Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO bài GIẢNG y học cổ TRUYỀN một số NGUYÊN tắc điều TRỊ BỆNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.08 KB, 13 trang )

một số nguyên tắc điều trị (principles of treatment)
1. Về mặt sử dụng thuốc.
Thường vận dụng quan hệ biểu lý,
Quan hệ sinh khắc giữa tạng và phủ thành nguyên tắc bổ tả trong trị
liệu.
1.1. Phải biết phối hợp giữa âm và dương.
Khi thận dương cang thịnh, thận âm bất túc xuất hiện hội chứng dương
vượng, điều trị thường dùng đại bổ thận âm
Ví dụ: dùng lục vị địa hoàng hoàn để tư thận thủy mà chế ước thận dương gọi là
hiệp pháp, làm cho thận thủy đầy đủ thì chứng thận hoả cang thịnh sẽ tự biến mất .
Cách chữa như vậy gọi là “tráng thủy chế hoả”.
Trái lại nếu thận âm quá thịnh, thận dương hư suy sẽ xuất hiện chứng âm hàn , điều
trị thường dùng đại bổ thận dương
Ví dụ: dùng kim quĩ thận khí hoàn để ích thận dương để tiêu âm uế ,cũng gọi là hiệp
pháp làm cho thận dương đầy đủ thì triệu chứng âm hàn tự tiêu trừ,
pháp chữa này gọi là “ích hoả tiêu âm”. Đó là cách nhìn chỉnh thể của y lý cổ
truyền.
1.2. Bổ tả gián tiếp.
Khi một tạng nào đó bị bệnh, có thể tả tạng con của nó để điều trị bệnh của
tạng mẹ, thường gọi phương pháp điều trị này là “thực tắc tả con – thực tắc tả kỳ
tử”.
Ví dụ: can dương thượng cang, can uất hóa hoả;
Mặt đỏ, đau đầu, cáu gắt, nóng nảy, tâm phiền bất miên, khi điều trị ngoài việc
phải bình can tiềm dương còn có thể tả tâm hỏa, thường chữa như vậy sẽ đạt
hiệu quả tốt hơn.
Bổ tả gián tiếp còn có thể vận dụng khi một tạng nào đó hư nhược, ngoài việc
bổ ích tạng đó còn xuất phát từ quan điểm chỉnh thể mà bổ ích một tạng khác có quan
hệ mất thiết với nó, nguyên tắc điều trị này thường được gọi là “hư tắc bổ kỳ mẫu”.


Ví dụ: bệnh nhân bị phế lao nếu lâu ngày không khỏi, điều trị có thể bổ tỳ ích phế


cũng chính là hiệp pháp bồi thổ sinh kim.
1.3. Biểu lý hỗ trị.
Giữa tạng và phủ có quan hệ biểu lý nhất định.
Nếu như biểu lý đồng bệnh có thể sử dụng phương pháp hiệp điều biểu lý hỗ
trị.
Ví dụ: chứng lý nhiệt, đại tiện táo kết dẫn đến khí tụ tắc nhưng vì phế có quan
hệ biểu lý với đại trường, vì vậy dùng bài thuốc “lương cách tán” dụng ý lấy tả
hỏa ở đại trường mà thanh phế khí.
Nếu như tâm đa nhiệt vụ tiểu trường; miệng lưỡi sinh nhọt, tiểu tiện ngắn
đỏ, vì tâm và tiểu trường có quan hệ biểu lý, vì vậy thường dùng “đạo xích tán”
để thanh tâm hỏa mà tả được nhiệt ở tiểu trường.
1.4. Dựa vào ngũ tạng để điều trị bệnh ngũ quan.
Ngũ tạng và ngũ quan có quan hệ mật thiết,
Ngũ quan có bệnh có thể lấy ngũ tạng để điều trị.
Ví dụ: bệnh mắt thực chứng có thể dùng phương thuốc thanh can,
chứng hư có thể dùng phương thuốc bổ can
Mồm lưỡi sinh nhọt có thể dùng thuốc thanh tâm hoả để điều trị.
5.2. Dùng châm cứu điều trị.
Y học cổ truyền thường xuất phát từ quan niệm chỉnh thể,
Vận dụng nguyên tắc chọn phương huyệt
Ví dụ: thượng bệnh hạ thủ, trị can dương khang thịnh nhóm cao huyết áp thường
chọn dũng tuyền hoặc thái xung,
Trái lại hạ bệnh thượng thủ ,trị thoát giang thường cứu bách hội,
Phối hợp du mộ, nguyên lạc là biểu lý; phối ngũ trước, sau, thượng hạ và tả hữu phối
ngũ.
5.3. Coi trọng nguyên nhân sinh bệnh, xử lý chính xác quan hệ giữa chính với tà.
Theo phép duy vật biện chứng tự phát của y học cổ truyền cho rằng


