Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO bài GIẢNG y học cổ TRUYỀN CHUYÊN ĐỀ NGUYÊN NHÂN SINH BỆNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.27 KB, 11 trang )

Nguyên nhân sinh bệnh.
Mục tiêu: hiểu và nắm vững nội dung cơ bản của học thuyết tam nhân.
Trình bày được nội nhân ,thất tình;ngoại nhân ,lục dâm;
bất nội ngoại nhân và sự chuyển hoá lẫn nhau
1. Đại cương.

1. Khái niệm về nguyên nhân phát bệnh.
Y học cổ truyền cho rằng “chính khí tồn nội, tà bất khả can”,
“tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư”
Bệnh tật phát sinh chủ yếu là do chính khí hư, bệnh tà mới có thể tụ lại và phát
bệnh, nếu chính khí đầy đủ, sức đề kháng cơ thể mạnh thì không dễ dàng sinh
được bệnh.
11. Phân loại về nguyên nhân sinh bệnh.
* Người xưa cho rằng: tất cả bệnh tật đều có nguyên nhân của nó. Từ hơn hai
nghìn năm trước công nguyên trong “Nội kinh” đã chia nguyên nhân sinh bệnh
làm hai loại lớn: “Nội nhân” và “Ngoại nhân”.
• Thời kỳ sau công nguyên còn có thuyết tam nhân,
• thuyết này cho rằng.
Lục dâm sinh ra bệnh ngoại cảm gọi là “ngoại nhân”, còn thất tình, lao
thương, ẩm thực dẫn đến bệnh nội thương gọi là “nội nhân”.
Ngoài ra những nguyên nhân không nằm trong hai loại trên như :kích thương,
đả thương, trùng thương (rắn rết côn trùng đốt) gọi là “bất nội ngoại nhân”.
Cách phân loại này tồn tại thời gian khá dài trên lâm sàng.
- Người xưa cho rằng: phương pháp phân loại như trên không phù hợp với
biện chứng, không phù hợp với quy luật phát triển của sự vật, cách phân
loại này vô hình dung đã không chú ý đến sự biến đổi của khí hậu ngoại
giới (môi trường), ngoại thương, trùng thương, lao động quá mức, tinh
thần kích thích căng thẳng, ăn uống không điều hòa…đều là nhân tố
ngoại lai dẫn đến bệnh.



-

Tất cả đều tương ứng với ngoại nhân, còn sự biến đổi về nhân tố tinh
thần của con người và sức đề kháng của cơ thể mới là nhân tố phát sinh
bệnh lý.

* Học thuyết thường dùng của y học cổ truyền.
Là “vận chứng cứu nhân”, nghĩa là thông qua biện chứng để truy chẩn,
truy cứu căn nguyên, cũng là một mặt của biện chứng. Nguyên nhân sinh bệnh
khác nhau dẫn đến diễn biến bệnh lý trong cơ thể cũng khác nhau.
Nắm vững quy luật dẫn đến bệnh lý khác nhau của nguyên nhân sinh bệnh và
đặc điểm lâm sàng của nó có ý nghĩa quan trọng.
2. Nội dung - nguyên nhân sinh bệnh.

21. Lục dâm là gì?
- Lục dâm là biểu hiện quy luật biến hóa của khí hậu bốn mùa, của tự
nhiên: phong, hàn, thấp, thử, táo, hoả lúc bình thường gọi là lục khí (vẫn
tồn tại có lợi cho sự sống).
- Khi trái thường lục khí trở thành nguyên nhân sinh bệnh gọi là lục dâm.
Lục dâm gây bệnh đầu tiên vào cơ biểu hoặc miệng, mũi.
- Lâm sàng biểu hiện: ngoại cảm, nhân tố của khí hậu và vi sinh vật cũng
có vai trò trong ngoại phong. Do điều kiện lịch sử cổ nhân chưa nhận thức được
vi khuẩn, vi sinh vật.
Đặc điểm: phát bệnh theo mùa.
- Xuân bệnh đa phần thuộc phong.
- Hạ bệnh đa phần thuộc thử
- Thu bệnh đa phần thuộc táo
- Trưởng hạ (giao khí của hạ thu) đa phần thuộc thấp.
- Lục dâm cũng có thể đơn độc gây nên bệnh.
- Ví dụ: như thương phong, trúng thử…có khi phối hợp với nhau để gây

