung không ai khóc”.


9
Hai là, ở nước ta, vấn đề kiểm soát vốn tại các DNNN được thực hiện
bởi nhiều cơ quan, nhiều cấp khác nhau nên bề ngoài có vẻ là chặt chẽ song
trên thực tế lại rất lỏng lẻo bởi không có ai phải chịu trách nhiệm khi doanh
nghiệp làm thất thoát vốn. Các tác giả cho rằng, hình như ở Việt Nam vấn
đề quản lý vốn tại các DNNN chưa có một người chủ cụ thể đích thực.
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Cơ sở lý thuyết
Luận án xây dựng các nhóm câu hỏi nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất, pháp luật về kiểm soát vốn tại doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước có gì khác biệt so với pháp luật về kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp
thuộc khối tư nhân?
Thứ hai, pháp luật về kiểm soát vốn tại doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước đã đáp ứng được các yêu cầu đặt ra chưa? Vì sao phải điều chỉnh bằng
pháp luật đối với hoạt động kiểm soát vốn tại doanh nghiệp 100% vốn nhà

nước? Các yêu cầu của việc kiểm soát vốn và các nhân tố tác động đến việc
điều chỉnh bằng pháp luật đối với việc kiểm soát vốn tại doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước là gì? Nội dung các quy định pháp luật về kiểm soát vốn tại
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước có đáp ứng được nhu cầu thực tiễn về đầu
tư, kinh doanh vốn nhà nước, điều kiện phải thoái vốn nhà nước tại những
lĩnh vực không quan trọng theo yêu cầu của hội nhập của kinh tế quốc tế?
Các quy định có tính đầy đủ, chặt chẽ và khả thi hay không? Có cần phải
ban hành, xây dựng thêm các văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát vốn
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hay không?
Thứ ba, cần có những giải pháp nào để hoàn thiện pháp luật và tăng
cường việc thực hiện pháp luật về kiểm soát vốn tại doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước hiện nay?
1.2.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong khoa học xã
hội, bao gồm: phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp
phân tích, phương pháp tiếp cận hệ thống… Tuy nhiên, các phương pháp này
không được sử dụng như nhau ở tất cả các chương của luận án. Xuất phát từ sự
khác nhau về yêu cầu, nội dung, tính chất của các vấn đề cần được nêu ra và giải


10
quyết ở từng chương mà luận án sẽ sử dụng các phương thức nghiên cứu khác
nhau, bảo đảm tính phù hợp giữa đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên
cứu.
Kết luận chương 1
Từ việc nghiên cứu các công trình khoa học trong và ngoài nước có liên
quan đến luận án: “Pháp luật về kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước” có thể rút ra một số kết luận sau đây:
1. Doanh nghiệp nhà nước (doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư 100% vốn
Điều lệ) không chỉ được thành lập và hoạt động ở nước ta mà còn ở nhiều

nước trên thế giới. Như vậy, sự tồn tại của các doanh nghiệp này không do
tính chất chính trị của Nhà nước quyết định (xã hội chủ nghĩa hay tư bản
chủ nghĩa) mà do tình hình phát triển kinh tế - xã hội của các nước. Về cơ
bản, phải có doanh nghiệp 100% vốn nhà nước vì có những việc (hàng hóa,
dịch vụ) tuy rất cần cho xã hội nhưng các doanh nghiệp tư nhân lại không
làm vì vậy, Nhà nước phải làm thay thông qua các doanh nghiệp do mình
đầu tư 100% vốn.
2. Để bảo toàn, phát triển vốn của mình đã đầu tư vào doanh nghiệp, Nhà
nước nào cũng phải có biện pháp để kiểm soát quá trình quản lý, sử dụng
vốn, tài sản này. Vì vậy, việc kiểm soát vốn nhà nước tại các doanh nghiệp
100% vốn nhà nước luôn là vấn đề được các nhà quản lý kinh tế quan tâm ở
các góc độ khác nhau như quản lý kinh tế, tài chính, quản trị doanh nghiệp,
cổ phần hoá…
3. Ở Việt Nam pháp luật về kiểm soát vốn tại các DNNN hiện còn nhiều bất
cập, hạn chế, do đó rất cần có một công trình nghiên cứu độc lập, chuyên sâu và
có hệ thống, nhằm đánh giá khách quan, khoa học về thực trạng pháp luật kiểm
soát vốn nhà nước tại các doanh nghiệp mà nhà nước đầu tư vốn 100%, từ đó
xây dựng cơ sở lý luận, thực tiễn để đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp
luật trong lĩnh vực này, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đầu
tư vào doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nói riêng.


