Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Nguyễn Du và truyện Kiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.05 KB, 11 trang )

Tác giả
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiện, quê ở Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc thời Lê, có truyền
thống văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ làm tể tướng. Anh là Nguyễn Khản, đỗ
tiến sĩ, làm đại quan trong phủ chúa.
Triều Lê - Trịnh sụp đổ, Nguyễn Du trôi giạt về quê vợ ở Thái Bình suốt "mười năm gió
bụi" rồi về sống ở Hà Tĩnh quê nhà, sống ẩn giật, tự xưng là "Nam Hải điếu đổ", "Hồng
Sơn liệp hộ".
Tây Sơn đổ, Gia Long thiết lập triều đại mới. Năm 1802, Gia Long triệu ông ra àm quan
cho nhà Nguyễn. Năm 1813, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc, có lúc
giữ chức Tham tri bộ Lễ, Cần chánh điện đại học sĩ.
Tác phẩm
1. Thơ chữ Nôm:
- Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh).
- Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh)
- Thác lời trai phường Nón.
2. Thơ chữ Hán:
- Thanh Hiên thi tập.
- Nam trung tạp ngâm.
- Bắc hành tạp lục.
Truyện Kiều
1. Nguyễn Du dựa vào cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài
Nhân, đời Thanh Trung Quốc để sáng tạo ra truyện Kiều, dài 3254 câu thơ lục bát,
kiệt tác số một, "tập đại thành" của nền thơ ca cổ điển Việt Nam.
2. Cốt truyện
Về đời Minh, có gia đình Vương Viên ngoại ở Bắc Kinh sinh thành được ba người con:
Thuý Kiều, Thuý Vân, Vương Quan. Hai chị em Kiều nhan sắc tuyệt trần, riêng Kiều còn
có tài thi hoạ, ca, ngâm. Nhân ngày hội Đạp Thanh ba chị em Kiều đi chơi xuân, gặp một
văn nhân tên là Kim Trọng "tình trong như đã mặt ngoài còn e". Kim Trọng tìm cách gặp
gỡ Kiều, nhờ cành kim thoa mà hai người ước hẹn, thề nguyền dưới trăng "trăm năm tạc
mộ chữ đồng đến xương". Kim Trọng phải về Liễu Dương hộ táng chú. Gia đình Kiều gặp


tai biến, Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha. Nàng trao duyên
cho Thuý Vân rồi theo họ Mã về Lâm Trụy. Kiều mắc lận Sở Khanh, bị Tú Bà làm nhục.
Kiều vào lầu xanh lần thứ nhất. Kiều được Thúc Sinh chuộc ra lấy làm vợ lẽ. Hoạn Thư
đánh ghen. Kiều bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư, lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh. Kiều vào
lầu xanh lần thứ hai tại Châu Thai. Kiều được Từ Hải chuộc, lấy từ Hải trở thành mệnh
phụ phu nhân. Kiều báo ân báo oán. Kiều và Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến. Từ Hải bị giết
chết, Kiều bị ép lấy viên thổ quan, nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử nhưng được
cứu thoat rồi đi tu.
Kim Trọng trở lại vườn Thuý, kết duyên với Thuý Vân. Kim Trọng và Vương Quan thi
đỗ được bổ đi làm quan. Cả gia đình qua sông Tiền Đường may mắn gặp vãi Giác Duyên,
tìm đến ngôi chùa Kiều đi tu. Kiều gặp lại cha mẹ, hai em và chàng Kim sau 15 năm trời
lưu biệt...
3. Giá trị nội dung
a. Giá trị tố cáo hiện thức: lên án xã hội phong kiến thối nát, những thế lực hắc ám tàn
bạo, dã man đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc con người như bọn quan lại tham ô
thối nát, bọn buôn thịt bán người, bọn ma cô lưu manh tàn ác; lên án mặt trái của đồng
tiền hôi tanh...
b. Giá trị nhân đạo: xót thương cho nỗi đau khổ của con người, tài sắc bị dập vùi, nói
lên ước mơ về hạnh phúc, tự do và công bằng, đề cao quyền sống của con người, v.v...
4. Giá trị nghệ thuật
a. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, tạo ra những mẫu người với những tính cách
tiêu biểu cho cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác... trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.
b. Nghệ thuật tự sự, hấp dẫn, cảm động, tạo ra những tình huống, những bi kịch. Lúc
miêu tả, lúc tả cảnh ngụ tình, lúc đối thoại, câu truyện về nàng Kiều diễn biến qua trên ba
nghìn câu thơ liền mạch.
c. Ngôn ngữ thi ca: Nguyễn Du đã kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ bác học, sử dụng điển
tích, thi liệu văn học cổ Trung Hoa với ca dao, tục ngữ, thành ngữ... nâng lên thành một
ngôn ngữ văn chương trong sáng, trau chuốt, mượt mà, mẫu mực. Cho đến nay chưa có
nhà thơ Việt Nam nào viết thơ lục bát trên ba nghìn câu hay bằng Nguyễn Du. "Truyện
Kiều" xứng đáng là "tiếng thương như tiếng mẹ du những ngày" (Tố Hữu).