bệnh. Trên lâm sàng thường thấy phong hàn thấp; cũng có khi do tác
động ở lý chứng.
- Ngoài ra còn phải chú ý là trong quá trình bệnh nội thương xuất hiện một
loại bệnh lý:
- Nội phong, nội hàn, nội thấp, nội nhiệt, nội táo. Các yếu tố nội thương
này kết hợp với tà khí của lục dâm dẫn đến bệnh ngoại cảm khác nhau, vì
vậy biểu hiện lâm sàng của hai loại này cũng khác nhau.


2.2. Nội dung cụ thể của lục dâm.
2.2.1. Phong.
- Ngoại phong thắng thường di chuyển biến hóa thoạt đến thoạt đi, bệnh
đột ngột dễ tổn thương đến cơ thể nhất.
- Bốn mùa đều có thể gây bệnh cho nên cổ nhân nói “phong vi bách bệnh
chi trưởng”.
- Đặc điểm của phong là.
+ Khởi phát đột ngột, biến hóa nhanh, bệnh không kéo dài như phong
chẩn (ma chẩn) thương phong…
+ Triệu chứng di chuyển như phong tý chứng (đau khớp di chuyển), đau
không cố định gọi là phong hành.
+ Phong tà thường xâm nhập vào cơ biểu phế vệ:
Phong tà lưu lại cơ phu tất gây tiên phong
Phong tà phạm phế sẽ gây triệu chứng ác phong; phát sốt, tự hãn, ngứa họng,
khái thấu, mạch phù.
Nếu ngoại phong đơn thuần không thể gây bệnh được trên thực tế ngoại phong
thường phối hợp nguyên nhân khác.
Phong hàn nằm trong “biện chứng bệnh ôn nhiệt”
Phong nhiệt cũng nằm trong “biện chứng bệnh ôn nhiệt”
Phong thấp xâm phạm vào cơ biểu, kinh lạc thấy
Đầu choáng, khớp toàn thân đau mỏi, đau di chuyển, không cố định hoặc phát

sinh thấp chẩn mụn ngứa.
Nội phong: can phong thường do tâm, can, thận có bệnh mà dẫn đến, đặc điểm
lâm sàng của can phong.
Đa phần đột nhiên phát bệnh.
- Nhẹ: biểu hiện đầu choáng, mắt hoa, tính tình bất định; tay chân quờ
quạng, tê dại, mồm mắt méo xệch.
- Nặng đột nhiên thốt thảo, bất tỉnh nhân sự, tay chân không cử động hoặc
co giật.
Nếu như do nội phong thường thấy ba trường hợp sau:
- Nhiệt cực sinh phong: phần nhiều thấy ở bệnh ôn nhiệt và hay ở trẻ nhỏ,
do nhiệt thương tân dịch doanh huyết, công năng của tâm và can bị ảnh hưởng,
có thể thấy xuất hiện kinh quyết, thần hôn loạn ngôn, liên hệ y học hiện đại là
chứng sốt cao co giật.


