Tải bản đầy đủ (.doc) (367 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO GIÁO TRÌNH y học cổ TRUYỀN PHẦN BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ cơ bản LỊCH sử y học cổ TRUYỀN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 367 trang )

GIÁO TRÌNH Y HỌC CỔ TRUYỀN
PHẦN: BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ CƠ
BẢN
CHƯƠNG 1
LỊCH SỬ YHCT VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG KẾT HỢP 2 NỀN Y HỌC.
YHCT Việt nam, nền y học của 54 bộ tộc trong đại gia đình các
dân tộc Việt nam đã hình thành và phát triển trong suốt chiều dài hàng
ngàn năm lao động sản xuất đấu tranh với thiên nhiên dựng nước và giữ
nước, giao lưu với các dân tộc khác trong khu vực nên Việt nam có nền y
học truyền thống rất phong phú và đa dạng. Việt nam là cái nôi của loại
người, cũng là cái nôi của thuốc cổ truyền (thực vật động vật và khoáng
vật).
1.1. LỊCH SỬ YHCT VIỆT NAM.

1.1.1.Việt nam có địa sinh học riêng.
Theo nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: mặt trời có khoảng 5
tỷ năm. Thời nguyên đại cổ sinh cách đây 600 triệu năm.Thời nguyên đại
trung sinh cách đây 200 triệu năm, giải đất nước ta lúc đầu như mầm
xương sống hình chữ S đó là dãy núi Trường sơn.Thời đại Tân sinh cách
đây 50 triệu năm là thời kỳ tạo đất bồi đắp hợp thành lục địa Á châu có
kết cấu địa chất địa tầng có sông, núi…
Cuối thời kỳ Đệ Tam đã có vượn cao cấp cách đây 10 – 20 triệu
năm. Nhiều nhà khảo cổ học Việt nam đã chứng minh con người Việt
nam xuất hiện từ thời kỳ Canh Tân; cái nôi của loài người và cũng là cái
nôi của các thuốc thảo mộc.Do thời kỳ băng hà kéo dài Thủy Canh Tân
đến Canh Tân. Nhưng ở nước ta nói riêng và ở đông nam châu Á nói
chung chỉ có mưa lớn. Sau băng hà nước biển tràn lên kết hợp với khí hậu
nhiệt đới gió mùa tạo điều kiện thuận lợi cho thực vật phát triển nguồn
thức ăn của nhiều loại động vật trong đó có con người. Vượn ăn cỏ cây
động vật để sống đồng thời cũng chọn lọc tự nhiên những động vật và cây


cỏ để ăn để chữa bệnh. Vì vậy thuốc chữa bệnh được lưu truyền từ thời
này sang thời khác, đời này sang đời khác và tồn tại đến nay. Trải qua
hàng ngàn năm lịch sử, y học cổ truyền Việt nam đã đúc kết được nhiều
phương pháp phòng bệnh và chữa bệnh bằng thuốc và không dùng thuốc
(châm cứu, day, bấm huyệt…) có hiệu quả. Đã phát hiện nhiều vị thuốc
quý: quả giun, gừng gió, ý dĩ, xương bồ, kỳ nam, sa nhân, đậu khấu,
hương phụ…được lưu truyền đến ngày nay.
1


1.1.2. Về xã hội có lịch sử lâu đời.
Nền văn minh Ai cập cách đây 6000 năm, Trung quốc có từ 4000 –
5000 năm trước công nguyên, Tây Tạng. Ấn Độ có từ 3000 – 4000 năm
(theo Hypocrat).
Việt nam có nhà nước Văn Lang ta đời Hồng Bàng năm 2879 năm
trước công nguyên; thời đại các Vua Hùng, tổ tiên ta sớm sử dụng thuốc
có nguồn gốc thực vật, động vật và khoáng vật để làm thuốc. Ngoài ra
còn biết sử dụng cả thuốc độc tẩm vào tên, giáo, mác để chống giặc ngoại
xâm…
Hơn một thiên niên kỷ dân tộc Việt nam dưới ách xâm lược nô
dịch và đồng hoá của phong kiến Trung Quốc. Các dược liệu quý hiếm
đều bị cướp bóc mang về chính quốc. Thời kỳ độc lập dưới các triều đại
phong kiến (938 – 1884) sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền từ
938 nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập.
- Đời lý (1010 – 1224) có tổ chức thái y viện ở Kinh đô cũng như ở
các địa phương.
- Đời Trần (1225 – 1399) phát triển nghề nuôi trồng dược liệu khắp
nơi, nhiều danh y nổi tiếng trong thời kỳ này, đặc biệt là Nguyễn Bá Tĩnh
hiệu là Tuệ Tĩnh quê Nghĩa phú Cẩm Vũ, Cẩm giàng Hải Hưng đó là tiến
sĩ nhưng đi tu, tác phẩm y học nổi tiếng của ông là “Nam dược thần hiệu”

11 quyển, chọn lọc 580 vị thuốc phân loại theo nguồn gốc (23 loại): cỏ
hoang, dây leo, mọc ở nước, có cánh chim cầm, thú…chọn lọc dược liệu
có trong nước tổ chức thành 3 – 873 bài thuốc điều trị 182 chứng bệnh
của 10 khoa.
- Tác phẩm “Hồng nghĩa giác tư y thư” tóm tắt tác dụng 630 vị
thuốc theo biện chứng luận trị ông được tôn là thánh thuốc nam. Năm
1835 Tuệ Tĩnh được mời sang Trung Quốc chữa bệnh cho Vua nhà minh
và bị giữ lại cho đến khi chết.
- Đời Hồ (1400 – 1406) phát triển châm cứu có Nguyền Đại Năng
soạn cuốn sách “châm cứu tiệp hiệu diễn ca”…
- Thời kỳ đô hộ của giác minh Trung Quốc (1047 – 1427), trong 20
năm dưới ách đô hộ của Triều Minh y học dân tộc bị tổn thất nghiêm
trọng.
- Hậu Lê (1428 – 1788) có bộ luật Hồng Đức đời Lê Thánh Tông
(1460 – 1479) ban hành quy chế làm thuốc, 1665 Lê Huyền Tông 2 lần ra
lệnh cấm hút thuốc lào; ở triều đình có Thái y viện, các tính có tế sinh
đường, ở quân đội có sở lương y. Hoàng Đôn Hoà và Trịnh Đôn Phát là
lương phục vụ trong quân đội nhà Lê tác phẩm nổi tiếng là “Hoạt nhân
toát yếu” được sắc phong của Vua Lê Thánh Tông “Lương y quốc, Thọ
tư dân”. Hiện nay nhân dân lập đền thờ Hoàng Đôn Hoà tại quê ông thôn
Đa sĩ Kiến Hưng Hà Đông Hà Tây.
Đặc biệt trong thời kỳ này có Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn
Ông (1720 – 1791) quê Văn xá Yên Mỹ tỉnh Hải Hưng ông đã tóm lược y
lý y học truyền thông phương Đông, tổng kết những thành tựu y học cổ
truyền Việt Nam từ trược đến thế kỷ XVIII và đã vận dụng sáng tạo
2


những tinh hoa y học cổ truyền vào điều kiện thời tiết khí hậu liên quan
đến đặc điểm phát bệnh ở nước ta. Tác phẩm “Hải Thượng Lãn Ông y

tâm lĩnh” là bộ sách đồ sộ gồm 28 tập 66 quyển đến nay vẫn được coi là
bộ sách bách khoa về y học cổ truyền. Ông đã tổng kết sáng tác hoàn
chỉnh hệ thống hoá nền y học truyền thống Việt nam trên các lĩnh vực:
nội khoa, ngoại khoa, sản phụ và nhi khoa, ngũ quan khoa trên phương
diện chẩn trị dự phòng từ lý pháp đến phương dược từ y đức đến y sử y
thuật đến các lĩnh vực thiên văn y học và thực trị học. Về dược học Lãn
Ông đã sưu tầm thêm 300 vị thuốc tổng hợp thành 2.854 bài thuốc kinh
nghiệm. Nét độc đáo trong biện chứng luận trị y học cổ truyền của Lãn
Ông đến nay và mãi mãi là kim chỉ nam cho mọi hành động chẩn trị theo
y lý cổ truyền của các thế hệ thầy thuốc y học dân tộc Việt Nam.
- Thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ (1884 – 1945): Thực dân Pháp đưa y
học phương Tây vào nước ta giải tán các tổ chức y tế Triều Nguyễn (y
học phương Đông và y học dân tộc). Thực hiện chính sách ngu dân chia
để trị, coi thường y học truyền thống dân tộc, hiện nay vẫn còn tản dư ở
một số tri thức coi thường y học dân tộc cần phải khắc phục để xây dựng
nền y học xã hội chủ nghĩa.
1.2. PHƯƠNG HƯỚNG KẾT HỢP YHHĐ VỚI YHCT CỦA ĐẢNG
VÀ NHÀ NƯỚC TA.
Cách mạng tháng 8 – 1945 thành công nước Việt nam dân chủ cộng hoà
ra đời. Mặc dù phải trải qua 2 cuộc kháng chiến gian khổ chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập. Chính phủ ta rất chú trọng phát
triển y tế nói chung và phát triển YHCT nói riêng. Phong trào sử dụng
thuốc nam theo “toa căn bản” ở Nam bộ đã đóng góp đáng kể trong công
tác chăm sóc sức khoẻ cho các lực lượng vũ trang và nhân dân. Ngày
27/2 /1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong thư gửi cho ngành y tế:“…
y học cũng phải dựa trên nguyên tắc khoa học, dân tộc và đại chúng…
Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh
bằng thuốc ta thuốc bắc, để mở rộng phạm vi y học, các cô các chú cũng
nên chú trọng nghiên cứu phối hợp thuốc Đông y với Tây y…”

Nghị quyết của đại hội Đảng lần thứ III năm 1960 đã ghi rõ phương
hướng kết hợp 2 nền y học “phối hợp chặt chẽ Đông y với Tây y trong
công tác y tế trên các mặt phòng bệnh, chữa bệnh, sản xuất thuốc nam,
đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học”. Chỉ thị 101/TTg của thủ tướng
chính phủ cũng ghi cụ thể: “Trên cơ sở khoa học, thừa kế, phát huy
những kinh nghiệm tốt của Đông y với Tây y nhằm tăng cường khả năng
phòng bệnh và chữa bệnh cho nhân dân tiến lên xây dựng một nền y học
Việt nam xã hội chủ nghĩa”.Chỉ thị 21/CP ngày 19/2/1967 của thủ tướng
chính phủ. Chỉ thị 210 TTG/VP ngày 6/12/1966 về công tác dược liệu.
Triển khai nghị quyết Đại hội Đảng IV, V nghị quyết 200 – CP ngày
21/8/1978 và NQ 266 – CP ngày 19/10/1978.
3


Ngày nay việc kết hợp 2 nền y học đã được ghi trong hiến pháp nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, trở thành một pháp lệnh của nhà
nước. Nghị quyết Đại hội Đảng VII “kết hợp y học hiện đại với y học cổ
truyền từng bước hiện đại hoá y học cổ truyền, giữ gìn bản sắc y học cổ
truyền” trở thành phương châm của ngành y tế.