11
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT VỐN
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP 100% VỐN NHÀ NƯỚC

2.1. Khái quát về vốn nhà nước và kiểm soát vốn tại các doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước
2.1.1. Khái niệm về vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp 100%

vốn nhà nước
- Khái niệm vốn nhà nước
Khái niệm vốn nhà nước được quy định tại nhiều văn bản pháp luật
nhưng đều có nội dung thống nhất, bao gồm nguồn vốn từ ngân sách, và các
nguồn vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh. Đối với phạm vi nghiên cứu của
Luận án, hiện nay, văn bản chủ yếu điều chỉnh trực tiếp vấn đề kiểm soát
vốn là Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh
tại doanh nghiệp năm 2014. Tại luật này, đã đưa ra những khái niệm về vốn
nhà nước tại doanh nghiệp, vốn của doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ
100% vốn điều lệ và đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp.
-

Quan niệm về DNNN và doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.

Qua tham khảo các quan điểm trên thế giới, theo tác giả, quan điểm của
OECD về DNNN là chính xác và bao quát nhất, bởi vì yếu tố quan trọng để
quyết định tính chất nhà nước của một doanh nghiệp không phải là ở số
lượng vốn mà nhà nước nắm giữ tại doanh nghiệp mà là ở quyền kiểm soát
của nhà nước đối với doanh nghiệp đó.
Tại Việt Nam, qua gần 20 năm, quan niệm về DNNN theo LDN 2014 lại
trở về (tương đồng) với khái niệm DNNN trong Luật DNNN 1995 và trong
Quy chế thành lập và giải thể DNNN ban hành kèm theo Nghị định số 388 –
HĐBT ngày 20/11/1991, theo đó doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do
Nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ. Tuy nhiên, với quan niệm như vậy, cách
hiểu về DNNN hiện hành của nước ta lại khác với cách hiểu về DNNN ở
nhiều nước trên thế giới. Đa số các nước quan niệm rằng, DNNN là doanh
nghiệp mà nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ như đã phân tích ở phần
đầu của tác giả.
-


Vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp 100% vốn nhà nước


12
Theo quy định hiện hành này, vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp
100% vốn nhà nước có một số đặc điểm đáng lưu ý, đó là: vốn nhà nước đầu
tư vào doanh nghiệp góp phần hình thành doanh nghiệp để doanh nghiệp
hoạt động; là nguồn vốn công, có thể đầu tư vì mục tiêu lợi nhuận hoặc công
ích; tỷ lệ vốn nhà nước đầu tư tương ứng với quyền của nhà nước trong
DNNN.
2.1.2. Khái niệm kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
- Khái niệm kiểm soát
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì kiểm soát là xem xét
để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định (đồng nghĩa với kiểm tra)
và đặt trong phạm vi quyền hành của mình.
Ngoài ra, Kiểm soát còn là một tiến trình gồm các hoạt động giám sát
nhằm đảm bảo rằng các hoạt động đó được thực hiện theo đúng như kế
hoạch và điều chỉnh những sai sót quan trọng.
-

Đặc trưng của kiểm soát vốn nhà nước tại doanh nghiệp 100%

vốn nhà nước
+ Về chủ thể kiểm soát: Chủ thể kiểm soát vốn nhà nước tại doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước là rất đa dạng, bao gồm: kiểm soát vốn thông
qua đại diện của chủ sở hữu; kiểm soát vốn thông qua hoạt động của Tổng
Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC); kiểm soát vốn thông
qua hoạt động kiểm soát nội bộ của các doanh nghiệp; Kiểm soát vốn thông
qua hoạt động kiểm toán; kiểm soát vốn thông qua pháp luật về đầu tư, tài
chính, đấu thầu và các quy định khác có liên quan.