- Âm hư phong động: thường gặp can thận âm hư dẫn đến can dương
thượng nghịch và can phong động; nhẹ thì đau đầu chóng mặt, nặng thì đột
nhiên thốt đảo, gọi là trúng phong, thường gặp ở bệnh nhân cao huyết áp, chảy
máu não..
- Huyết hư sinh phong: chủ yếu do huyết hư thận âm hư mà dẫn đến triệu
chứng đầu choáng mắt hoa, tai ù, tứ chi tê dại, thậm chí co giật, hôn mê; thường
gặp ở triệu chứng thiếu máu hoặc do đường máu và can xi máu thấp (theo y học
hiện đại)
2.2.2. Hàn tà.
- Ngoại hàn: hàn tà gây bệnh thường vào mùa đông nhưng cũng có thể do
ôn khí hạ thấp khi thay đổi thời tiếtcũng gây bệnh
- Đặc điểm là hàn tà dễ tổn thương dương khí, cơ thể bị hàn tà xâm phạm,
dương khí ngoại vệ hao kiệt (sợ lạnh) xuất hiện ác hãn, phát sốt không có
mồ hôi, mạch phù khẩu.
- Hàn tà từ biểu vào lý dễ hóa nhiệt. Nhìn chung sau khi hàn tà từ kinh

thái dương chuyển vào kinh dương minh (bàng quang, tam tiêu, vị, tiểu
trường) xuất hiện các triệu chứng:
- Sốt cao, phiền khát, đại hãn đó là thực nhiệt.
- Đặc tính của hàn là ngưng trệ, khi hàn vào cơ thể thường lưu lại ở cơ
phu, kinh lạc, cân cốt, khớp xương hoặc trong tạng phủ làm cho khí huyết
không thông, huyết ứ khí trệ mà thành chứng đau, hàn tà lưu lại ở trường
vịị gây nôn mửa, đau bụng, tiết tả.
- Hàn tà thường hợp với phong tà, thấp tà để gây bệnh,
- * Phong hàn sẽ mô tả trong chứng “ôn nhiệt”
- Trúng hàn (hàn tà trực trúng tạng phủ), mình lạnh, tay chân lạnh toát
(hàn chiến), sắc trắng nhợt, khi nặng đột nhiên thốt đảo, bất tỉnh nhân sự, mạch
trầm tế.
- Hàn tý: hàn là lưu trệ ở kinh lạc và cân cốt gây nên các khớp xương và
cơ nhục đều đau mỏi, đau cố định, gặp lạnh đau tăng, gặp nóng giảm đau.
- Nội hàn: tức là lý hàn có phân hư thực.
- Hư chứng: do âm khí thịnh ở trong cơ thể, âm thịnh sẽ sinh nội hàn,
lâm sàng thấy sợ lạnh, thích nóng, tay chân không ấm, nôn khan, nôn mửa


nước trong, ăn kém, tiện nát, bụng đau, ruột thắt “phúc trống trường ố”,
tiểu tiện trong dài, lưỡi nhợt, rêu trắng nhuận, mạch trầm trì.
- Do ăn quá nhiều thức ăn sống lạnh dẫn đến hàn trầm tích( lắng xuống)
đều là nội hàn, triệu chứng thường thấy là:
- lĐau bụng, ăn kém, tiện bế, nặng bụng, cảm giác lạnh mà đau đớn nhiều,
rêu lưỡi trắng dày và trắng nhờn, mạch trầm trì có lực đó à chứng thực
hàn.
2.2.3. Thử:
Thử tà gây bệnh thường vào mùa hạ.
- Bệnh sốt mùa hạ gọi là thương thử hoặc cảm thử ; trong những ngày hè
nắng nóng hoạt động quá lâu mà sinh bệnh gọi là trúng thử.