“ngoại nhân là điều kiện biến hóa, nội nhân là căn cứ gốc rễ của sự biến hóa,

ngoại nhân thông qua nội nhân để phát huy tác hại cho cơ thể”.
Quá trình bệnh tật của cơ thể người thực tế là quá trình đấu tranh giữa hai mặt luôn
luôn mâu thuẫn. Sức đề kháng của cơ thể hay còn gọi là chính khí (yếu tố nội
nhân) với nhân tố gây bệnh (tà khí), yếu tố ngoại nhân.
Bài thuốc lương cách tán:
Đại hoàng 20 lượng, mang tiêu 20 lượng, cam thảo 20 lượng, chi tử 10 lượng,
hoàng cầm 10 lượng, lá bạc hà 10 lượng, liên kiều 40 lượng.
Mỗi lần uống 10 – 20g, ngày một đến hai lần có thể gia trúc diệp 16g và mật ong
cùng uống.
Bài thuốc đạo xích tán: sinh địa, mộc thông, cam thảo, trúc diệp.
Điều trị bệnh tức là thông qua nghệ thuật, thủ pháp sử dụng thuốc giúp đỡ
cơ thể để chiến thắng bệnh tật, giải quyết mâu thuẫn, hồi phục sức khoẻ,
Vì vậy công tác điều trị lâm sàng trước hết và trên hết phải chú trọng yếu tố nội
nhân, thừa nhận trạng thái tinh thần là yếu tố quan trọng, tinh thần phấn chấn vui vẻ
thì phát huy được tính tích cực bên trong cơ thể (chính khí), đó chính là quan hệ biện
chứng giữa “chính” với “tà”.
Về mặt điều trị, mục tiêu căn bản của y học cổ truyền là cải biến tương
quan giữa chính khí và tà khí, thúc đẩy chuyển hóa bệnh theo hướng khỏi bệnh.
Các loại thủ thuật ,thủ pháp sử dụng thay đổi trong điều trị tuy phong phú đa dạng
nhưng đều không ngoài mục đích có tính nguyên tắc là “phù chính khứ tà”.
Nguyên tắc chung trong điều trị được khái quát trên mấy điểm sau đây.
1. Phù chính để khứ tà.
Là vận dụng thuốc, dinh dưỡng, rèn luyện cơ thể, dưỡng sinh nhằm giúp đỡ
chính khí, tăng cường thể chất nâng cao sức đề kháng cơ thể để tự nó trừ đuổi tà khí,
giúp cho cơ thể khôi phục sức khoẻ chiến thắng tà khí,
Vận dụng nguyên tắc như thế gọi là “lấy phù chính để khứ tà”, tuy nhiên trên
lâm sàng phải linh hoạt vận dụng ở chỗ chính khí hư là chính, phân tích tỉ mỉ cụ thể
sử dụng các loại thuốc bổ ích; trợ dương, tư âm hay ích khí, bổ khí.