+ Về nội dung của kiểm soát: Nội dung kiểm soát vốn nhà nước tại
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước bao gồm: kiểm soát việc sử dụng vốn và
tài sản trong phạm vi doanh nghiệp; kiểm soát vốn đầu tư ra ngoài doanh
nghiệp; kiểm soát việc bảo toàn và phát triển vốn; kiểm soát việc phân phối
lợi nhuận sau thuế.
2.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới việc kiểm soát vốn nhà nước tại các
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
Luận án đã làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến việc kiểm soát vốn nhà
nước tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, bao gồm:


13
- Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ;
- Cơ chế quản lý kinh tế được áp dụng đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh nói chung và đối với doanh nghiệp nhà nước nói riêng;
- Sự kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DNNN.
2.2. Cơ sở lý luận của việc kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước.
Việc Nhà nước phải kiểm soát vốn của mình đã đầu tư vào doanh nghiệp
nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng không phải là một hoạt động
tùy tiện mà được xuất phát từ những lý do nhất định. Luận án đã làm rõ 3 lý
do cơ bản sau đây:
Một là, xuất phát từ quyền của chủ sở hữu.
Khi Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thì Nhà
nước đã thành lập ra một pháp nhân mới - doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước. Với tư cách là một pháp nhân, doanh nghiệp nhà nước có quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản mà nhà nước giao một cách độc lập
trong khuôn khổ do pháp luật quy định. Để tài sản của mình đầu tư vào
doanh nghiệp nhà nước được sử dụng một cách tiết kiệm, đúng mục đích, có
hiệu quả kinh tế cao thì Nhà nước có quyền sử dụng các biện pháp kinh tế,

hành chính, pháp lý và một trong các biện pháp đó là việc kiểm soát vốn.
Hai là, xuất phát từ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.
Việc theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn tại các doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước sẽ giúp các cơ quan quản lý kinh tế nắm bắt được tình hình tài
chính nói riêng và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nói chung, qua đó có căn cứ để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính
sách pháp luật cho phù hợp với thực tiễn.
Ba là, xuất phát từ yêu cầu hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp.
Hạch toán kinh doanh là phạm trù kinh tế, thể hiện phương thức quản lý
và cách tính toán kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước cũng là một loại hình doanh nghiệp nên phải hoạt
động theo phương pháp này, tức là cũng phải lấy thu bù chi, kinh doanh có lãi và
phần lợi nhuận sau thuế sẽ thuộc về Nhà nước. Nhà nước sử dụng nguồn lợi nhuận
này để duy trì, tái sản xuất, mở rộng hoặc để đáp ứng các nhu cầu khác của mình.


14
Do đó, để lợi nhuận sau thuế được tối đa hóa thì Nhà nước phải kiểm soát phần
vốn của mình để nó được sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
2.3. Pháp luật về kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước ở Việt Nam và một số nước trên thế giới.
2.3.1. Pháp luật về kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước ở Việt Nam.
- Pháp luật về kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở
Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình kiểm soát
việc đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước tại doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
nhằm bảo toàn, sử dụng có hiệu quả và phát triển vốn do Nhà nước đầu tư
vào doanh nghiệp.
- Pháp luật về kiểm soát vốn nhà nước tại doanh nghiệp 100% vốn nhà