Những ý kiến, những lời thơ hay và đẹp nói về "Truyện Kiều"
1… "Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu
không phải có cái mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thi tài nào
có cái bút lực ấy..."
(Mộng Liên Đường)
2... "Ngọc diện khởi ưng mai thuỷ quốc Băng tâm tự khả đối Kim Lang..."
(Phạm Quí Thích)
"Mặt ngọc nỡ sao vùi đáy nước,
Lòng trinh không thẹn với Kim Lang"
(Nguyễn Quảng Tuân dịch)
3… Mười năm qua, nay trở lại hoà bình.
Trăng ly biệt lại đoàn viên trước cửa.
Cảo thơm đặt trước đèn, tôi giở
Mỗi trang Kiều rung một bóng trăng thanh.
Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên
Cành xuân phải trao tay khi nước mất
Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên.
Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc
Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường
Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc
Và lò trầm đêm ấy toả bay hương...
("Đọc Kiều"- Chế Lan Viên)
4... Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nỗi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều...
("Bài ca mùa xuân 1961"- Tố Hữu).
5... Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thương như tiếng mẹ ru mhững ngày.
Hỡi Người xưa của ta nay,
Khúc vui xin lại so đây cùng Người!
("Kính gửi cụ Nguyễn Du"- Tố Hữu)
Một số bài tập
Baì 20636
Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc
nhất trong “Truyện Kiều”.
Hãy bình giảng 8 câu thơ sau đây:
“… Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
Baì 20635
Cảnh chia tay giữa “người quốc sắc, kẻ thiên tài” trong hội Đạp thanh chiều xuân ấy được
thi hào Nguyễn du viết:
“Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha…”.
Hãy bình giảng hai câu thơ trên và nêu một vài cảm nhận về nghệ thuật tả cảnh trong
“Truyện Kiều”.
Baì 20634
Phân tích đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” trích trong “Truyện Kiều” của thi hào dân tộc
Nguyễn Du.
Baì 20610
Bình giảng bài thơ “Cửa ải Quỷ Môn Quan” của thi hào Nguyễn Du.

Baì 20609
Long thành cầm giả ca (Bài ca người gảy đàn ở Long Thành)
Đất Long Thành khách giai nhân nọ,
Không nhớ ra tên họ là gì.
Nguyễn Cầm nổi tiếng đương thì,
Tên Cầm nổi tiếng đương thì,
Tên Cầm mượn của đàn kia gọi người,
Khúc cung phụng những đời vua trước,
Tưởng quân thiên nhã nhạc khôn bì.
Nhớ hồi tuổi trẻ xua kia,
Đêm bên hồ Giám một kỳ tiệc vui.
Xuân độ ấy đương hồi ba bảy,
Ai nấy nghe nhường quên mệt mỏi,
Rõ tiếng đàn đại nội Trung Hoà.
Tây sơn quan khách la đà,
Mải vui quên cả tiếng gà tan canh.
Tả lại hữu tranh giành gieo thưởng,
Tiền như bùn ước lược qua qua,
Vương hầu thua vẻ hào hao,
Ngũ Lăng chàng trẻ ai mà kể chi.
Băm sáu cung xuân kia chung đúc

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×