2. Khứ tà để phù chính.
Vận dụng mọi thủ thuật, thủ pháp châm cứu, chườm xoa để trừ tà.
Mục đích để trừ tà phù chính, thích hợp với thể bệnh tà thịnh, chính khí hư.
Vì chính hư, tà thịnh là mâu thuẫn chủ yếu, trên lâm sàng có thể căn cứ vào
bệnh tình cụ thể chọn dụng pháp hãn (khi tà ở biểu), thổ pháp khí tà (ở lý, ở
trên), hạ pháp nếu tà ở lý ở dưới và hoà pháp nếu tà bán lý, bán biểu, ôn pháp
nếu là hàn chứng, thanh pháp néu là nhiệt chứng, tiêu pháp nếu là tà khí tích tụ
thực chứng phối hợp với bổ pháp là những phương pháp điều trị cơ bản trong
nguyên tắc điều trị đông y.
3. Công bổ kiêm trị
Vì bệnh tình phức tạp, quan hệ giữa tà chính biến hóa muôn vẻ,
Vì vậy trong điều trị phải kết hợp giữa biện chứng chặt chẽ cả hai mặt phù
chính, khứ tà, khứ tà để phù chính và phù chính để khứ tà phù hợp với sự biến
hóa không ngừng của bệnh tật.
Xác định chính xác phương châm điều trị; nếu như tà thịnh, chính suy thì tà
thực là chính, tất nhiên phải nhấn mạnh khứ tà nhưng cũng phải thêm thuốc
phù chính hoặc bệnh diễn biến kéo dài. Do tà tồn tại làm chính khí hư suy hoặc
đại hư phải chú trọng phù chính nhưng cũng phải thêm thuốc trừ tà.
Ngoài ra còn tùy theo diễn biến của bệnh mà vận dụng trước bổ sau công, trước
công sau bổ hoặc phải vận dụng nguyên tắc thanh ôn tiên bổ phối hợp.
4. Nguyên tắc đ/trị cơbản là:tiêu bản, hoãn cấp, chính trị và phản trị.
4.1. Tiêu bản hoãn cấp.
- Tiêu và bản là một khái niệm tương đối chỉ rõ hai mặt quan hệ chủ thứ
(mâu thuẫn luôn luôn song song tồn tại) trên một bệnh hoặc một chứng
bệnh.
- Về quan hệ giữa chính và tà có thể nói chính khí của cơ thể là bản,
ngoại nhân là tiêu.


- Cấp tắc trị kỳ tiêu: trong quá trình bệnh tật, xuất hiện các triệu chứng

nặng lên, nếu không sử lý khẩn cấp sẽ ảnh hưởng đến sự an nguy của
người bệnh nên phải lấy trị tiêu làm trọng để cứu bệnh nhân ra khỏi
tình trạng cấp cứu.
- Ví dụ: trong xơ gan ngạnh kết phúc thủy; bệnh nhân khó thở do lượng
dịch cổ chướng nhiều, không nằm co được, vật vã, nhị tiện đều bí,
không thể nhấn mạnh dưỡng can sơ can mà phải nhấn mạnh công hạ,
giải trừ phúc thủy, giải quyết chứng tiêu sau đó mới trị bản.
- Hoãn tắc trị kỳ bản: phải chú ý đến điều trị bản chất của bệnh.
- Ví dụ: trong lao phổi, khái thấu là tiêu, âm hư là bản, khi điều trị
không phải chỉ chú ý đến chỉ khái trừ đàm để trị tiêu mà quan trọng là
trị bản phải tư âm nhuận phế, chỉ có nâng cao sức đề kháng cơ thể mới
điều trị khỏi bệnh lao.
- Tiêu bản kiêm trị: trong giai đoạn cả triệu chứng tiêu bản đều khẩn cấp
phải vận dụng tiêu bản cùng trị.
- Ví dụ: bệnh nhân khái thấu, tức ngực, đau lưng, đái ít, toàn thân phù
thũng (viêm thận cấp tính), bản chất của bệnh là thận hư thủy phiếm,
triệu chứng tiêu của bệnh là phong hàn phạm phế, cả hai đều cấp, như
vậy một mặt phải phát hãn giải biểu, một mặt phải lợi niệu, tiêu phù,
đó là biểu lý song giải.
4.2. Chính trị và phản trị.
- Chính trị còn gọi là nghịch trị hay ngược trị tức là lấy thuốc ấm nóng
chữa chứng hàn, thuốc mát lạnh chữa chứng nhiệt, lấy bổ pháp trị chứng hư, tả
pháp trị chứng thực, đó là nguyên tắc điều trị thông thường trên lâm sàng.
- Phản trị còn gọi là tòng trị tức là thuốc điều trị bề ngoài là thuận theo
triệu chứng nhưng trên thực tế là vận dụng nguyên tắc điều trị bản
chất của bệnh.
- Ví dụ: điều trị chứng “tâm hạ bĩ mãn” dùng thuốc tiêu đạo hành khí.
Nói chung nếu như bản chất bệnh là do hư phải bổ khí “hữu nhân, hữu
dụng” “nhân có, dụng có”. Ví dụ: điều trị tiết tả; mục đích là chỉ tả