nước gồm các bộ phận (thành tố) sau đây:(i) Các quy định về kiểm soát việc
sử dụng vốn và tài sản trong phạm vi doanh nghiệp; (ii) Các quy định về
kiểm soát vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp; (iii) Các quy định về bảo toàn
và phát triển vốn; (iv) Các quy định về phân phối lợi nhuận sau thuế.
2.3.2. Pháp luật về kiểm soát vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp
một số nước trên thế giới.
Kiểm soát vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp không phải là chức
năng duy nhất, đặc trưng riêng có của các nước xã hội chủ nghĩa mà còn là
một hiện tượng rất phổ biến ở các nước tư bản. Vì vậy, tại mục này, tác giả
đi sâu nghiên cứu pháp luật về kiểm soát vốn của một số nước trên thế giới,
qua đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như: Trung Quốc,
Hungary, Singapore...
Kết luận chương 2
1. Về bản chất, phần vốn nhà nước đầu tư vào DNNN nói chung, doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước nói riêng đều thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước
thống nhất quản lý. Về mặt lý luận, cũng như về mặt thực tiễn như đã phân tích
ở trên, trong thời gian qua, các văn bản pháp luật về DNNN đã không phân tách
được một cách rõ ràng chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý của
chủ sở hữu đối với DNNN. Thực trạng phổ biến là có nhiều cơ quan nhà nước


15
thực hiện song hành 02 vai trò, vừa là chủ thể quản lý nhà nước, vừa là chủ thể
đại diện sở hữu DNNN. Bằng những phân tích về mặt lý luận, cho thấy để việc
đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu DNNN đạt hiệu quả tốt thì cần phải giải quyết vấn
đề này triệt để bằng công cụ luật pháp.
2. Kiểm soát vốn là hoạt động không thể không làm của bất cứ nhà đầu
tư nào, bất luận nhà đầu tư đó là tư nhân hay nhà nước. Tuy nhiên, nội dung,
phương thức kiểm soát đối với các chủ sở hữu vốn khác nhau là khác nhau.
Điều này lý giải tại sao đối với các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thì

Nhà nước ta lại phải ban hành nhiều văn bản pháp luật và thành lập thêm
nhiều thiết chế (cơ quan, công ty) để thực hiện một cách có hiệu qua việc
giám sát, kiểm tra quá trình sử dụng các tài sản mà Nhà nước đã giao cho
các doanh nghiệp nhà nước sử dụng.
3. Kiểm soát vốn là một hoạt động có ý thức của con người và nó chỉ
được tiến hành một cách bình thường khi các yếu tố cấu thành của nó được
quy định một cách hợp lý. Luận án đã làm rõ các yếu tố cấu thành của kiểm
soát vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước, đó là
các yếu tố về chủ thể kiểm soát, về các phương thức kiểm soát và về nội
dung cụ thể của hoạt động kiểm soát. Đây là ba bộ phận cấu thành của cơ
chế kiểm soát tài sản nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp có 100% vốn nhà
nước. Sự yếu kiếm, hạn chế, khiếm khuyết của bất cứ bộ phận nào trong cơ
chế này sẽ làm suy yếu tính hiệu quả của hoạt động này.
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT VỐN
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP 100% VỐN NHÀ NƯỚC

3.1. Các phương thức kiểm soát vốn nhà nước tại các doanh nghiệp
100% vốn nhà nước.
Ở nước ta, việc kiểm soát vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước được thực hiện thông qua nhiều hình thức, phương thức khác
nhau do các chủ thể khác nhau thực hiện mà không do một chủ thể (cơ quan,
tổ chức) duy nhất thực hiện.
Trên thực tế có 5 phương thức kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước là:


16
-


Kiểm soát vốn thông qua đại diện của chủ sở hữu nhà nước;

-

Kiểm soát vốn thông qua của Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh

vốn nhà nước (SCIC);
-

Kiểm soát vốn thông qua hoạt động kiểm soát nội bộ của doanh

nghiệp;
-

Kiểm soát vốn thông qua hoạt động kiểm toán;

-

Kiểm soát vốn thông qua giám sát đầu tư, giám sát tài chính.