1.2.1. Về tổ chức:
Bộ y tế có Vụ y học cổ truyền, có viện y học dân tộc, có 2 viện nghiên
cứu dược học dân tộc ở thủ đô Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh có
viện y học dân tộc tỉnh, trong các viện đa khoa tỉnh có khoa y học dân
tộc, trong các bệnh viện huyện, trạm y tế xã cũng đều có bộ phận y học
cổ truyền.
Trong quân đội có viện y học dân tộc quân đội, HVQY có bộ môn y học
dân tộc, cục quân y có phòng y học dân tộc, các bệnh viện loại A đa khoa
loại B, các quân khu, quân đoàn, quân chủng đều có bộ phận y học dân
tộc.

Về tổ chức quần chúng có hội y học cổ truyền, có hội châm cứu Trung
ương được thành lập hầu khắp trên 64 tỉnh và thành phố thị xã; hiện đã
trở thành tổ chức rộng khắp từ trung ương đến các cơ sở.
1.2.2. Phương hướng kết hợp:
Theo tinh thần của báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IV là: “Để không ngừng nâng cao khả năng chất lượng phòng và chữa
bệnh phải kết hợp chặt chẽ giữa y học hiện đại với y học cổ truyền dân
tộc, vận dụng phát triển những thành tựu tiên tiến của y học thế giới,
đồng thời coi trọng đúng mức việc phát triển y học dân tộc, tích cực thừa
kế áp dụng nâng cao những thành tựu và kinh nghiệm của y học dân tộc,
từng bước xây dựng nền y học Việt nam; mở rộng một cách có kế hoạch
nguồn dược liệu thiên nhiên phong phú trong nước, xây dựng nền y dược
học Việt nam, nhanh chóng phát triển công nghiệp dược phẩm và đẩy
mạnh sản xuất thiết bị y tế”.
1.2.2.1.Tại các tuyến Trung ương: kết hợp chặt chẽ trong chẩn đoán.
Chẩn đoán bệnh dựa trên thành tựu YHHĐ kết hợp với y lý cổ truyền,
tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh, tiêu chuẩn đánh giá dựa trên y học hiện đại
kết hợp với chẩn trị YHCT. Về điều trị tuỳ theo tình trạng của bệnh nhân
và khả năng đảm bảo thuốc theo từng tuyến có thể áp dụng cổ phương,
nghiệm phương hay đối pháp lập phương, có thể dùng thuốc, dùng châm
xoa bấm hoặc thuốc châm xoa bấm kết hợp mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế với các nước phương Tây với phong trào phục hướng y học
Hypocrat (mouverment – Neo – Hipocratisme) là nền y học cổ truyền
xuất phát từ Hi lạp. Hoà nhập với tổ chức y tế thế giới (OMS), tổ chức đã
và đang kêu gọi các nước phát triển YHCT góp phần đưa YHCT dân tộc
vào chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu của cộng đồng đóng góp
tích cực trong dự phòng và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
1.2.2.2. Các bước tiến hành ở các tuyến.
4



+ Trên cơ sở khoa học hiện đại mà thừa kế chỉnh lý nâng cao phát
huy và phát triển y học cổ truyền dân tộc.
+ Kết hợp YHHĐ với YHCT trên các mặt: phòng bệnh, chữa bệnh
và sản xuất thuốc đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học.
+ Tiến tới xây dựng một nền y học Việt nam xã hội chủ nghĩa có
đầy đủ tính chất khoa học dân tộc và đại chúng.

CHƯƠNG 2.
HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH
HỌC THUYẾT TẠNG TƯỢNG VÀ HỌC
THUYẾT KHÍ, HUYẾT, TÂN DỊCH.
2.1. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH (THE YIN –
YANG AND THE FIVE ELEMENTS).
Âm dương ngũ hành là học thuyết cơ bản của y học cổ truyền. Học thuyết
này thể hiện quan điểm duy vật biện chứng tự phát được ứng dụng từ hơn
hai nghìn năm trước công nguyên, qua tổng kết thực tiễn ngày nay đã trở
thành hệ thống lý luận cơ bản của y học cổ truyền dân tộc. Nội dung học
thuyết đã chỉ rõ chức năng của cơ thể, đã khái quát quy luật phát sinh,
phát triển và thoái lui của nguyên nhân bệnh lý và chỉ đạo mọi nội dung
chẩn đoán, điều trị và dự phòng trong lâm sàng.

5


2.1.1. Học thuyết âm dương
Khái niệm cơ bản: học thuyết âm dương là học thuyết phác thảo quan
điểm mâu thuẫn, giới thiệu các hiện tượng sinh lý, bệnh lý trong cơ thể từ
đó đề ra nguyên tắc điều trị và dụng dược (hay lý luận sử dụng dược vật).
Người xưa cho rằng: các bộ phận cấu tạo nên cơ thể đều do hai khái niệm vật

chất và công năng (hai mặt đối lập thống nhất) tức là âm dương cấu tạo thành.
Sự phát sinh và phát triển của bệnh tật đều do mất thăng bằng về âm dương.
Quy luật thuộc tính âm dương ứng dụng trong cấu tạo và công năng.
2.1.1.1. Âm dương đối lập.
Ví dụ:
Dương
Âm
- Mặt ngoài
- Mặt trong
- Bên trên
- Bên dưới
- Mặt lưng
- Mặt bụng
- Lục phủ
- Ngũ tạng
- Khí
- Huyết
- Công năng
- Vật chất
- Hưng phấn
- Ức chế
- Hoạt động
- Yên tĩnh
- Phát triển
- Thoái hoá
- Thăng lên
- Giáng xuống
- Hướng ra ngoài
- Hướng vào trong
- Thuộc tính âm dương của sự vật không phải là tuyệt đối mà là tương

đối, vì vậy trong điều kiện nhất định, thuộc tính sẽ thay đổi.
VD: quan hệ giữa lưng và bụng (bụng thuộc âm mà lưng thuộc dương)
nhưng khi xét tương quan giữa ngực và bụng thì tất nhiên ngực ở trên
thuộc dương, bụng ở dưới thuộc âm.
2.1.1. 2. Âm dương hỗ căn.
Người xưa cho rằng: “dương sinh ở âm, âm sinh ở dương”, “cô âm bất
sinh, độc dương bất trưởng” nghĩa là âm dương cùng song song tồn tại,
dựa vào nhau mà phát triển (không có dương tức là không có âm, trái lại
không có âm tức là không có dương). Âm dương là hai phạm trù căn bản
để duy trì sự sống “sinh vi bản, bản thuộc âm dương: Sinh mệnh từ mở
đầu đến kết thúc là một quá trình đấu tranh tương hỗ, quá trình tương
quan chặt chẽ tới âm dương, nếu như mất đi mối quan hệ âm dương cũng
có nghĩa là không còn sự sống; vì thế quan điểm của y học dân tộc là:
“âm dương hỗ căn”.
- Về sinh lý mà nói: công năng của toàn cơ thể thuộc dương, cơ sở vật
chất của toàn cơ thể thuộc âm. Công năng hoạt động chủ yếu dựa vào vật
chất là cơ sở mà quá trình bồi bổ vận động của vật chất lại phải dựa vào
hoạt động công năng (bao gồm một loạt hoạt động ăn uống, tiêu hoá, hấp
thu, tuần hoàn máu và dịch thể…)
- Ví dụ về bệnh lý: tâm dương bất túc (không đầy đủ) tất nhiên dẫn đến
tâm âm bất túc và ngược lại.
6


2.1.1.3. Âm dương tiêu trưởng.
“Âm dương tiêu trưởng, dương tiêu âm trưởng”. Tiêu và trưởng là hai
quá trình song song tồn tại và biến động thường xuyên, bởi vì tổ chức của
các cơ quan trong cơ thể không ngừng hoạt động, vật chất không ngừng
bị tiêu hao và lại thường xuyên được bổ xung. Trong phạm vi nhất định,
tiêu trưởng biến đổi bình thường duy trì chức năng hoạt động của cơ thể

sống. Nếu như nhấn mạnh một mặt nào hoặc là tiêu thái quá hoặc là
trưởng thái qúa đều phát sinh bệnh lý.
Ví dụ: Sở dĩ có âm hư (tức là tiêu thái quá) sẽ dẫn đến dương vượng,
dương hư sẽ dẫn đến âm thịnh. Ngược lại quá trình âm thịnh (trưởng thái
quá sẽ dẫn đến dương hư, dương vượng sẽ dẫn đến âm hư)
- Trong bệnh cao huyết áp: có những triệu chứng đau đầu, chóng mặt hay
mất ngủ, hay mê, hay cáu gắt, giận dữ, lưỡi hồng, khô, mạch huyền tế
sác, đó chính là âm hư dương vượng.
- Trong bệnh cấp tính có sốt thường sốt rất cao là “dương quá thịnh” làm thương
tổn phần âm huyết, âm dịch bị tiêu hao tức là dương thịnh dẫn đến âm hư.
Tất cả những ví dụ trên đều làm sáng tỏ phạm trù âm dương tiêu trưởng hỗ căn.
2.1.1.4. Âm dương chuyển hoá.
Quan điểm y học cổ truyền “trọng âm tất dương, trọng dương tất âm” nghĩa
là trong điều kiện bình thường hai mặt âm và dương luôn luôn chuyển hoá
tương hỗ, âm có thể chuyển thành dương, dương có thể chuyển thành âm.
Nguyên nhân gây bệnh thường gặp trên lâm sàng khi mới mắc thường là biểu
(dương chứng) khi chuyển vào lý (âm chứng), từ thực (dương) chuyển hư (âm)
và từ nhiệt (dương) hoá thành hàn (âm).