phải dùng thuốc thu liễm cố sáp nhưng bản chất phải trị là thanh nhiệt
đạo trệ dùng thuốc trị thấp nhiệt (bệnh do thấp nhiệt gây nên) như thế
gọi là “thông nhân thông dụng”.
- Hoặc điều trị chứng chân hàn giả nhiệt của chứng lý hàn biểu nhiệt, tất
phải dùng thuốc ôn nhiệt để điều trị chân hàn của bệnh,
- Như vậy gọi là “nhiệt nhân, nhiệt dụng” hoặc gọi là nhiệt trị nhiệt.
Trong điều trị chứng lý nhiệt quyết nghịch, chứng chân nhiệt giả hàn,
tứ chi gía lạnh phải dùng thuốc hàn lương để điều trị chứng nhân nhiệt
của bệnh, như vậy gọi là “nhân hàn, dụng hàn” hoặc gọi là lấy hàn trị
hàn.
Ngoài ra, khi dùng pháp chính trị ,để trị chứng đại hàn hoặc đại nhiệt, có
khi sau khi uống thuốc vào gây buồn nôn và nôn ra thuốc gọi là cách cự, nên
thường trong thuốc đại hàn dùng một ít lượng thuốc ôn ấm hoặc uống thuốc khi
còn ấm nóng.
Trái lại dùng thuốc đại ôn nên cho một ít thuốc mát hoặc là phải để nguội mới
uống, như thế sẽ không có hiện tượng buồn nôn hoặc nôn (cách cự) và hiệu quả
điều trị được tăng cường.
5. Quan hệ giữa phân tích cụ thể, tình hình cụ thể, kết hợp tính nguyên tắc và
tính linh hoạt với xử lý chính xác.
5.1. Phải xem xét nhân, địa, thời.
- Biến hóa khí hậu bốn mùa có ảnh hưởng nhất định đến cơ thể.
- Mùa hạ cơ thể hay bộc lộ để tránh nóng, ngày đông thường cơ phu kín
đáo, nên cũng là cảm mạo phong hàn nhưng mùa hè không nên dùng
cay ôn thái quá dễ ra nhiều mồ hôi dẫn đến biểu hư, thương tân hóa
táo.
- Mùa đông có thể dùng thuốc cay ấm mạnh, để cho tà bệnh ra theo
đường mồ hôi, gọi là “thời nhân tuyên chế”.



- ở nước ta, phía Bắc hàn khi ngoại cảm phải dùng thuốc cay ấm nhiều
hơn ở phía Nam, trái lại ở phía Nam thường ấm nóng đa phần nhiệt, khi cảm
mạo phải dùng thuốc tân lương nhiều hơn.
- Người bệnh có tuổi giới tính, thể chất khác nhau.
- Phụ nữ liên quan nhiều đến kinh đới, thai sản, khi bị bệnh diễn biến
phức tạp.
- Bệnh nhi có tạng phủ non nớt dễ chuyển biến hư thực, hàn nhiệt hoặc
do yếu tố bản tạng thiên thắng, có người thiên nhiệt, thiên hàn, thiên
thấp.
- Phải tuỳ đối tượng mà chọn thuốc và liều lượng của thuốc cho thích
hợp với từng đối tượng mới thu được hiệu quả điều trị cao.
5.2. Đồng bệnh dị trị:
Tuy quy luật bệnh giống nhau nhưng phân loại cụ thể khác nhau, trên nguyên
tắc điều trị phải phân biệt chi tiết.
Ví dụ: cũng là hen, (háo suyễn) nhưng hen hàn phải dùng thuốc tính ôn ấm, hen
nhiệt phải dùng thuốc có tính mát.
- Bệnh khác nhau tuy có tính đặc thù nhưng giữa chúng có cùng tính chất nên
trên nguyên tắc điều trị có thể quy nạp làm một.
- “Tán giả thu chi, ức giả tán chi”, “táo giả nhuận chi, cáp giả hoãn chi, kiên
giả nhuyễn chi…”
- Ví dụ: sa dạ dày, tử cung, trực tràng sa thuận…tất cả đều do trung khí hạ
hãm, về nguyên tắc đều giống nhau là bổ khí thăng đề đó là dị bệnh đồng
trị.
- ách nghịch nôn mửa, khái thấu khí suyễn đều do chứng khí nghịch mà dẫn
đến nên có thể dùng phương thuốc giáng khí giống nhau.
6. Kết luận
- Về nguyên tắc điều trị của y học cổ truyền xưa và nay đều nhất quán
- phải trên tinh thần cơ bản của phép biện chứng, điều chỉnh chỉnh thể,
vận dụng triệt để những quy luật phạm trù âm dương, thuộc tính ngũ