Để mỗi phương thức kiểm soát vốn nêu trên có thể vận hành được thì Nhà
nước phải ban hành các văn bản pháp luật tương ứng để quy định về chủ thể
thực hiện việc kiểm soát, công cụ kiểm soát và nội dung kiểm soát. Như vậy,
mỗi một phương thức kiểm soát có một hệ thống quy định pháp luật tương ứng
với tư cách là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và vận hành của phương thức kiểm
soát đó. Vì vậy, tại chương này, để làm rõ thực trạng pháp luật về kiểm soát vốn
nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, tác giả luận án tập
trung phân tích thực trạng các quy định pháp luật của Nhà nước ta liên quan đến
5 phương thức kiểm soát nêu trên. Tại mỗi phương thức kiểm soát, tác giả trình
bày các ưu điểm cũng như hạn chế trong pháp luật liên quan đến các phương

thức kiểm soát vốn đó, đồng thời nêu rõ các nguyên nhân của thành công cũng
như của hạn chế.
3.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát vốn nhà nước tại các
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
3.2.1. Những kết quả đạt được của hoạt động kiểm soát vốn nhà nước
- Những kết quả tích cực:
Thứ nhất, bước đầu đổi mới phương thức quản lý, kiểm soát vốn nhà
nước sang phương thức đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước thông qua mô
hình hoạt động của Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
(SCIC);
Thứ hai, thông qua hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện về
kiểm soát vốn nhà nước tại doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đã hạn chế
được phần nào những tiêu cực, tạo tiền đề giúp thực hiện chủ trương tái cơ
cấu DNNN trong thời gian qua.
-

Những hạn chế, yếu kém:


17
Thứ nhất, về cơ bản, pháp luật về kiểm soát vốn nhà nước tại các doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước chưa được thực hiện nghiêm chỉnh, làm cho
việc sử dụng vốn nhà nước không đạt hiệu quả như mong muốn; tình trạng
thất thoát vốn, tài sản nhà nước vẫn còn rất phổ biến.
Thứ hai, Việc phân công trách nhiệm giám sát doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước bị phân tán về đầu mối và nội dung giám sát, thiếu cơ quan đầu
mối phối hợp, gây ra rất nhiều khó khăn, lúng túng cho cơ quan thực hiện
chức năng giám sát, đồng thời lại “làm khổ” các doanh nghiệp do có thể bị
giám sát bởi rất nhiều cơ quan khác nhau và trong nhiều trường hợp doanh
nghiệp không thể nắm được cơ quan nào là cơ quan đầu mối ở cấp Bộ để

trao đổi khi cần thiết.
Thứ ba, Hệ thống tiêu chí kiểm soát, giám sát còn mang tính định tính,
chưa định lượng cụ thể, rõ ràng.
3.2.2. Một số nhận xét, đánh giá tổng quan.
Thứ nhất, Chưa phân công, phân cấp rõ ràng giữa các chủ thể trong kiểm
soát vốn nhà nước.
Thứ hai, Các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chưa xây dựng được hệ
thống kiểm soát nội bộ thống nhất, có quy trình kiểm soát rõ ràng, đồng bộ.
Thứ ba, Quy định về khen thưởng cho người quản lý doanh nghiệp,
Kiểm soát viên còn cứng nhắc, thiếu linh hoạt, từ đó hạn chế động lực
làm việc.
Kết luận chương 3
1. Hệ thống pháp luật hiện hành về kiểm soát vốn nhà nước tại doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước là tương đối đồ sộ, bao gồm các văn bản quy
phạm pháp luật từ văn bản Luật tới các Nghị định, thông tư hướng dẫn,
thậm chí là những công văn mang tính chỉ đạo điều hành đối với DNNN.
Tuy nhiên, xét về nội dung thì pháp luật về lĩnh vực này vẫn còn nhiều hạn
chế, trong đó đáng lưu ý nhất là hai hạn chế sau đây:
Một là, việc phân công trách nhiệm giám sát doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước phân tán về đầu mối và nội dung giám sát, thiếu cơ quan đầu mối
phối hợp.