Phong hàn biểu chứng, không ra được mồ hôi, có thể hoá nhiệt nhập lý, tà
thịnh thực chứng, nếu như không được điều trị đúng có thể chuyển thành
hư chứng bởi vì khi dương thịnh nhiệt chứng dùng quá nhiều thuốc hàn
lương sẽ thành chứng hàn và trái lại khi âm thịnh, dùng quá nhiều thuốc
ôn nhiệt sẽ thành chứng nhiệt.
Cũng tương tự các nguyên nhân bệnh lý có thể biến hoá từ lý đến biểu, hư
chuyển thành thực, hàn biến thành nhiệt…
Ví dụ: Khi trẻ bị sởi (ma chấn) độc tố sởi tích luỹ trong các tạng phủ gây
các biến chứng nguy hiểm, do quá trình điều trị đưa các độc tố ra ngoài
(nghĩa là tự lý ra biểu).
Chứng khí hư cũng có nguyên nhân khí bất hành huyết, huyết uất lại mà

thành huyết ứ (thực chứng)
Chứng lý hàn trong quá trình điều trị nhiều thuốc ôn táo làm tổn thương âm dịch
sẽ chuyển thành chứng “âm hư nội nhiệt”. Tất cả những ví dụ trên đều nói lên
âm dương chuyển hoá lẫn nhau, nương tựa, tương hỗ lẫn nhau và cùng tồn tại.
2.1.1.5. Kết luận.
Âm dương hai mặt đối lập trong một thể thống nhất luôn luôn vận động
và chuyển hoá lẫn nhau. Trong sự vận động chuyển hoá, tiêu trưởng là
hai quá trình song song tương hỗ. Mặt này tiêu mặt kia trưởng và ngược
lại.
7


2.1.2. Học thuyết ngũ hành.
2.1.2.1. Khái niệm.
Học thuyết ngũ hành là học thuyết âm dương ứng dụng cụ thể trong việc
quan sát, quy nạp mối liên quan giữa các tạng phủ.
Triết học xưa cho rằng vật chất cơ bản cấu tạo nên vũ trụ là: mộc, hoả, thổ,
kim, thủy; mỗi loại có đặc tính riêng nhất định. Giữa vũ trụ bao la có vô vàn
vật chất, sự vật; phải dựa vào đặc tính của 5 loại vật chất cơ bản để từng bước
quy loại. Bởi vậy, vật chất cũng được chia năm loại lớn: mộc, hoả, thổ, kim,
thủy để giải thích các mối liên hệ tương hỗ giữa các sự vật, gọi tắt là “ngũ
hành”
Trong y học xưa dựa vào quan hệ tương hỗ của ngũ hành để giải thích
mối quan hệ giữa hoàn cảnh tự nhiên bên ngoài với bên trong cơ thể và
giữa các cơ quan trong cơ thể với nhau.
Ví dụ: đem ngũ khí, mùa thời tiết…của tự nhiên liên hệ với ngũ tạng ở
trong cơ thể, dựa vào các đặc điểm khác của nó mà quy loại ngũ hành.
Hiện nay sự quy loại ngũ hành của y học cổ truyền được xắp đặt theo
bảng dưới đây:
2.1.2.2. Quy loại ngũ hành.

Mộc

Hoả

Thổ

Kim

Thủy

1.Tạng
Can
Tâm
Tỳ
Phế
Thận
2.Phủ
Đởm
Tiểu trường
Vị Đại trường Bàng quang
3.Ngũ khiếu Mắt
Lưỡi
Miệng
Mũi
Tai
4.Ngũ thế Cân
Mạch
Cơ nhục
Bì phu
Cốt

5.Ngũ chí Nộ (giận) Vui (mừng) Tư (lo)
Bi (buồn)
Sự
6.Ngũ sắc Xanh
Đỏ
Vàng
Trắng
Đen
7.Ngũ vị
Chua
Đắng
Ngọt
Cay
Mặn
8.Ngũ khí Phong
Thử
Thấp
Táo
Hàn
9.Tiết quý Xuân (sinh) Hạ (trưởng) Trưởng hạ (hoá) Thu (kết) Đông
………………………………………………………………… (tàng)
Theo sự quy loại của bảng trên, tạng can liên hệ với mắt, cân, vị chua, khí
gió, mùa xuân, đặc điểm can ưa thư thái, thích điều đạt.
Học thuyết ngũ hành là ngũ tạng có quan hệ sinh khắc, sinh là súc tiến,
thúc đẩy phát triển. Khắc là ức chế.

8


2.1.2.3. Quy luật ngũ tạng tương sinh là tác dụng thúc đẩy.

Can sinh tâm, tâm sinh tỳ, tỳ sinh phế, phế sinh thận, thận sinh can (tức là
mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc)
Trong quan hệ tương sinh: mỗi hành đều sinh ra hành kia và được hành
khác sinh ra mình, và quan hệ với hành sinh ra mình là “mẹ”, hành được
sinh ra là “con”.
Lấy thổ làm ví dụ thì hỏa sinh thổ, hoả là mẹ của thổ, thổ sinh kim “kim
vi thổ chi tử”.
2.1.2.4. Quy luật ngũ tạng tương khắc là tác dụng ức chế.
Can đối với tỳ, tâm đối với phế, tỳ đối với thận, phế đối với can và thận
đối với tâm (tức là mộc khắc thổ, hỏa khắc kim, thổ khắc thủy, kim khắc
mộc, thủy khắc hoả).
Trong quan hệ tương khắc: mỗi tạng đều bị một tạng khắc mình và quan
hệ với tạng khác…(thắng và không thắng)
Lấy mộc làm ví dụ: mộc khắc thổ tức là “thổ vi mộc chi sở thắng”. Kim
khắc mộc tức là “kim vi mộc chi sở bất thắng” ngoài ra còn có phản khắc.
Ví dụ: tỳ thổ khắc thận thủy, nhưng trong trường hợp bệnh lý thận thủy phần lớn
phản khắc tỳ xuất hiện đại tiện lỏng nát. Như vậy một tạng xúc tiến đẩy một tạng
khác và tạng này ức chế tạng kia và thúc đẩy một tạng khác, thúc đẩy và ức chế,
hay tương sinh và tương khắc phải luôn luôn kết hợp và cân bằng, để bảo vệ quan
hệ bình thường giữa các tạng, duy trì hoạt động bình thường của cơ thể.
2.1.2.5. Ứng dụng trên lâm sàng.
Ngũ hành có quan hệ chặt chẽ với chẩn đoán và điều trị trên lâm sàng.
Ví dụ: trong vọng chẩn thường lấy việc quan sát sự nhuận sáng tươi hồng
của sắc mặt:
Sắc mặt xanh thuộc về can phong
Sắc mặt đỏ phần nhiều thuộc về tâm hỏa
Sắc mặt vàng thuộc về tỳ thấp
Sắc mặt trắng thuộc về phế hàn
Sắc mặt đen thuộc về thận hư
9



Trong điều trị bệnh tạng phủ phần nhiều dựa vào sự liên quan ngũ vị đối
với ngũ tạng mà chọn thuốc. Nói chung vị chua vào can, thuốc có vị mặn
vào thận, có vị ngọt vào tỳ, vị đắng vào tâm, vị cay vào phế…Như vậy là
ngũ sắc, ngũ vị trong ngũ hành được ứng dụng cụ thể trong chẩn đoán và
điều trị.
Về ngũ hành sinh khắc được ứng dụng trên lâm sàng để tìm vị trí phát
sinh ra bệnh tật và cách điều trị khác nhau. Tương sinh là quá trình thúc
đẩy bình thường, là có lợi cho điều trị bệnh lý. Ví dụ bồi bổ tỳ vị để nâng
đỡ cơ thể trong bệnh lao phổi. Như thế gọi là bồi thổ sinh kim; trong điều
trị can dương thượng nghịch phải căn cứ vào thủy sinh mộc, phải dùng
phương pháp tư dưỡng thận âm gọi là tư thủy dưỡng mộc.
Về mặt tương khắc, tuy nhiên tạng này trong điều kiện bình thường tác dụng ức chế
tạng khác, đó là ức chế có lợi, do tác dụng cân bằng hiệp đồng. Ví dụ: quan hệ
tương khắc của thận thủy với tâm hoả bình thường là tương tế “thủy hoả tương tế,
hay thủy hoả tương giao”. Nhưng khi thủy quá mạnh gọi là tương thừa (tức là tạng
bị khắc phát sinh ra bệnh lý), khi đó quan hệ hiệp đồng giữa tâm thận bị phá vỡ,
thủy hoả không giao nhau, xuất hiện tâm phiền tâm quý, mất ngủ, hay quên, lưng
gối đau mỏi và phù gọi là “tâm thận bất giao”, “thủy hoả bất tương tế”.
Khi điều trị phải dùng phương pháp giao thông tâm thận (dùng bài; tần giao thang
gia giảm). Hoặc can mộc quá mạnh dẫn đến tỳ thổ thất điều, xuất hiện phúc thống
tiết tả gọi là “mộc khắc thổ” “can mộc thừa tỳ”, trong điều trị phải thư can kiện tỳ.
Khi dùng thuốc phải dựa vào tính vị của thuốc và trong bào chế phải làm thay
đổi tính chất vị thuốc theo yêu cầu đi vào các tạng phủ và cơ quan cần thiết.
Kết luận: Học thuyết âm dương ngũ hành là học thuyết phác thảo quan
điểm duy vật biện chứng tự phát, thừa nhận thế giới là do vật chất cấu tạo
thành, mọi sự vật đều có quan hệ tương hỗ. Trong một sự vật luôn có hai
quá trình âm và dương luôn đối lập, hỗ căn hoặc dựa vào nhau, đấu tranh
thúc đẩy nhau mà tồn tại. Y học cổ truyền luôn coi đó là phương châm

chỉ đạo trong điều trị và dự phòng.