hành, vận dụng nguyên tắc bổ tả gián tiếp kết hợp biểu lý với ngũ tạng,
ngũ quan.
- Nguyên tắc bao trùm là phù chính, khứ tà, khứ là để phù chính và
công bổ kiêm trị. Nắm vững mâu thuẫn chủ yếu, vận dụng linh hoạt
nguyên tắc “cấp tắc trị kỳ tiêu, hoãn tắc trị kỳ bản”, tắc trị kỳ tiêu,
hoãn tắc trị kỳ bản, tiêu bản kiêm trị, chính trị và phản trị.
- Chú ý: vận dụng dị bệnh đồng trị, đồng bệnh dị trị và nguyên tắc thời
nhân địa, nhằm chỉ đạo tốt công tác điều trị bệnh trên thực tiễn trên
lâm sàng

Biện chứng luận trị bát pháp
(Eight methods of treatment)
Mục tiêu.
Góp phần hoàn chỉnh về biện chứng luận trị,
Dựa trên cơ sở chẩn đoán bát cương người xưa đề ra bát pháp,
Nội dung bát pháp bao gồm: hãn pháp, thổ pháp, hạ pháp, hoà giải pháp,
ôn pháp,

thanh pháp, tiêu pháp và bổ pháp, gọi tắt là hãn, thổ, hạ, hoà, ôn,

thanh, tiêu, bổ.
1. Pháp hãn.
Là dùng thuốc làm cho ra mồ hôi đưa tác nhân gây bệnh ra ngoài,
Thường được chỉ định khi tà khí còn ở biểu chứng, chủ yếu điều trị các chứng
bệnh do ngoại cảm (lục dâm) gây nên,
Thuốc theo pháp này được chọn dùng theo 2 loại: cay mát (tân lương), cay ấm
(tân ôn).



Các vị thuốc cay ấm để điều trị ngoại cảm phong hàn thường trọng dụng
các vị:
sài hồ, cát căn, thăng ma, ngưu bàng tử, tang diệp, bạc hà, cúc hoa, phù bình.
Đặc điểm của thuốc là làm cho ra mồ hôi, nếu ra mồ hôi nhiều (đại hãn) sẽ làm
giảm khối lượng máu lưu hành và rối loạn điện giải ảnh hưởng đến nhịp đập
của tim (tâm quý, tâm thống).
Thuốc có nhiều tinh dầu thơm, nên không được sắc lâu và khi đạt hiệu quả thì
ngừng thuốc hoặc nếu muốn tiếp tục dùng phải phối hợp với thuốc bổ âm hoặc
dưỡng âm như:
Huyền sâm, sinh địa, mạch môn, thiên hoa phấn, với người già cần thận trọng,
phối hợp với bổ âm phải tiếp dương.
- Không được dùng khi bệnh nhân nôn nhiều, mất máu nhiều, mất nước,
về liều lượng thì mùa hè thường dùng liều thấp hơn mùa đông, tuỳ theo phản
ứng của trạng thái cơ thể với thuốc.
2. Pháp thổ.
Là dùng thuốc gây nôn, đưa bệnh tà ra ngoài bằng mồm.
Được chỉ định khi uống, ăn phải chất độc hoặc uống nhầm thuốc độc, thực tích,
ăn nhiều thức ăn sống lạnh, bụng thường đầy, muốn nôn.
Thường dùng các thuốc gây nôn hoặc ngoáy họng gây nôn.
Không được áp dụng đối với người suy tim, thai sản, thai phụ quá yếu, khi đạt
hiệu quả thì ngừng.
3. Pháp hạ.
Là làm thông đại tiện, thông tích trệ ở đại trường,
Chỉ định trong táo bón kéo dài, nhiệt tích ở đại trường, đờm kết, tích thủy, tích
huyết.
Ngoài tác dụng thông đại tiện, các thuốc thông hạ còn có tác dụng lợi mật, tháo
phù dịch cổ chướng, hạ huyết áp tâm trương, chống nhiễm độc thần kinh, đau
đầu, mất ngủ.
Chỉ định loại thuốc và liều lượng phải dựa vào trạng thái cơ thể người bệnh.
Trạng thái hàn thường dùng loại thuốc ôn hạ, nhuận hạ như ba đậu xương, lưu

hoàng thủy phi, qua lâu nhân, hắc ma nhân.