Đặc điểm.
+ Bệnh do thử tà phần nhiều có triệu chứng khát nước, sốt cao, phiền táo,
đa hãn.
+ Thử tà gây hao khí, thương tân làm cho thân thể mệt mỏi, vô lực, miệng
ráo, môi khô, tiện bế, tiểu ít.
+ Bệnh thử thường kiêm thấp, mùa hè thiên khí triều thấp, mặt khác con
người ngày hè thường thích ăn sống lạnh dễ tổn thương tỳ, vị mà sinh nội thấp.
Bệnh do thử thường gây ngực bĩ, nôn khan hoặc buồn nôn, ăn uống không ngon.
- Bệnh thường gặp: thương thử, trúng thử.
+ Thương thử (cảm thử nhẹ) phát sốt, phiền khát, hãn xuất, đau đầu, nôn
khan, buồn nôn, phúc tả, khí súc, tứ chi vô lực, mạch hồng mà sác.
+ Trúng thử: ngày nắng nhiều hoặc nhiệt độ cao làm việc quá lâu cảm thử
quá nặng biểu hiện đột nhiên thốt đảo, thần chí bất thanh, sốt cao không có
mồ hôi hoặc ra mồ hôi lạnh, thở thô, mặt đỏ, lưỡi hồng, môi đỏ, mạch hồng
đại mà vô lực.
2.2.4. Thấp tà.
- Ngoại thấp: gây bệnh đa phần có quan hệ với ảnh hưởng khí hậu, hoặc
mưa ẩm liên miên hoặc là tiếp cận với nơi ẩm thấp kéo dài, ngâm nước, nằm
hầm, sống trong đường hầm điều kiện bảo vệ không tốt, thợ lặn…Tất cả yếu tố
trên đều có thể gây chứng thấp. Ngoài ra, khi tỳ vị yếu cũng dễ dàng cảm
phải ngoại thấp.


Ngoại thấp thương nhân phần nhiều từ cơ phu (biểu) mà xâm nhập vào
(thông qua đường da lông), xâm phạm vào cơ, cân, mạch, khớp xương rồi đi sâu
vào tạng phủ. Sau khi thấp tà đi vào cơ thể còn có thể hoá hàn hoặc hóa nhiệt, sự
chuyển hóa này chủ yếu thường phụ thuộc vào trạng thái cơ thể, chức năng của
tạng phủ trong cơ thể. Vấn đề này có quan hệ đến nguyên tắc điều trị và dung
dược.
ví dụ: nếu gặp phải trạng thái cơ thể vốn sẵn có tỳ dương hư dễ chuyển

hóa thành thấp khi gặp ngoại thấp; trái lại nếu gặp trạng thái cơ thể người
bệnh sẵn có vị nhiệt sẽ chuyển hóa thành nhiệt, hoặc khi dùng quá nhiều
thuốc hàn lương trạng thái cơ thể dễ hóa hàn; trái lại dùng ái quá thuốc ôn
táo trạng thái cơ thể dễ hóa nhiệt.
- Đặc điểm bệnh do thấp tà.
+ Thấp tà nặng: người bệnh thường nặng đầu như kéo xuống, thân thể
nặng trĩu, tứ chi như vô lực, phát bệnh thường bắt đầu từ phần dưới cơ thể,
người bệnh cảm thấy nặng chân không muốn bước, thậm chí có phù nề.
+ Thấp do âm hàn ngưng trệ có thể làm trở ngại sự lưu thông khí có, khi
có tắc trở đa phần bệnh nhân cảm thấy ngực bĩ, phúc quản chướng đầy đó là
chứng khí trệ.
+ Thấp trọc: đái trắng đục, thấp chẩn, nổi mụn nước đều thuộc về thấp
chứng.
+ Thấp nhiễm: thấp cứ tiếp cận liên miên gây nên một số bệnh thấp
thường lâu ngày không khỏi.
+ Rêu lưỡi trắng nhuận hoặc nhờn, mạch hoãn hoặc nhu là đặc trưng
của bệnh thấp.
- Khi thấp tà thương nhân (làm tổn thương đến cơ thể) thường hợp với
phong và hàn. Vì thế bệnh do thấp tà được chia theo ba loại.
+ Thương thấp tà khí thấp tà từ biểu vào, cũng có thể gọi là biểu thấp,
biểu hiện: sợ lạnh, sốt nhẹ không cao, căng đầu, nặng đầu, thân thể nặng nề,
chi mỏi, ngực bĩ, miệng không khát, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch phù hoãn.
Thời kỳ mở đầu thường do tiếp xúc với mưa dầm ẩm thấp.
+ Thấp tý – tý chứng (còn gọi là trước tý) là thấp phạm vào kinh lạc dẫn
đến toàn thân đau mỏi nếu các khớp đau đớn là nặng, đau có điểm cố định, da cơ
tê dại, vận động khó khăn.