2.1.3. ứng dụng học thuyết âm dương, ngũ hành trong lâm
sàng.
2.1.3.1. Vận dụng trong nguyên nhân sinh bệnh.
Y học cổ truyền cho rằng: “Âm bình dương bí, tinh thần nại trị” nghĩa là
nói hai mặt âm và dương chỉ có thể ở trạng thái tương đối cân bằng, song
song tồn tại thì mới duy trì được hoạt động sinh lý bình thường của cơ
thể.
Nếu như sự cân bằng âm dương bị phá vỡ sẽ phát sinh bệnh lý. Ví dụ:
dương thiên thắng hoặc thiên suy, âm thiên thắng hoặc thiên suy. Dựa
vào lý lẽ âm dương tiêu trưởng mà trên lâm sàng thường thấy, nếu âm
thịnh dẫn đến dương suy, sẽ thấy các triệu chứng dương khí bất túc: sợ
lạnh, chân tay lạnh, sắc mặt trắng bủng, tự hãn, tiểu tiện trong dài, chất
lưỡi nhợt, mạch hư.

10


Ví dụ: phế âm hư, trong phế kết hạch khái thấu (ho lao phổi), dẫn đến
dương vượng, xuất hiện triệu chứng trằn trọc, mất ngủ, miệng khô, muốn
uống luôn, lưỡi hồng, mạch sác.
Dựa vào lý lẽ âm dương hỗ căn; nếu như một trong hai mặt âm dương
thiên thắng hoặc là thiên duy đều dẫn đến âm hoặc dương bất túc (không
đầy đủ) “dương tổn cập âm, âm tổn cập dương” (nội kinh). Ví dụ: trong
một số bệnh nhân mãn tính thường giai đoạn cuối đều phát triển theo
chiều hướng âm dương lưỡng hư.

2.1.3.2. Vận dụng trong chẩn đoán.
Đông y đề xuất “phàm chẩn bệnh phương trị tất tu tiên thẩm âm dương”

tức là khi phân tích tình hình bệnh lý thường phải dùng phép quy nạp về
âm dương, tập hợp các triệu chứng khái quát thành hai loại âm chứng hay
dương chứng.
Ví dụ: thực chứng phân thành âm thịnh hay dương vượng, hư chứng thì
âm hư hay dương hư, trên cơ sở đó đề ra nguyên tắc phương trị.

11


12


2.1.3.3. Vận dụng trong điều trị.
Y học xưa cho rằng: “cẩn sắt âm dương sở tại nhi điều chi dĩ bình vi kỳ”
nghĩa là nói nguyên tắc điều trị của đông y, thông qua điều trị làm biến
đổi tình trạng âm dương thiên thắng hoặc thiên suy trong cơ thể, điều
chỉnh quan hệ giữa âm và dương nhằm mục đích khôi phục trạng thái
tương đối cân bằng của âm dương, tiêu trừ bệnh tật. Sở dĩ dương thịnh
dùng âm dược, âm thịnh dùng dương dược, mục đích tả phần hữu dư của
âm dương, dương hư dùng dương dược, âm hư dùng âm dược mục đích
bổ thêm phần bất túc của âm dương.
Về tính vị công năng của các vị thuốc cũng phải phân chia theo âm
dương: ví dụ thuốc có tính năng ấm nóng thuộc dương dược, thuốc có
tính mát lạnh thuộc âm dược, thuốc có vị cay, ngọt, đạm thuộc dương
dược, vị chua, mặn, đắng thuộc âm dược, thuốc có tính thăng phù phát
tán thuộc dương dược, tác dụng trầm giáng thông tiết thuộc âm dược.
Tóm lại phải vận dụng linh hoạt các vị thuốc đúng với thuộc tính âm
dương của dược vật mới đạt được hiệu quả tốt.
Âm dược
Dương dược

- Mát lạnh
- Ấm nóng
- Chua, mặn, đắng
- Cay, ngọt, đạm
- Trầm, giáng, thông, tiết
- Thăng, phù, phát tán
Trên lâm sàng thường gặp các hội chứng:
- Bán biểu bán lý
- Biểu lý đồng bệnh
- Hư chung hiệp thực, thượng thực hạ hư
- Chân hàn giả nhiệt, chân nhiệt giả hàn
- Âm hư dương vượng, dương hư âm thịnh
- Âm dương lưỡng hư, âm trung chi dương, dương trung chi
âm…
Phải luôn luôn nắm vững thuộc tính âm dương tương hỗ, tiêu trưởng,
bình hành, đối lập nhưng thống nhất, luôn luôn chuyển hoá lẫn nhau,
phân biệt chính xác, sử dụng linh hoạt các loại thuốc theo đúng thuộc tính
âm dương sẽ đạt kết quả cao trong chẩn đoán và phương trị.
- Sắc mặt trắng bủng, tứ chi vô lực, rối loạn ngôn ngữ (loạn ngôn), nói
nhỏ đó là dương bất túc hay là âm bất túc ?
2.2. CHỨC NĂNG TẠNG PHỦ (THE ZANG – FU FUNCTIONS)

2.2.1. Mục đích.
Giải thích được sinh lý của tạng phủ. Nắm vững quan hệ giữa các
cơ quan, tổ chức với các tạng phủ trong cơ thể với nhau.

2.2.2. Mở đầu.
Học thuyết tạng phủ là bộ phận chủ yếu tạo thành lý luận cơ bản của y
học cổ truyền. Đây là lý một học thuyết xuất phát từ quan điểm chỉnh thể,
mọi hoạt động sinh lý bệnh lý của cơ thể đều do lục phủ ngũ tạng thông

13


qua hệ thống kinh lạc chi phối mọi tổ chức cơ quan liên kết thành một thể
thống nhất, chỉnh thể và có quan hệ hữu cơ với nhau không thể tách rời.
- Về mặt sinh lý giữa tạng phủ song song tồn tại và hỗ tương chế ước lẫn
nhau. Khi bệnh lý tức là quan hệ hỗ tương chế ước đã bị thay đổi.
- Tạng là chỉ ngũ tạng: Tâm - can - tỳ - phế - thận.
- Phủ là chỉ lục phủ: Đởm - vị - đại trường - tiểu trường - bàng quang
-tam tiêu.
- Quan niệm về chức năng ngũ tạng, lục phủ của y học cổ truyền có mặt
cơ bản gần giống tây y (y học hiện đại). Có tạng khác nhau rất lớn, có
những phủ đến nay trong y học hiện đại chưa có cơ quan tương ứng (tam
tiêu). Vì vậy ta không thể đơn giản gán ghép các cơ quan của y học hiện
đại vào các tạng phủ của y học xưa. Học thuyết tạng phủ là lý luận về
chức năng hệ thống tạng phủ ngày càng được phát triển và nâng cao trên
cơ sở lâu dài của thực tiễn lâm sàng. Nó có ý nghĩa chỉ đạo rất quan trọng
trong việc chẩn trị của y học cổ truyền, tuy nhiên trong đó có một số vấn
đề thuộc bản chất đang còn chưa rõ, cần được chỉnh lý và nâng cao thêm.

2.2.3. Sinh lý và bệnh lý chủ yếu của tạng phủ.
Con người là một chỉnh thể, giữa ngũ tạng lục phủ luôn tồn tại trong mối
quan hệ phức tạp. Có sự phân công nhưng lại có sự tương hỗ phối hợp.
Tóm lại tạng và phủ có đặc điểm khác nhau là:
- Ngũ tạng có chức năng tàng trữ tinh khí.
- Lục phủ có chức năng truyền đạt tinh thô, phân biệt thanh trọc,
nhào chế thủy cốc. Ngoài ra còn có não, tủy, xương, mạch, đởm, tử cung,
chức năng của nó có sự giống, có mặt khác tạng phủ nên được gọi là phủ
kỳ hàng.
2.2.3. 1. Tâm và tiểu trường.

* Chủ thần chí.
Tâm chủ hoạt động tư duy, ý thức, tinh thần tương đương với hoạt động
thần kinh cao cấp. Nếu như chủ thần chí bình thường con người thường
tinh nhanh nhẹn, thậm chí thông minh sáng suốt. Khi bệnh lý thường có
triệu chứng; tâm lý, kinh khủng, hay quên, mất ngủ, nói cười quá mức
hoặc nặng thì hôn mê phát phiền, loạn ngôn.
* Chủ huyết mạch.
Tâm gắn liền với mạch, sở dĩ huyết tuần hoàn trong mạch máu là nhờ có
sự hoạt động của tâm. Khi tâm khí hư nhược thì mạch tế nhược vô lực,
khí đến không đều, mạch không đầy đủ (có hình mạch, súc, kết đại). Tâm
chủ về sắc mặt nhuận trạch sáng tươi và khai khiếu ra lưỡi, sự phân bố
huyết mạch ở lưỡi và mặt đều phong phú. Khi bình thường, sắc mặt
nhuận trạch hồng, nhuận sáng tươi, sắc lưỡi hồng nhạt. Nếu tâm khí bất
túc, tuần hoàn không đầy đủ, sắc mặt trắng bạch hoặc xanh tía không tươi
nhuận, sắc lưỡi tím xám; còn tâm hỏa quá vượng, đầu lưỡi hồng đỏ,
miệng lưỡi sinh mụn nhọt hoặc lở loét.
Khi đàm mê tâm khiếu, thấy lưỡi cứng không nói được, người xưa cho
rằng “thiệt vi tâm chi miêu” lưỡi là nơi khai khiếu của tâm.
14