Trạng thái cơ thể nhiệt thường dùng thuốc hàn hạ như đại hoàng, phác tiêu,
mang tiêu, chút chít (thổ đại hoàng) lô hội…
Chú ý: người già, dương khí suy yếu thường phải dùng nhuận hạ hoặc
dưỡng phế âm, bổ tôn khí để hoạt trường vị, muốn tăng hiệu quả phải phối hợp
với thuốc bổ dương khí.
. Thuốc tả hạ thường gây mất nước và điện giải không nên dùng cho người có
thai, rong kinh, khi đạt hiệu quả phải ngừng thuốc.
Trường hợp bệnh nhân xơ gan cổ chướng mà chức năng thận bị ảnh hưởng,
người xưa thường mượn đường đại tiện để đưa nước cố chướng ra ngoài, vì
phần lớn thuốc hạ đều có phân tử lượng cao kéo nước từ lòng đại tràng vào và
tống ra ngoài, cần thận trọng khi sử dụng, không có kinh nghiệm thì không nên
dùng kéo dài.
4. Pháp hoà.
Thực chất là hoà giải biểu lý, kết hợp giữa nâng cao chính khí với đuổi tà
khí,
Các thuốc được chọn dùng đều có tác dụng điều trị chứng bán biểu bán lý khi tà
xâm phạm kinh thiếu dương, thái dương và dương minh hoặc các chứng can vị
bất hoà, can khí uất kết, rối loạn kinh nguyệt.
Các thuốc thường dùng: sài hồ, hoàng cầm, đẳng sâm, bán hạ, cam thảo, đại
táo, sinh khương (biểu lý đồng trị).
Nếu can huyết hư dùng thêm đương quy, bạch thược, nếu tỳ hư dùng thêm bạch
truật, bạch linh, bạc hà, sinh khương, bệnh tà ở biểu hoặc ở lý không nên dùng.
5. Pháp ôn.
Là dùng thuốc ôn dương tán hàn hoặc khu hàn
Thường được chỉ định khi tác nhân gây bệnh là hàn tà nhập vào lý hoặc xâm
phạm các kinh âm. Thuốc ôn ấm được chỉ định rộng rãi trong các chứng huyết
áp thấp, các chứng đau mỏi khớp, thần kinh do lạnh, thường chọn các vị:

Can khương, bạch truật, cam thảo chích, hắc phụ tử, sa nhân, xuyên tiêu, nhục
quế, ngô thù du…Trong trường hợp lý nhiệt không được dùng,


Nếu hư hiệt cần phải dùng theo pháp tòng trị.
6. Pháp thanh.
Là dùng các vị thuốc đắng mát có tác dụng thanh nhiệt, thoái nhiệt, giáng
hoả,
Một số vị thuốc sinh tân, chỉ khát trừ phiền.
Thuốc được chỉ định rộng rãi trong các chứng sốt trong bệnh “ôn nhiệt”, bệnh
tà xâm phạm phần khí, dinh, huyết thuộc lý chứng
. Các thuốc dùng theo pháp thanh gồm nhiều loại: thanh nhiệt tả hoả (hạ
sốt)trọng dụng thạch cao, tri mẫu, trúc diệp, lô căn, chi tử.
Thuốc thanh nhiệt giải độc: bồ công anh, kim ngân hoa, liên kiều, sài đất…
Thuốc thanh nhiệt táo thấp: hoàng liên, hoàng bá, hoàng cầm, nhân trần, long
đởm thảo, khổ sâm. Thuốc thanh nhiệt lương huyết: huyền sâm, sinh địa, đan
bì, tê giác hoặc sừng trâu và thuốc thanh nhiệt giải thử như tây qua, hà diệp.
Ngoài ra còn trọng dụng các thuốc dưỡng âm để thanh hư nhiệt.
Các thuốc thanh nhiệt đều có tác dụng kháng khuẩn mạnh và rộng rãi: liên cầu
khuẩn tan huyết, phế cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn, các khuẩn đường ruột, thương
hàn phó thương hàn, trực khuẩn lỵ đều có tác dụng ức chế.
Chú ý: đa số thuốc đều có tính mát và lạnh nên tránh dùng kéo dài, khi đạt hiệu
quả phải ngừng thuốc. Mùa hè thường dùng liều lượng cao hơn mùa đông, khi
sắc phải sắc lâu.
Muốn tăng hiệu quả cần phải phối hợp thuốc, không những phối hợp trong cùng
một nhóm mà phải phối hợp các vị thuốc khác nhóm với nhau.
Thuốc có tác dụng chống viêm do nhiễm khuẩn và đặc biệt trong nhiễm siêu vi
trùng nhưng phải dùng đủ liều, liều ở mức cao ngay từ đầu, đủ ngày, liên tục, mỗi
ngày uống nhiều lần, uống liền từ 7-10 ngày.
Nếu do bệnh lý cần dùng kéo dài phải phối hợp thêm thuốc ôn bổ…hoặc nghỉ từ