18
Hai là, hệ thống tiêu chí kiểm soát, giám sát còn mang tính định tính,
chưa định lượng cụ thể, rõ ràng.
Thời điểm hiện tại, khi thực hiện luận án tiến sỹ, cũng đã có nhiều văn
bản được sửa đổi, điều chỉnh. Tuy nhiên, việc sửa đổi hay điều chỉnh các
quy định nói trên đến nay, theo đánh giá chủ quan của tác giả luận án vẫn
chưa theo kịp sự phát triển của DNNN nói chung và doanh nghiệp 100%

vốn nhà nước nói riêng.
2. Việc thực thi các quy định pháp luật về kiểm soát vốn nhà nước tại
các doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước về cơ bản là kém hiệu quả mà chủ
yếu là thực hiện không đúng quy định đối với hoạt động kiểm soát, quản lý,
sử dụng vốn nhà nước gây thất thoát, lãng phí vốn. Những báo cáo của các
cơ quan có thẩm quyền về thất thoát vốn của doanh nghiệp nhà nước đều là
những con số khổng lồ đã được nêu trong chương 3 luận án.
3. Tình hình sử dụng vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp
100% vốn nhà nước về cơ bản là không được cải thiện. Thực tế công tác
thanh tra, kiểm toán đã cho thấy rất rõ rằng, tình trạng sử dụng vốn không
hiệu quả, thất thoát tài sản tại các doanh nghiệp này là rất phổ biến. Nguyên
nhân của tình trạng này không chỉ nằm ở tính chưa hoàn thiện của pháp luật
mà còn chủ yếu ở sự yếu kém của quá trình tổ chức thi hành pháp luật của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như của chính bản thân doanh
nghiệp nhà nước.
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SOÁT VỐN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP 100% VỐN NHÀ
NƯỚC
4.1. Căn cứ của việc đề ra quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về kiểm soát vốn nhà nước tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước.
Căn cứ vào kế hoạch tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước.
Ba trọng tâm tái cơ cấu các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước bao gồm:
Một là, tuyên bố rõ chính sách sở hữu nhà nước ở doanh nghiệp, thúc đẩy cổ
phần hóa, đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ


19
100%; Hai là, chấm dứt thí điểm tập đoàn, thoái vốn ngoài ngành, tập trung

vào ngành kinh doanh chính, Ba là áp dụng quản trị tiên tiến theo thông lệ
quốc tế đối với các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước.
Căn cứ từ thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước.
Việc kiểm soát vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước nói chung,
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nói riêng cần phải căn cứ vào hiệu quả
sản xuất kinh doanh, lợi nhuận thực sự của Kinh tế nhà nước. Kiểm soát đến
đâu, giám sát thế nào?... tất cả cũng vì mục đích hoạt động có hiệu quả thực
sự của doanh nghiệp nhà nước.
4.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát vốn tại các doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước.
Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước phải đặt trong tổng thể hoàn thiện pháp luật về tài chính, kế toán,
thống kê, kiểm toán. Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát vốn tại các doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước một mặt đảm bảo quyền năng của chủ sở hữu,
mặt khác phải đảm bảo quyền tự chủ tài chính, tự do kinh doanh của doanh
nghiệp.
4.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát vốn nhà
nước tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
4.3.1. Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát vốn nhà nước tại các doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước.
4.3.1.1. Sửa đổi, bổ sung những quy định về tổ chức và hoạt động của
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước( SCIC).
Tác giả cho rằng phải thực hiện một số giải pháp sau:
Một là: Đổi mới hơn nữa hình thức pháp lý của SCIC.
Về lâu dài, để đẩy mạnh hoạt động của SCIC trong nền kinh tế thị
trường và hội nhập, nên xây dựng SCIC là công ty cổ phần. Là công ty cổ
phần, tác giả cho rằng SCIC thực sự sẽ là tổ chức kinh doanh vốn của nhà
nước, tránh tình trạng “bình mới rượu cũ”.
Hai là: hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm tạo thuận lợi cho SCIC hoạt

động.