+ Thấp nhiệt là thấp kết hợp với nhiệt nói chung thấp nhiệt thường sốt
không cao, miệng khát, tự hãn, tâm phiền, ngực đầy, tiểu tiện ngắn đỏ, rêu lưỡi

vàng nhờn, mạch hoạt sác hoặc nhu sác.
Ví dụ: thấp nhiệt nội uẩn trong tỳ vị có thể xuất hiện hoàng đản, thấp và
nhiệt tương kết ở đại trường có thể gây hạ lợi nục huyết, thấp nhiệt có thể lưu trú
ở bàng quang gây đái buốt, đái dắt, đái đỏ gọi là lâm chứng, bạch đới, nếu thấp
nhiệt tụ trệ ở bì phu có thể sinh mụn nhọt, nhọt bọc, thấp chẩn.
• Nội thấp:
• Thường do ăn uống không điều hòa tổn thương đến tỳ vị dẫn đến tỳ
dương không đầy đủ, công năng vận hóa thất thường, từ đó sinh nội thấp
tích tụ mà phát bệnh.
• Biểu hiện lâm sàng hoặc là tiết tả hoặc là phù thũng hoặc là đàm ẩm có
thể gọi “thấp thũng, đầy đều thuộc tỳ”.
2.2.5. Táo tà.
- Ngoại táo (thu táo): “Khí hậu can táo đích thu thiên” dễ sinh bệnh táo,
khí hậu chuyển lạnh mà khô ráo dễ sinh chứng lương táo, táo hóa nhiệt sẽ thành
chứng ôn táo.
- Đặc điểm của táo tà khi gây bệnh.
+ Táo tà dễ thương phế: phế táo sẽ ho khan không đàm hoặc long đàm có
dây máu mũi, mũi họng khô, hung thống phát sốt.
+ Táo tà dễ thương âm thương tân, bệnh do táo thường biểu hiện mồm,
mũi, lưỡi, môi, da khô ráo, miệnh khát thích uống, phát sốt vô hãn, đại tiện khô
ráo, mạch tế sác.
Ngoại táo được phân 2 loại: lương táo và ôn táo.
- Lương táo sợ lạnh nhiều hơn phát sốt, rêu lưỡi trắng, mạch phù.
- Ôn táo phát sốt nhiều hơn sợ lạnh , miệng khát hoặc mắt đỏ, họng
đau, ho đờm có dây máu, tiểu tiện ngắn đỏ, đầu và rìa lưỡi đỏ, mạch phù sác.
- Nội táo: nguyên nhân sinh nội táo chia làm ba loại.
- Nôn mửa phúc tả, phát hãn, xuất huyết quá nhiều.
- Bệnh ôn nhiệt lâu ngày thương tân.
- Điều trị thái quá thuốc phát hãn, tả hạ hoặc ôn táo.
Biểu hiện lâm sàng của nội táo là

Da khô lông ráo, sắc không tươi nhuận, họng khô, môi nứt,mục sáp lỗ mũi cảm
giác nóng, táo ở lâu trong cơ thể sinh triều nhiệt tự hãn, tâm phiền thất miên,