hai đến ba ngày rồi lại dùng tiếp đợt hai.
7. Pháp tiêu.
Là pháp điều trị các chứng tích thực đạo trệ làm tiêu ngưng đọng ứ trệ do
các bệnh về khí tụ, huyết tích, đờm tích và thực tích gây nên.


Nếu do khí tụ trọng dụng các vị thuốc: sài hồ, chỉ thực, bạch thược, bạch truật,
cam thảo.
Nếu huyết tích thì dùng các vị thuốc: đương quy, xích thược, đào nhân, hồng
hoa, đan sâm, xuyên khung, ngưu tất.
Nếu thực tích trọng dụng các vị thuốc: thương truật, hậu phác, sơn tra, mạch
nha, thần khúc, trần bì, bán hạ.
Các vị thuốc sử dụng trong pháp tiêu là những thuốc có tác dụng sâu sắc
đến chuyển hoá, hấp thu và hoá giáng các chất tinh vi của thủy cốc, thường
dùng phối hợp với các thuốc: bổ khí, bổ huyết, kiện tỳ để tăng cường. Trong các
trường hợp âm hư hoặc chướng phù do khí hư ,dùng thuốc tiêu muốn hiệu quả
phải phối hợp với các thuốc khác.

8. Pháp bổ.
Là phương thuốc bồi bổ lại âm, dương, khí, huyết tạo nên trạng thái cân
bằng duy trì hoạt động bình thường của cơ thể.
Thuốc được chỉ định rộng rãi trong các chứng âm hư, khí hư, huyết hư, dương
hư.
Theo y học cổ truyền thuốc bổ cũng chính là thuốc tấn công bệnh và ngược lại.
Trên lâm sàng nếu huyết hư thường trọng dụng các vị thuốc: thục địa, bạch
thược, đương quy, xuyên khung, tang thầm, hà thủ ô đỏ.
Nếu khí hư thường dùng các vị thuốc: sâm, hoàng kỳ, bạch truật, hoài sơn, bạch linh,
cam thảo. Nếu âm hư thường dùng: thục địa, sa sâm, mạch môn, thiên môn, quy bản,
miết giáp, kỷ tử…
Nếu tổn hao tân dịch phải dùng: mạch môn, sâm, ngũ vị, nhân sâm.

Nếu dương hư phải dùng: phụ tử chế, nhục quế, phá cố chỉ, cốt toái bổ, ngô thù du,
ích trí nhân, can khương…
Thận trọng khi dùng thuốc bổ trong các chứng thực, muốn tăng hiệu quả và giảm tác
dụng phụ của các thuốc bổ phải chú ý phối hợp thuốc,
Người xưa thường phối hợp thuốc bổ âm với thu liễm, bổ khí với kiện tỳ bổ khí
huyết, bổ khí với hành khí, bổ huyết với hoạt huyết và phối hợp với bổ âm và tiếp
dương hoặc bổ dương và tiếp âm.


Trên thực tế lâm sàng thường phải phối hợp giữa các pháp với nhau, hiếm có
những bệnh chỉ dùng đơn thuần một pháp, nhất là đối với bệnh mãn tính kéo
dài, ở bệnh nhân có thai, sau đẻ, trẻ nhỏ và tuổi già.



×