20
Cần ban hành những văn bản pháp luật độc lập tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho SCIC hoạt động, qua đó xác định rõ ràng địa vị pháp lý của
công ty này. Trong đó cần chú trọng những vấn đề sau:
- Mở rộng phạm vi hoạt động, quyền độc lập, tự chủ của SCIC trong các
hoạt động đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là đầu tư trên thị trường chứng khoán
thông qua việc mua, bán cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ tài chính khác.
- Bên cạnh đó, cần có cơ chế thích để những người đại diện phần vốn
nhà nước “ngồi đúng chỗ”, tránh ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp,
cũng như sự hào hứng của khu vực tư nhân đối với việc mua cổ phần.
- Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm nước ngoài và thực tế tại Việt Nam,
SCIC cần được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc quản trị doanh
nghiệp tiên tiến, trong đó, yêu cầu công khai, minh bạch về tài chính luôn
được đặt lên hàng đầu và được coi là tiêu chí để đánh giá hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp.
Ba là: nên thành lập các công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước ở
các địa phương để khắc phục tình trạng SCIC phải quản lý nguồn vốn nhà
nước tại khá nhiều doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả quản lý, tránh tình
trạng thất thoát vốn.
4.3.1.2. Xây dựng những công cụ đánh giá người đại diện chủ sở hữu
nhà nước tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
Có 2 hình thức được sử dụng phổ biến để xây dựng các tiêu chí đánh giá
mức độ hoàn thành công việc của người đại diện gồm: Phương pháp đánh
giá theo các nhóm năng lực chính; phương pháp đánh giá sử dụng các chỉ số
đo lường hoạt động chính (KPI) dựa trên Thẻ điểm cân bằng (Balance score
card – BSC)
* Phương pháp đánh giá theo nhóm năng lực chính

Người đại diện sẽ được đánh giá định kỳ hàng năm dựa trên 5 nhóm
năng lực chính: Năng lực lãnh đạo, đạo đức và trung thực, sự cam kết và tham
gia, khả năng giao tiếp, kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng. Với mỗi tổ chức
khác nhau, các chỉ số đo lường cụ thể đối với mỗi nhóm năng lực trên cũng sẽ
khác nhau.
* Phương pháp đánh giá sử dụng các KPI dựa trên thẻ điểm cân bằng


21
Phương pháp đánh giá theo thẻ điểm cân bằng
- Tài chính: Chỉ tiêu tài chính phản ánh rõ nét tình hình hoạt động của
doanh nghiệp. Chỉ tiêu này chỉ áp dụng đối với các thành viên Hội đồng
quản trị tham gia điều hành. Các thành viên không tham gia điều hành
không có chỉ tiêu tài chính để đảm bảo sự độc lập trong việc đưa ra các
quyết định chiến lược.
- Các bên liên quan/Khách hàng: Chỉ tiêu này khẳng định tầm quan trọng
của việc lấy khách hàng làm trọng tâm và sự hài long của khách hàng đối
với sự phát triển của doanh nghiệp.
- Quy trình nội bộ: Các quy trình kinh doanh nội bộ của doanh nghiệp
phản ánh hoạt động của doanh nghiệp và mức độ đáp ứng nhu cầu khách
hàng của các sản phẩm và dịch vụ
- Kiến thức và sự phát triển trong tổ chức: Bao gồm công tác đào tạo cho nhân
viên và văn hóa doanh nghiệp liên quan tới sự tiến bộ từng cá nhân và tổ chức.
Mỗi chỉ tiêu có tỷ lệ/trọng số khác nhau trong từng doanh nghiệp và tùy
thuộc vào từng giai đoạn, chiến lược/mục tiêu của chủ sở hữu đối với từng
doanh nghiệp có vốn góp.
4.3.2. Thành lập cơ quan chuyên trách về đại diện chủ sở hữu nhà
nước nhằm kiểm soát vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
Về mô hình tổ chức.
Thành lập cơ quan chuyên trách thuộc Chính phủ dưới tên gọi là Ủy ban