khát uống nước ít một, đại tiện táo kết, tiểu tiện ít, lưỡi đỏ ít tân, rêu trắng, mạch
tế sác hoặc sáp.
2.2.6. Hoả tà:
Nhiệt cực có thể hóa hỏa,
Phong, hàn, thấp, táo, thử vào lý cũng có thể hóa hỏa.
Ngoài ra khi công năng tạng phủ không điều hòa, tinh thần bị kích thích
cũng có thể hóa hỏa, vì thế cũng có thể nói chứng hỏa phần nhiều thuộc lý
chứng.
Lâm sàng phân hai loại thực hỏa và hư hỏa.
- Thực hỏa: đa phần do ngoại cảm phải tà khí lục dâm sinh hóa hỏa, đặc
điểm lâm sàng là khởi bệnh đột ngột, biến hóa nhanh, mạnh.
- Hỏa nhiệt nhiều sẽ thương tân, hỏa chứng thường sốt cao, sợ nóng ráo,
khát uống nước mát, đa hãn, mặt đỏ, mắt đỏ, miệng khô, môi ráo, đại tiện táo
kết, tiểu tiện ngắn đỏ, lưỡi đỏ rêu vàng.
- Hoả thường có biểu hiện viêm ở trên: triệu chứng bên ngoài của nó
tùy thuộc vào tạng phủ khác nhau mà biểu hiện triệu chứng khác
nhau .
- Ví dụ: tâm hỏa thượng viêm thường thấy tâm phiền mất ngủ, thần
chí bất thanh, loạn ngôn, điên đảo (ý bệnh) nói lảm nhảm.
- Vị hỏa thượng viêm răng lợi sưng đau, thổ huyết, nục huyết, đau
đầu.
- Can hỏa thượng viêm dễ cáu gắt, nổi giận, mắt đỏ sưng đau, đau
đầu.
- Hỏa là loại tà khí dương nhiệt có thể bức huyết vong hành nên
thường xuất huyết, nôn ra máu, đổ máu cam, bì phu ban chẩn.
- Hoả chứng thường chất lưỡi ráng đỏ, rêu lưỡi vàng táo, ít tân mạch

hồng sác.
Hư hỏa: đa phần do nguyên nhân nội thương mà dẫn đến. Ví dụ: tạng phủ
(phế thận can) chức năng mất điều hòa, khí huyết không thông hoặc bệnh lâu
mất điều dưỡng, tinh khí hao tổn hoặc tình chí bất thư đều dẫn đến phát sinh
hư hoả.Đặc điểm lâm sàng: của hư hỏa khởi bệnh từ từ, quá trình bệnh kéo
dài, triệu chứng chủ yếu là triều nhiệt tự hãn, ngũ tâm phiền nhiệt, gò má


đỏ về buổi chiều “hậu ngọ quyền hồng”, hư phiền thất tinh, lưỡi đỏ, ít tân,
rêu lưỡi xanh lục hoặc không rêu, mạch tế sác.

2.3. Lệ khí.
Y học cổ truyền xếp những bệnh truyền nhiễm cấp tính, bệnh có tính chất
truyền nhiễm rất mạnh vào “lệ” dịch.
Dịch lệ là do một số lệ khí của lục dâm khác nhau hoặc dịch tà gây nên, nó
thuộc phạm vi của bệnh truyền nhiễm gọi chung là dịch lệ.
Biểu hiện lâm sàng thường giống nhau thuyết “Ngũ dịch chi chí,
tỷ tương nhiễm dễ, vô vấn đại tiểu, bệnh trạng tương dĩ”.
Theo y học cổ truyền bệnh dịch là mối nguy hại rất lớn đối với nhân loại
thường phát sinh truyền lan có liên quan đến sự biến đổi khí hậu trái thường,
điều kiện vệ sinh kém.