* Tâm quan hệ với mồ hôi.
Tâm và mồ hôi có quan hệ mật thiết, cổ nhân cho rằng “hãn vi tân dịch”
người bệnh dùng thuốc phát hãn quá độ hoặc do nguyên nhân khác dẫn
đến ra mồ hôi quá nhiều làm tổn hại tâm dương, thậm chí xuất hiện chứng
nguy kịch “đại hãn vong dương”.
* Phụ.
Tâm bào còn gọi là tâm bào lạc, là ngoại về của tâm. Do tâm là tạng quan
trọng, tâm chủ chi quan. Nếu “tâm suy thập nhị quân đều nguy” nên còn
có một cơ quan ngoại vệ để bảo vệ nó. Nếu như ngoại tà phạm tâm trước

tiên vào tâm bào. Trong bệnh ôn nhiệt, sốt cao mê sảng (loạn ngôn) là
biểu hiện nhiệt nhập tâm bào, tâm bào ở đây chủ yếu chỉ hoạt động thần
kinh cao cấp.
* Bệnh lý, sinh lý của tiểu trường.
Chức năng sinh lý của tiểu trường là tiếp thu thức ăn từ vị truyền đạt
xuống để tiếp tục quá trình tiêu hoá phân biệt thanh trọc. Thanh là chỉ
tinh hoa của thức ăn “thủy cốc chi tinh” từ tiểu trường sau khi hấp thu
vận chuyển lên phế. Trọc chỉ chất thô của vật chất từ tiểu trường đưa
xuống đại trường hoặc vận chuyển qua bàng quang.
- Khi tiểu trường có bệnh, không những ảnh hưởng đến chức năng tiêu
hoá hấp thu mà còn xuất hiện tiểu tiện thất thường.
- Tâm liên hệ với tiểu trường thông qua kinh lạc tạo thành liên hệ
biểu và lý.
- Nếu như tâm hỏa qúa vượng có thể thấy đầu lưỡi đau, hồng, miệng rộp
loét, tiểu tiện ngắn đỏ, thậm chí đái ra máu. Bệnh lý như vậy gọi là “tâm
đa nhiệt vu tiểu trường”. Tâm trong đông y, trên cơ bản gồm: tạng tâm
của y học hiện đại và một bộ phận thần kinh trung khu hệ thống thần kinh
thực vật…cả về chức năng sinh lý bình thường và khi phát bệnh.
2.2.3.2. Can và đởm.
Sinh lý và bệnh lý của can.
* Chủ sơ tiết.
Can có tác dụng thăng phát, thấu tiết, chủ quản về thư thái điều đạt khí cơ
của toàn cơ thể.
Nếu như can mất điều đạt, sơ tiết thất thường, khí cơ không thăng dẫn
đến nhiều chứng bệnh.
Nếu như can khí uất hay sinh giận dữ, đau đầu, ngực sườn đau chướng,
kinh nguyệt không đều…Trái lại can khí thăng phát quá làm cho can
dương thượng nghịch hóa hỏa sẽ dẫn đến trúng phong, thấy đau đầu dữ
dội hoặc mắt đỏ, mắt đau, tai ù, tai điếc.
Can khí không thăng phát – sinh huyễn vựng, mất ngủ dễ giật mình, tinh

thần hoảng hốt.
* Chủ tàng huyết.
Can có chức năng tàng huyết và điều tiết lượng huyết, khi hoạt động
huyết dịch trữ tàng ở can cung cấp cho các cơ quan tổ chức, khi nghỉ ngơi
hoặc ngủ huyết lại dồn về can, tàng huyết còn có nghĩa là có khả năng dự
15


phòng chảy máu. Nếu chức năng tàng huyết kém sẽ sinh ra chảy máu: thổ
huyết, nục huyết…
* Khai khiếu ở mắt.
Can và mắt có liên quan mật thiết với nhau, can có bệnh thường ảnh
hưởng đến sự tinh tường của mắt. Can hư tất thị lực giảm (quáng gà), can
hoả vượng hay có mắt đỏ.
* Can chủ cân, vinh nhuận móng tay chân.
Can chủ quản hoạt động của cân, chi phối khớp xương và hoạt động cơ
nhục của toàn cơ thể. Can nhờ vào sự nuôi dưỡng của can huyết. Nếu như
can huyết bất túc không dưỡng được cân sẽ phát sinh đau cân, tê mỏi, co
duỗi khó khăn hoặc có những chứng cấp tính, nhiệt cực dẫn đến can
phong nội động cũng có thể phát sinh co giật.
Móng tay, chân là phần dư của cân, móng tay, chân và can có quan hệ
mật thiết, can huyết xung túc thì móng ngón tay hồng nhuận. Can huyết
bất túc, móng tay khô sác, bạc trắng, y học xưa cho rằng: “ký hoa tại
qúa”.
* Sinh lý bệnh của đởm.
Đởm là một trong sáu phủ nhưng chức năng của nó khác các phủ khác
nên gọi là phủ kỳ hàng. Tác dụng chủ yếu của đởm là trữ tàng dịch mật.
Dịch mật là dịch thể màu xanh.
Người xưa gọi mật (đởm) là “trung thanh chi phủ”. Bệnh đởm biểu hiện
chủ yếu là đau sườn, vàng da, đắng miệng, nôn mửa ra nước đắng.

Can đởm quan hệ với nhau thông qua kinh lạc tạo thành quan hệ biểu lý,
can đởm tương liên, khi phát bệnh thường ảnh hưởng tương hỗ, khi điều
trị thường can đởm đồng trị.
Do những lý luận trên người xưa coi chức năng can đởm như là chức
năng gan mật của tây y (về mặt cơ bản) ngoài ra còn bao gồm cả một bộ
phận hệ thống thần kinh cao cấp, hệ thống huyết dịch và cơ quan thị giác.
2.2.3. 3. Tỳ và vị (sinh lý và bệnh lý của tỳ và vị)
* Chủ về vận hoá và chuyển hóa.
Tỳ chủ quản tiêu hóa hấp thu và vận chuyển thức ăn. Thức ăn vào vị, sau
khi tiêu hóa bước đầu, tới tỳ tiếp tục tiêu hóa thêm một bước những vật
chất tinh vi (dinh dưỡng) được hấp thu phân bố khắp toàn thân, cung cấp
dinh dưỡng cho tất cả các cơ quan tổ chức của cơ thể. Ngoài sự vận hóa
thức ăn tinh vi, tỳ còn có chức năng vận hóa thủy cấp cùng với phế và
thận duy trì sự cân bằng thủy dịch trong cơ thể. Khi chức năng vận hóa
của tỳ được bình thường thì tiêu hóa hấp thu chuyển hóa tốt, khí huyết
vượng thịnh, tinh lực khỏe mạnh. Nếu tỳ hư vận hóa thất thường, tiêu hóa
hấp thu không tốt dẫn đến bụng chướng, đại tiện lỏng nát có thể là
nguyên nhân vận hóa thủy dịch trở ngại dẫn đến thủy cấp đình trệ phát
sinh thủ thũng (phù) hoặc đàm ẩm.
* Chức năng thống huyết.
Tỳ có chức năng thống nhiếp huyết dịch của toàn cơ thể. Nếu như tỳ hư
chức năng thống nhiếp ảnh hưởng làm cho “hiếp bất tuần kinh” sinh các
16


triệu chứng chảy máu, nôn máu, chảy máu cam, băng lậu, đại tiện ra
máu…Ngoài ra tỳ quan hệ với việc sinh huyết cũng rất chặt chẽ. Tỳ hư
chức năng sinh hóa huyết dịch giảm sút dẫn đến thiếu máu.
* Tỷ chủ cơ nhục tứ chi và khai khiếu ở môi miệng.
Bình thường tỳ vận hóa thủy cóc tinh vi dinh dưỡng toàn thân, ăn

uống đầy đủ, cơ nhục to khoẻ, cơ thể cường tráng, tứ chi có lực, môi
miệng hồng nhuận. Tỳ khí hư nhược, vận hóa thất thường, ăn uống kém,
cơ nhục yếu mềm, tứ chi vô lực, sắc môi trắng nhợt hoặc vàng tối.
* Bệnh lý, sinh lý của vị.
Chức năng chủ yếu của vị là thu nạp thủy cốc và cũng có tham gia nhào
trộn thủy cốc. Người xưa cho rằng “vị thủy cốc chi hải”. Khi vị bị bệnh
có các triệu chứng: Bụng đau, đầu nặng, ăn uống giảm sút, buồn nôn, nôn
khan. Tỳ và vị quan hệ biểu lý thông qua kinh lạc. Tỳ chủ vận hóa, vị chủ
thu nạp cùng hoàn thành nhiệm vụ tiêu hóa hấp thu vận chuyển dinh
dưỡng, tác dụng của tỳ vị đối với cơ thể vô cùng quan trọng. Người xưa
cho rằng: “Hữu vị khí tắc sinh, vô vị khí tắc tử”.
- Vị vi hậu thiên chi bản, tỳ và vị có đặc điểm khác nhau. Tỳ khí
chủ thăng, sợ thấp, thích táo.
- Vị khí chủ giáng, thích nhuận, sợ táo, hai mặt tương phản, tương thành.
Vị khí giáng thủy cốc mới có thể đi xuống đường tiêu hóa, đi toàn thân và
đến các tạng phủ khác. Nếu vị khí không giáng trái lại nghịch lên sẽ buồn
nôn, nôn khan, ợ hơi, ợ chua, ách nghịch, vị thống. Tỳ khí bất thăng lại hạ
hãm (gọi là trung khí hạ hãm) sẽ dẫn đến các triệu chứng loạn ngôn, thiếu
khí, tiết tả, thoát giang, sa các tạng. Tỳ thuộc âm; tỳ hư dễ sinh thấp (tỳ
không kiện vận được thủy thấp) thường dễ bị thấp tà xâm phạm, nếu tỳ bị
thấp tà từ ngoài xâm phạm sẽ phát sốt, nặng đầu, đau mình, thân thể nặng
nề, thượng vị đầy tức, mạch nhu hoãn, rêu lưỡi trắng dày. Điều trị phải
dùng “ôn tỳ táo thấp”.
- Vị thuộc dương: bệnh ở vị đa phần thuộc nhiệt, vị hỏa, miệng khô, thích
uống, không muốn ăn hoặc đau răng, chảy máu chân răng, thổ huyết,
chảy máu cam, điều trị phải “thanh nhiệt giáng hỏa”. Liên hệ đông y và
tây y, vị và dạ dày tương ứng với nhau. Còn tỳ của đông y bao gồm chức
năng bệnh tật của quá trình tiêu hóa hấp thu vật chất, cân bằng chuyển
hóa dịch thể và một phần sự tuần hoàn huyết dịch. So với tây y tỳ của
đông y có chức năng rất khác biệt.