giám sát vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, thực hiện chức năng đại
diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
Về nhiệm vụ và quyền hạn.
Cơ quan chuyên trách có 03 nhóm nhiệm vụ chủ yếu:
(i) Nhóm nhiệm vụ liên quan đến kiểm soát, quản lý, giám sát doanh
nghiệp nhà nước và phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp cụ thể được
giao quản lý; (ii) Nhóm nhiệm vụ tham mưu giúp Chính phủ thực hiện chức
năng thống nhất tổ chức thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước
đối với vốn, tài sản nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong phạm vi
toàn quốc; (iii) Nhóm nhiệm vụ mà một cơ quan thuộc Chính phủ cần thực
hiện theo yêu cầu của pháp luật, bao gồm: Chiến lược, chương trình, quy


22
hoạch, kế hoạch; tổ chức thực hiện dịch vụ công; hợp tác quốc tế; chương
trình cải cách hành chính; chế độ thông tin, báo cáo; tổ chức bộ máy và quản
lý tài chính, tài sản của cơ quan.
4.3.3. Các giải pháp tăng cường tính công khai thông tin và minh bạch
hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước
Hiện nay Nghị định 81/2015/NĐ-CP về công bố thông tin của doanh
nghiệp Nhà nước ban hành ngày 18/9/2015 có hiệu lực từ 5/11/2015 đã quy
định cơ bản về những thông tin quan trọng cần được minh bạch của doanh
nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, cũng cần bổ sung thêm một số nội dung quan
trọng để việc công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước thật sự hiệu quả
và là một “kênh” để kiểm soát vốn Nhà nước.
Kết luận chương 4
1. Thực tiễn cho thấy, mặc dù trong những năm qua Nhà nước ta đã
thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tài sản do Nhà
nước đầu tư tại doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp có 100% vốn nhà
nước nói riêng. Tuy nhiên, nhìn chung các nỗ lựu này đều chưa thể mang lại

kết quả như mong muốn. Vì vậy, hiện nay, vấn đề tìm giải pháp bao gồm cả
giải pháp về mặt pháp lý và giải pháp về mặt tổ chức đang được đặt ra một
cách cấp bách.
2. Để thực hiện được mục tiêu nêu trên thì các giải pháp đưa ra cần
phải đồng bộ, đa dạng. Trong số các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, theo tôi có hai giải pháp rất cơ bản,
đó là:
Thứ nhất, cần nhanh chóng và kiên quyết thay đổi địa vị pháp lý của
Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (từ là một công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên là nhà nước thành công ty cổ phần).
Thứ hai, thành lập cơ quan chuyên trách nhằm thực hiện một cách đầy
đủ, thống nhất, liên tục các quyền của chủ sở hữu là nhà nước nhằm kiểm
soát một cách có hiệu quả vốn tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
Đây là chủ trương đã được nêu rõ tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của
Đảng. Việc hiện thực hóa chủ trương này bằng việc ban hành các quy định
pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng cơ quan chuyên trách này là


23
công việc cần thiết hiện nay. Cơ quan chuyên trách này sẽ là một đầu mối
quan trọng trong cơ chế kiểm soát vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp ở
nước ta trong thời gian tới.
Thứ ba, xây dựng và ban hành sớm những công cụ đánh giá người đại
diện chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Bộ
công cụ đánh giá này chính là thước đo định lượng chính xác nhất hiệu quả
hoạt động của những người đại diện này, thông qua đó sẽ đẩy mạnh được
việc kiểm soát vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.



×