2.4. Thất tình.
Gồm: hỉ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh,
Bẩy loại hoạt động tình chí gọi là thất tình.
Bản chất hoạt động của thất tình là một loại phản ứng sinh lý của cơ thể
con người đối với hoàn cảnh ngoại giới.
Trong điều kiện bình thường, cơ thể không có bệnh nhưng tình chí hoạt động
quá độ, công năng của tạng phủ mất điều hòa, kinh lạc trở tắc, khí huyết bất hòa
sẽ có thể dẫn đến âm dương thất điều trong cơ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho sự

phát sinh bệnh tật.
Tình chí bất hòa không chỉ dẫn đến chính khí hư nhược dễ cảm phải ngoại
tà, đồng thời bản thân sự biến hóa của bảy tình chí cũng có thể dẫn đến bệnh lý.
Bảy tình chí chủ yếu dẫn đến chứng bệnh về khí của ngũ tạng,
ví dụ: lo lắng quá độ hại tỳ tất sẽ xuất hiện vị quản chướng đau, ăn uống kém,
chức năng tỳ vị mất điều hòa.
Còn như nộ quá hại can, can khí uất kết hoặc can khí thượng nghịch có thể hóa
hỏa tất sẽ có đau đầu, đầu choáng, mắt đỏ, tai ù, tai điếc, tính tình cáu gắt, đắng
mồm, sườn đau…


2.5. Ăn uống không điều hòa.
Ăn tục, uống tục (bạo ăn, bạo uống) quá nhiều thức ăn sống lạnh, quá
nhiều mỡ, chất béo, (nhiễm trùng ngộ độc thức ăn theo y học hiện đại)
+ Ăn quá nhiều thức ăn sống lạnh tổn thương dương khí của tỳ vị gây nên
tỳ vị hư hàn, nôn mửa ra nước trong, phúc thống thiện án, thích ấm nóng, khát
không muốn uống, tiêu hóa bất lương, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch trì…
+ Ăn quá nhiều thức ăn có vị ngọt béo, sinh nhiệt, sinh thấp, sinh đàm tạo
thành nhiều loại nguyên nhân gây bệnh ở tạng phủ.
+ Ăn uống quá lượng sẽ thành thực trệ nôn khan hoặc nôn mửa, ợ chua,
phúc thống, cự án, đại tiện nhiều, nhầy mũi, mạch hoạt.

2.6. Lao thương.
Lao thương quá độ dẫn đến khí huyết bất hòa, sức đề kháng cơ thể (chính
khí) giảm sút, tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên nhân phát sinh một số bệnh.
3. Quan niệm chỉnh thể về nguyên nhân gây bệnh.
Y học cổ truyền cho rằng bệnh tật phát sinh có nguyên nhân của nó và
mỗi loại bệnh cũng đều có nguyên nhân để nó tồn tại: “ Bách bệnh chi sinh,
các hữu sở nhân”. Nhiều diến biến phức tạp, nhiều phương pháp đều qui về tam
nhân: lục dâm (ngoại nhân), thất tình và trạng thái hoạt động tinh thần (nội

nhân) và bất nội ngoại nhân.
Những nguyên nhân dẫn đến thất tình chính là kích thích hoạt động
tinh thần của môi trường , xã hội mang lại mà kích tích tinh thần lại chính
là yếu tố ngoại nhân. Mặt khác lao thương quá độ dẫn đến bệnh lý (là
nguyên nhân bệnh) ứng với ngoại nhân nhưng hậu qủa tạo nên chính khí có
thể giảm sút, rối loạn chức năng tạng phủ (tạng phủ lại nội nhân).
Bệnh tật là “quá trình tà chính tương tranh” cũng là phản ứng của
chính khí với tà khí. Trong điều trị, một mặt phải chú ý ngoại tà, mặt khác
phải coi trọng chính khí. “Tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư”, “Chính khí tồn nội,
tà bất khả can”.
Khi biện chứng luận trị thấy thuốc phải coi trọng điều kiện sinh hoạt, hoạt
động tinh thần và điều kiện ẩm thực (ăn uống) của người bệnh để nâng cao
chính khí, nâng cao sức đề kháng cơ thể thể hiện quan điểm “Chính thịnh tà


khứ, tà khứ chính phục”, Y học cổ truyền phương Đông luôn coi trọng cả hai
mặt trong biện chứng luận trị



×