2.2.3. 4. Phế và đại trường (sinh lý và bệnh lý của phế và đại trường)
* Phế chủ khí.
Chỉ chức năng hô hấp, trao đổi khí để duy trì chức năng hoạt động
sinh mệnh trong cơ thể. Mặt khác còn chỉ phế triều bách mạch, tham gia
tuần hoàn huyết dịch, đem thủy cốc tinh vi chuyển tới các tổ chức toàn
thân (phế chủ nhất thân chi khí). Khí của tạng phủ, kinh lạc thịnh, suy đều
có liên quan chặt chẽ với phế. Chức năng phế chủ khí trở ngại chủ yếu
biểu hiện bệnh lý của hệ thống hô hấp, khái thấu, khí suyễn, nói nhỏ,
đoản khí, loạn ngôn.
17


* Phế chủ túc giáng thông điều thủy đạo.
Phế khí là để thanh túc hạ giáng, nếu phế khí nghịch lên sẽ phát
sinh khí suyễn, khái thấu. Việc vận hóa bài tiết thủy dịch của cơ thể
không những chỉ dựa vào sự vận hóa và chuyển hóa của tỳ mà còn phải
dựa vào sự túc giáng của phế khí mới có thể thông điều thủy đạo xuống
bàng quang. Nếu như phế mất khả năng túc giáng sẽ ảnh hưởng đến
chuyển hóa thủy dịch dẫn đến thủy thấp đình trệ, xuất hiện tiểu tiện
không thông, thủy thũng hoặc tiện huyết. Người xưa cho rằng: “ phế vị
thủy chi thượng nguyên”, phế khí bất năng túc giáng, có khi liên quan
đến “phế khí bế trở”. Vì vậy một số chứng ho hen và thủy thũng thường
phối hợp với thuốc “khai phế khí”. Ví dụ: ma hoàng, tế tân, hạnh nhân…
* Phế chủ bì mao.
Phế có quan hệ mật thiết với bì phu cơ biểu, phế vệ mà vững chắc
thì cơ biểu kín đáo kiên cố, da lông nhuận trạch (tươi sáng, óng mượt),
sức đề kháng của cơ thể mạnh, nếu không dễ bị ngoại tà xâm phạm. Khí
của phế vệ không kiên cố, lỗ chân lông sơ hở dễ bị ngoại tà xâm phạm,
nặng hơn là tà phạm phế. Ngoài ra nếu cơ biểu không kiên cố, tân dịch
tiết ra ngoài có htể phát sinh tự hãn, đại hãn.

* Phế khai khiếu ở mũi.
Mũi là cửa của hô hấp tương thông với phế, khí phế có bệnh
thường biểu hiện mũi tắc, mũi chảy, hô hấp khó khăn, cánh mũi phập
phồng.
* Phế có liên quan đến tiếng nói.
Thanh âm có liên quan với tác dụng của phế khí, phế khí đầy đủ thì
thanh âm to rõ, phế khí hư thanh âm nhỏ yếu; phong hàn phạm phế, phế
khí tụ tắc, nói không rõ (do bệnh tà gây hại) hoặc do phế khí hao tổn quá
mức dẫn đến mất tiếng nói (thất âm)
* Sinh lý, bệnh lý của đại trường.
Chức năng chủ yếu của đại trường là chuyển đạt tinh thô, bài tiết
đại tiện (nếu đại tiện táo kết, tiểu tiện bế hoặc đau bụng ỉa lỏng hoặc ỉa
máu đều thuộc đại trường).
Phế quan hệ với đại trường thông qua kinh lạc tạo thành quan hệ biểu lý.
Phế khí túc giáng tốt thì chức năng đại trường bình thường, đại tiện thông
suốt. Nếu đại trường tích trệ, không thông cũng có thể gây tác dụng trái
ngược làm cho sự túc giáng của phế khí ảnh hưởng. Trên lâm sàng
thường phế, đại trường đồng trị. Bệnh phế thường chữa phế kèm theo có
chữa đại trường và ngược lại, bệnh đại trường chữa đại trường kèm theo
chữa phế. Ví dụ: đại tiện bế, ngoài việc dùng thuốc thông điều còn dùng
thêm thuốc nhuận phế hoặc giáng phế khí thường có kết quả tốt hơn. Trái
lại, một số chứng phế thực nhiệt, ngoài việc dùng thuốc thanh phế nhiệt
còn dùng các thuốc thông đại tiện thường đạt hiệu quả tốt hơn nhiều.
Dựa vào chức năng sinh lý, bệnh lý trên, về căn bản phế và đại trường
của y học cổ truyền và y học hiện đại là gần tương ứng. Nhưng chức năng
phế theo y học cổ truyền ngoài chức năng hô hấp còn một phần tuần hoàn
18


máu, chuyển hóa nước và chức năng điều tiết độ ẩm của cơ thể (điều hòa

thân nhiệt).
2.2.3.5. Thận và bàng quang (sinh lý, bệnh lý của thận và bàng
quang).
* Thận chủ tàng tinh.
Chức năng thận tàng tinh phân ra 2 loại.
+ Một là: tính sinh dục, chủ về sinh dục phát triển nòi giống.
+ Hai là: tinh hoa của ngũ tạng lục phủ, tức là chủ quản về sinh
trưởng, phát dục và các hoạt động sinh mệnh trọng yếu khác của cơ thể.
Bệnh nhân trên lâm sàng phần nhiều là hư chứng, thường gặp trong các
bệnh thuộc hệ thống sinh dục và một số bệnh trong hệ nội tiết. Điều trị
chủ yếu là bổ thận.
* Thận chủ thủy.
Thận là cơ quan chủ yếu điều tiết chuyển hóa nước ở bên trong cơ
thể (người xưa cho rằng thận là tạng có nước). Khi thận bệnh dẫn đến
chuyển đạt nước thất thường, tiểu tiện bất lợi, thủy dịch lưu trệ, toàn thân
phù thũng (phù) hoặc tiểu tiện són, ăn nhiều, đái nhiều (di niệu), đái đêm.
* Thận chủ cốt.
Cốt sinh tủy,, tủy thông với não (phủ nguyên thần), thận tàng tinh,
tinh sinh tủy, thận còn quan hệ với não. Thận tàng tinh (sung túc) đầy đủ
thì xương, tủy não sung thực, cường tráng (khoẻ mạnh), tứ chi khoẻ
mạnh, hoạt động linh hoạt, tinh lực dồi dào, tai tinh, mắt sáng.
Khi thận tinh bất túc thường xuất hiện các triệu chứng: động tác
chậm chạp, xương cốt vô lực, thiếu máu hoặc chóng mặt hay quên, trẻ
con chậm chạp phát dục và tài lực.
Ngoài ra răng là phần dư của cốt: “xỉ vỉ cốt chi dư”, răng có liên quan với
cốt. Khi thận khí hư suy, răng lung lay và rụng.
* Thận chủ mệnh môn hỏa.
Thận là tạng thuộc thủy nhưng lại tàng hỏa của mệnh môn (thận
dương là duy trì năng lượng chủ yếu của sinh mệnh, gọi là hỏa mệnh của
mệnh môn). Nó cùng với thận thủy (thận tinh), một âm, một dương hợp

đồng tương hỗ duy trì mọi chức năng sinh thực (sinh trưởng và phát dục)
và chức năng tạng phủ của cơ thể được bình thường.
Khi mệnh môn hỏa suy có thể dẫn đến liệt dương, xuất tinh sớm, mất khả
năng hoàn tỳ nên hay ỉa lỏng vào sáng sớm (ngũ canh tả) ỉa chảy mãn
tính. Mệnh môn hỏa vượng hay gặp: thất tiết, di tinh...
* Thận chủ nạp khí.
Việc hô hấp do phế là chủ nhưng điều hành, điều độ lại quan trọng
ở chức năng của thận. Thận có tác dụng giúp đỡ phế và hô hấp và giáng
khí, gọi là nạp khí. Nếu như thận không nạp khí sẽ phát sinh háo suyễn
đoản khí, đặc điểm là thở ra nhiều, thở vào ngắn. Trên lâm sàng điều trị
phải bổ thận (bổ thận nhập tức, bổ thận nạp khí).
Liên hệ với y học hiện đại: thận có vai trò điều hòa kiềm toan, sự
tăng giảm độ kiềm toan có liên quan đến thông khí ở phổi (nhpị hô hấp)
19


* Thận bên trên khai khiếu ở tai, bên dưới khai khiếu ở nhị âm.
- Tai có liên quan với thận “nhĩ vị thận chi thượng khai khiếu” thận
khí đầy đủ thì thính giác bình thường, thận khí hư thì ù tai, tai điếc. Nhị
âm là chỉ niệu đạo và hậu môn là hạ khiếu của thận “nhị tiện vi thận chi
hạ khiếu”. Bài tiết đại tiểu tiện có liên quan với thận. Thận khí hư dẫn
đến bí đái hoặc đái dầm dề, thận âm bất túc, đại tiện bế tắc, mệnh môn
hỏa suy có thể dẫn đến ỉa lỏng sáng sớm (ngũ canh tả).
* Thận chủ lông tóc.
“Kỳ hoa tại phát” lông tóc, dài, tốt xanh hay dễ rụng, dễ bạc đều có
liên quan đến thận khí thịnh hay suy.
- Thận khí vượng thì lông tóc đen óng mượt. Thận khí hư suy thì
lông tóc dễ rụng, bạc nhanh.
* Sinh lý, bệnh lý của bàng quang.
Chức năng của bàng quang chủ yếu là chứa đựng và bài tiết nước tiểu.

Khi bàng quang có bệnh xuất hiện đái dắt, đái bí hoặc đái đau. Thận liên
hệ với bàng quang thông qua kinh lạc, tạo thành mối quan hệ biểu lý,
chức năng bài tiết của bàng quang thất thường có khi liên quan với bệnh
tật của thận. Khi thận hư bất năng cố nhiếp sẽ xuất hiện tiện bế hoặc di
niệu.
Từ sinh lý và bệnh lý trên, đông y coi thận về cơ bản bao gồm
những chức năng và bệnh tật của hệ thống sinh dục, tiết niệu của tây y và
một bộ phận tạo máu, hệ thống nội phân tiết và hệ thống thần kinh của
tây y. Bàng quang của đông y gần như bàng quang của tây y.
2.2.3.6. Tam tiêu.
“Tam tiêu thuộc lục phủ chi nhất”. Bao gồm thượng tiêu, trung tiêu
và hạ tiêu.
Về chức năng và hình thái của tam tiêu, đại đa số các tác giả cho
rằng: thượng tiêu chỉ tâm phế, tương đương các chức năng của vùng
ngực. Trung tiêu chỉ tỳ vị, tương đương các chức năng của cơ quan vùng
bụng trên. Hạ tiêu chỉ can, thận, bàng quang, đại tiểu trường tương đương
các chức năng của cơ quan vùng bụng dưới. Chức năng của tam tiêu:
- Thượng tiêu như “vụ” chỉ tác dụng (quản lý xuất nhập, phân bố
chuyên chở) các vật chất dinh dưỡng của tâm và phế (vụ còn có ý nghĩa
như xương mù).
- Trung tiêu như âu (bọt nước, trắng như sữa), chỉ tác dụng vận hóa của
tỳ vị.
- Hạ tiêu như độc (rãnh, nước) chỉ tác dụng bài tiết của bàng quang và
thận.
Trong học thuyết “ôn bệnh” phần biện chứng tam tiêu là lấy tam tiêu làm
cương lĩnh cho biện chứng luận trị và phân loại chứng hậu.
- Thượng tiêu bệnh (thời kỳ đầu của bệnh truyền nhiễm)
- Trung tiêu bệnh (thời kỳ toàn phát, khí phận chứng hậu, triệu
chứng của khí phận)
20



- Hạ tiêu bệnh (xuất hiện triệu chứng, huyết phận chứng hậu, tác
nhân gây bệnh là tà khí vào huyết phận).
Tóm lại: chức năng của tam tiêu là chỉ tổng hợp chức năng sinh lý
của nhóm tạng phủ nào đó trong khoang ngực, bụng. Bệnh tật của tam
tiêu có liên quan đến sự chuyển vận các chất dinh dưỡng ở tạng phủ.
(Chú ý hệ bạch mạch, hệ thống dưỡng chấp chi phối cho các tạng phủ và
cơ quan)
2.2.3.7. Tử cung .
Gọi là bào cung, bao gồm tử cung và phần phụ của nó, tác dụng
chủ về kinh nguyệt và sinh sản, có liên quan mật thiết với thận và đặc biệt
là hai mạch xung, nhâm. Ba bộ phận (bảo đảm cho thai sản, kinh nguyệt
và sinh dục được bình thường). Thận tinh đầy đủ, mạch xung nhâm thịnh,
kinh nguyệt, sinh dục bình thường. Thận tinh hư tổn, mạch xung nhâm
hư, kinh nguyệt không điều hòa, thậm chí không có thai.

2.2.4. Sự liên quan ngũ tạng:
Giữa tạng với tạng và giữa phủ với tạng có liên quan chặt chẽ với nhau.
Trên lâm sàng thường biểu hiện chủ yếu là mối quan hệ giữa tạng với
tạng.
2.2.4.1. Tâm.
Liên quan giữa tâm và phế: tâm chủ huyết, phế chủ khí, “tâm phế
tương hữu” cả hai đều làm nhiệm vụ tuần hoàn huyết dịch trong cơ thể
“tâm huyết túc, tắc phế khí xung bái”, phế khí thịnh vượng thì tuần hoàn
bình thường, trái lại phế khí bất túc ảnh hưởng đến tuần hoàn huyết dịch,
chức năng của tâm không tốt sẽ ảnh hưởng đến hô hấp.
- Liên quan giữa tâm và thận: “Tâm cư thượng tiêu thuộc hỏa.
Thận cự hạ tiêu thuộc thủy”. Trong điều kiện bình thường hai tạng liên
hệ hỗ căn, duy trì mối quan hệ hiệp đồng. “Tâm thận tương giao, thủy

hỏa tương tế”. Nếu như quan hệ đó bị phá vỡ sẽ phát bệnh lý, tâm phiền
thất miên, đầu choáng tai ù, tai điếc, lưng gối đau mỏi, đó là hội chứng
tâm thận bất giao”.
- Liên quan giữa tâm và can: tâm chủ huyết mạch toàn thân, can có
chức năng trữ tàng điều tiết huyết dịch, hai tạng liên quan mật thiết, nếu
như tâm huyết bất túc thì huyết hao can hư, huyết bất dưỡng, cân, đau cân
cốt, co quắp, co giật…
- Liên quan giữa tâm và tỳ: sự vận hoá của tỳ nhờ vào sức huy
động của tâm dương và tư dưỡng của tâm huyết, còn chức năng của tâm
cũng nhờ vào sự chuyển vận, vận hóa thủy cốc tinh vi của tỳ để tư dưỡng.
+ Tâm chủ tuần hoàn (vận hành) huyết dị. Tỳ có chức năng thống
nhiếp huyết dịch.
Vậy nên tâm tỳ có quan hệ mật thiết, trên lâm sàng thường thấy:”
hội chứng tâm tỳ lưỡng hư, hoặc tâm tỳ suy tổn”.
Các triệu chứng: mất ngủ, hay quên, hồi hộp, sắc mặt vàng tối, ăn
kém, đại tiện nát.
21


2.2.4.2. Can.
- Can và tỳ: can khí thái vượng hoặc tỳ khí hư đều dễ xuất hiện
“can mộc thừa tỳ, can vị bất hoà”; đau sườn, đau bụng, bụng chướng…
- Can và phế: bình thường phế là tạng khắc can: khi bệnh lý thông
thường can phản khắc phế.
Ví dụ: Phế khí hư không thể chế can để can khí thượng nghịch
(nghịch lên) làm cho phế khí túc giáng khó khăn, ngực đầy chướng khó
chịu; mặt khác can hỏa quá thịnh tắc chế ước phế, xuất hiện triệu chứng:
dễ giận dữ, đau ngực sườn, ho khan hoặc ho có đờm, có máu (mộc hỏa
hình kim).
- Can và thận: can thận có liên quan mật thiết “can thận đồng

nguyên”, can dựa vào thận thủy (thận âm) để tư dưỡng, thận thủy bất túc,
can âm bất túc, âm hư bất năng liễm dương – can dương thượng nghịch,
đau đầu chóng váng, huyết áp cao…
2.2.4.3 Tỳ.
- Tỳ và phế: phế khí dựa vào sự vận hóa thủy cốc tinh vi của tỳ để tu
dưỡng. Lâm sàng đối với bệnh phế khí hư có lúc dùng pháp điều trị: “bổ
tỳ ích phế” hay “bồi thổ sinh kim”.
- Tỳ và thận: sự vận hóa của tỳ phải nhờ vào sự giúp đỡ mệnh môn hỏa
của thận thủy (thổ khắc thủy), nếu tỳ hư chức năng vận hóa kém không
thể chế được thủy phát bệnh, thủy phiếm loạn sinh chứng thủy thũng.
- Phế và thận: phế chủ khí, thận chủ nạp khí. Thận có thể giúp cho sự túc
giáng của phế khí tốt nếu thận dương hư bất năng nạp khí tất sinh khó
thở. Lâm sàng có thể thấy hen suyễn do thận hư nên phải dùng pháp bổ
thận để nạp khí.
KẾT LUẬN.
Về mặt tiêu hóa và hấp thụ: vi chủ thu nạp, tỳ chủ vận hóa, tiểu trường
phân biệt thanh trọc, đại trường truyền đạt tinh thô, ngoài ra còn có sự
tham gia sơ tiết của can và mệnh môn hỏa của thận.
- Về mặt hoạt động hô hấp: phế chủ về trao đổi khí của cơ thể, thận chủ
nạp khí giúp đỡ cho sự thăng giáng của phế.
- Về tuần hoàn huyết dịch: tâm chủ huyết (chức năng tuần hoàn), phế
triều đi bách mạch tham gia tuần hoàn, can tàng huyết có thể điều tiết
lượng huyết. Tỳ thống huyết làm cho huyết vận hành trong mạch không
cho lạc đường.
- Về mặt tạo huyết: hậu thiên cơ bản là tỳ vị, tỳ vị là nguồn gốc hóa sinh
huyết dịch. Thận là tiên thiên, việc tạo huyết còn phải ôn dưỡng thận.
- Về mặt chuyển hóa nước: tỳ chủ vận hóa thủy thấp, phế chủ thông điều
thủy đạo, thận chủ bài tiết nước, tam tiêu chủ khí hóa, bàng quang chủ về
trữ niệu và bài niệu.
- Về hoạt động thần kinh: một phần chức năng của tâm, chức năng

hoạt động tình chí, tư duy; bao gồm hoạt động thần kinh và tinh thần.
- Chức năng vận động: thận chủ cốt vận động hợp đồng các động tác tinh
vi, can chủ cân co duỗi khớp, tỳ chủ cơ nhục toàn thân và tứ chi.
22


- Sinh dục nội tiết: quan hệ giữa các tạng can, thận và xung nhâm.
2.3. CHỨC NĂNG SINH LÝ, BIỂU HIỆN BỆNH LÝ CỦA KHÍ,
HUYẾT, TINH, TÂN, DỊCH (THE PHYSIOLOGICAL
FUNCTION AND PATHOLOGICAL MANIFESTATIONS
OF THE QI, THE BLOOD, THE VITAL – ENERGY, THE
TURBID MUCUS).
* Khái niệm: khí, huyết, tinh, tân, dịch đều là cơ sở vật chất quan trọng
không thiếu được trong hoạt động sống của cơ thể.
- Tinh khí là tiên thiên; ăn uống, không khí là hậu thiên (do sự hóa sinh
của lục phủ ngũ tạng) vì chịu sự chi phối của lục phủ ngũ tạng. Đồng thời
cũng là cơ sở vật chất để tư dưỡng lục phủ ngũ tạng và các tổ chức duy trì
hoạt động bình thường của toàn cơ thể.

2.3.1. Khí.
Là chỉ công năng sinh lý hoặc động lực, chỉ tác dụng dinh dưỡng của vật
chất tinh vi, khí có tác dụng hóa sinh huy động cố nhiếp huyết dịch, ôn
dưỡng tổ chức toàn thân, nâng cao sức đề kháng cơ thể chống lại ngoại tà,
duy trì hoạt động của tổ chức tạng phủ. Dựa vào tác dụng sinh lý khác
nhau, chia khí ra mấy loại như sau:
- Nguyên khí, còn gọi là chính khí hay chân khí: là khi biểu hiện tập trung
năng lực hoạt động sinh mệnh của cơ thể. Nói chung nguyên khí đầy đủ,
người khoẻ mạnh không dễ mắc bệnh, hoặc khi mắc bệnh chỉ cần điều trị
đúng mức cũng có thể nhanh chóng chiến thắng bệnh tà mà khỏi bệnh. Vì
vậy, nguyên khí quyết định sức khoẻ của con người, khí của tạng phủ huy

động hoạt động của cơ thể. Ví dụ: tâm khí,can khí, thận khí, phế khí…
- Trung khí: thực chất là khí của tỳ vị, tác dụng xúc tiến chức năng tiêu
hóa hấp thu và duy trì vị trí bình thường của nội tạng ở trong khoang
bệnh, khi trung khí bất túc chức năng trên giảm sút.
- Tôn khí: là khí của tâm phế, tác dụng huy động công năng tuần hoàn hô
hấp. Tôn khí bất túc thì hô hấp và nhịp tim giảm.
- Vệ khí và doanh khí: vệ khí là phần khí đi phần ngoài mạch nhưng
thông với mạch tỏa ra ở sườn ngực bụng và hai bên. Chức năng ôn dưỡng
tạng phủ, tuần hành giữa bì phu và cơ nhục ôn dưỡng da cơ có tác dụng
cố biểu chống lại mọi sự xâm phạm của ngoại tà. Doanh khí (dinh khí) có
tác dụng dinh dưỡng toàn thân, sinh hóa huyết dịch phân bố tuần hành ở
trong mạch. Vệ khí và doanh khí phối hợp dinh dưỡng có thể chống lại
ngoại tà.
- Lâm sàng bệnh của khí: có ba loại khí hư, khí trệ, khí nghịch.
* Khí hư:
Triệu chứng khí hư nói chung là chỉ khí của ngũ tạng bất túc. Lâm
sàng phần nhiều thấy khí của tỳ phế lưỡng hư; biểu hiện chính là: loạn
ngôn, thiếu khí, âm thanh nhỏ nhẹ, chóng mặt, mệt mỏi, tự hãn, ăn không
ngon, có thể sa nội tạng, mạch hư nhược, lưỡi nhợt bệu, rêu mỏng; điều
trị dùng phép bổ khí là chủ yếu.
23


* Khí trệ (khí uất)
Khí cơ của tạng phủ không lưu thông, sự vận hành bị trở ngại, là
xuất hiện triệu chứng của khí trệ, thường gặp phế khí trệ, tỳ vị khí trệ và
can khí uất trệ. Khí trệ mức độ nhẹ thường thấy triệu chứng chung là:
ngực, bụng, sườn chướng đầy, đau; vì khí phế trệ nên đau ngực, đầy
ngực, khí đoản, đàm nhiều. Tỳ vị khí trệ nên bụng chướng đầy, đau, kinh
nguyệt không đều hoặc thống kinh, khí trệ ở kinh mạch nên cơ nhục tứ

chi và các khớp đều đau mỏi, khi điều trị phải dùng pháp lý khí.
* Khí nghịch.
Thường theo chiều thuận từ phế khí và tỳ khí đều hạ hành (đi
xuống dưới), ngược lại khí của phế vị không giáng xuống mà nghịch lên
sẽ xuất hiện triệu chứng khí nghịch, ngoài ra can khí sơ tiết thăng phát
thái quá cũng dẫn đến can khí nghịch lên:
Phế khí nghịch tất sinh suyễn khái
Vị khí nghịch tất sinh ách nghịch, nôn thổ
Can khí nghịch tất sinh huyễn vựng, thốt đảo hoặc thổ huyết.
Điều trị phải dùng pháp “giảng phế vị khí nghịch”, điều trị can khí
nghịch lên phải dùng pháp “chấn tiềm”. Tóm lại: khí là một thành phần
có vai trò rất to lớn trong hoạt động chức năng thần kinh và các loại năng
lượng của hoạt động bên trong cơ thể. Nói cách khác; khí thực chất là cơ
sở vật chất, khi khí hóa (chuyển hóa) cho ra năng lượng thúc đẩy, duy trì
mọi hoạt động sống của cơ thể.

2.3.2. Huyết:
* Huyết: là vật chất ăn uống thông qua quá trình hóa sinh của tỳ vị mà
thành. Chức năng của huyết là tuần hoàn không ngừng để dinh dưỡng
toàn thân, để duy trì mọi hoạt động sinh lý bình thường của cơ thể. Sở dĩ
mắt có khả năng nhìn, chân có khả năng bước, tay có khả năng co duỗi…
là chỉ do cơ quan tổ chức của toàn cơ thể như: (tạng phủ, cân cốt, da
lông…) nếu không có sự tư dưỡng của huyết dịch thì không để duy trì
chức năng sinh lý bình thường. Nếu như huyết dịch vận hành trở ngại, cơ
phu không đủ huyết dịch làm cho tê mỏi, huyết dịch đến tứ chi không đủ,
tay chân không nóng ấm, thậm chí liệt bại, không bước được.
Huyết và khí có quan hệ rất mật thiết với nhau, thông thường khí
huyết đầy đủ, khí huyết như một âm, một dương hỗ tương tồn tại “khí vi
huyết chi soái, huyết vi khí chi mẫu”, nghĩa là sự vận hành của huyết phải
dựa vào sức huy động của khí, khí hành tắc huyết hành, khí trệ tắc huyết

ứ. Mặt khác công năng hoạt động của một cơ quan, tổ chức lại phải nhờ
vào sự tư dưỡng của huyết dịch đưa lại (huyết vi khí chi mẫu) hay huyết
là cơ sở vật chất. Chứng bệnh của huyết chủ yếu biểu hiện: xuất huyết,
huyết hư và huyết ứ.
* Xuất huyết: là hỏa nhiệt tà thực bức huyết vong hành hoặc khí hư bất
năng nhiếp huyết hoặc can bất tàng huyết, tỳ bất thống huyết hoặc thận
âm hao tổn, hư hỏa nội sinh thương phạm mạch lạc hoặc tinh thần kích
thích, tình chí uất hoá hỏa đều có thể dẫn đến xuất huyết. Vì vậy điều trị
24


chứng xuất huyết không chỉ đơn thuần sử dụng thuốc chỉ huyết mà phải
tích từng nguyên nhân cụ thể để kết hợp điều trị.
- Nếu do vị hỏa mà thổ huyết phải thanh nhiệt, giáng hỏa.
- Nếu do tỳ hư mà kinh nguyệt quá nhiều hoặc rong kinh phải dùng
pháp bổ trung ích khí.
* Huyết hư: do mất máu quán hiều hoặc quá trình sinh huyết kém đều có
thể dẫn đến huyết hư. Lâm sàng thường biểu hiện; sắc mặt vàng nhợt,
môi, lưỡi, móng tay chân không hồng nhuận, nhợt nhạt, đầu choáng, mắt
hoa, tâm quý, gầy gò, mệt mỏi, vô lực, tay chân hay tê, mạch tế nhược.
Điều trị phải dùng pháp bổ huyết nhưng dựa trên lý luận “khí vi huyết chi
soái”, vì vậy khi dùng pháp bổ huyết thường phải kết hợp với pháp bổ
khí.
* Huyết ứ: do nhiều nguyên nhân, có thể do ngoại nhân (chấn thương)
huyết tích tụ ở tổ chức cơ quan, có thể do khí trệ huyết đính, có thể do
hàn ở mạch huyết ngưng thành ứ và có thể do nhiệt thịnh bức huyết vong
hành “huyết dịch ly khai mạch đạo”, tích thành ứ, cũng có thể do nhiệt
cực thương âm, thương huyết làm cho huyết uất thành ứ. Tùy thuộc vào
vị trí của huyết ứ mà có triệu chứng khác nhau. Nếu huyết ứ ở tâm gây
tâm quý, tâm thống, huyết ứ ở phế có thể khái lạc đàm huyết, đau tức

ngực, huyết ở bào cung thì xung nhâm không điều hòa làm cho kinh
nguyệt không điều hòa, huyết ứ ở chi thể thấy chi thể mỏi, tê bại hoặc vận
động không linh hoạt…
Điều trị chứng huyết ứ phải dùng pháp khử ứ hoặc pháp bổ khí
hoạt huyết.

2.3.3. Tinh.
- Tinh là chỉ sinh tinh thực nam nữ, là nguồn gốc của sinh mệnh.
- Hai là chỉ chất dinh dưỡng do ăn uống chuyển hóa sinh tinh.
Nghĩa là, tinh chỉ cơ sở vật chất của sự sinh trưởng và phát dục của cơ
thể. Bình thường tinh của lục phủ ngũ tạng được tàng trữ ở thận, trong đó
có một bộ phận được chuyển hóa thành tinh sinh thực.
Tóm lại: tinh là cơ sở của sinh mệnh, là vật chất cơ bản cấu tạo nên
cơ thể và duy trì các loại hoạt động sinh mệnh của cơ thể. Tinh có quan
hệ trực tiếp đến quá trình sinh trưởng, phát dục, lão hóa và tử vong của
con người. Nếu như tinh khí đầy đủ thì cơ thể cường tráng, khoẻ mạnh,
tinh lực đầy đủ, sức đề kháng cơ thể cao; còn tinh khí hư tổn, cơ thể suy
nhược, tinh lực không đủ, phát dục chậm, già trước tuổi, sức đề kháng cơ
thể giảm yếu.

2.3.4. Tân dịch.
Là chỉ toàn bộ phần dịch thể và nước bình thường trong cơ thể, là
một trong những vật chất chủ yếu duy trì hoạt động cơ thể sống. Nguồn
gốc của tân dịch là do ăn uống dinh dưỡng thông qua sự vận hóa của tỳ
vị, sự điều tiết của phế, thận, bàng quang, tam tiêu… mà phân bố toàn
thân và bài xuất ra ngoài cơ thể.
25



×