Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận: Vai trò của án lệ trong hệ thống nguồn luật của dòng họ pháp luật Common Law

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.2 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

1


A.

MỞ ĐẦU
Nói đến sự hình thành và phát triển của các hệ thống pháp luật trên thế

giới, không thể không nhắc đến hệ thống pháp luật Common Law, dòng họ pháp
luật cơ bản trên thế giới. Common Law là dòng họ pháp luật lớn nhất trên thế
giới, có cội nguồn từ hệ thống pháp luật Anh. Một trong những đặc trưng của
dòng họ pháp luật này là coi trọng án lệ. Án lệ là nguồn luật quan trọng của
nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới. Đối với Common Law cũng vậy, không
những chiếm vi trí quan trọng bật nhất trong hệ thống nguồn luật của dòng họ
này mà án lệ còn là nguồn luật chính và không thể thiếu của dòng họ pháp luật
Common Law. Để hiểu hơn vai trò của án lệ trong hệ thống nguồn luật của dòng
họ Common Law sau đây em xin được đi sâu làm rõ đề tài: “Vai trò của án lệ
trong hệ thống nguồn luật của dòng họ pháp luật Common Law”.

2


B.

NỘI DUNG
1. Khái quát chung dòng họ pháp luật Common Law, án lệ và vị trí
của án lệ trong hệ thống nguồn luật của dòng họ Common Law
1.1.
Dòng họ pháp luật Common Law


1.1.1. Khái niệm
Common Law hay còn được gọi bằng các tên gọi khác: luật chung, luật

Anglo – Saxon hay thông luật.
Trên thế giới hiện nay có 3 cách hiểu về Common Law:
-

Loại luật có nguồn gốc từ hoạt động của các Tòa án Hoàng gia Anh, áp

-

dụng cho toàn bộ nước Anh thay thế cho luật địa phương.
Loại luật có nguồn gốc án lệ, dùng để phân biệt với luật thành văn.
Một dòng họ luật cơ bản, được coi là lớn thứ hai trên thế giới, hiện được
áp dụng tại các nước nói tiếng Anh với một vài ngoại lệ và ảnh hưởng tới
nhiều nước đã hoặc vẫn có mối liên hệ về chính trị hay kinh tế như Mỹ,

a.

Canada, Australia...
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển
Giai đoạn trước năm 1066
Giai đoạn này còn được gọi là giai đoạn Anglo – Saxon. Từ thế kỷ I đến

thế kỷ V, đế chế la mã thống trị nước Anh, song không để lại dấu tích gì đáng kể,
kể cả về mặt pháp luật. Thời kỳ này, nước Anh chia thành nhiều vương quốc nhỏ
với các hệ thống pháp luật mang tính địa phương, chủ yếu là ảnh hưởng từ các
quy tắc tập quán và thực tiễn của các bộ lạc ngườ German. Khi các bên có tranh
chấp thường áp dụng tập quán địa phương để phân xử. Những người già sẽ đứng
ra giải thích chính xác các tập quán địa phương áp dụng cho các tranh chấp đó.


b.

Giai đoạn 1066 – 1485
Đây là giai đoạn ra đời của Comon Law. Năm 1066 người Norman đánh

bạo người Anglo – Saxon, thống trị người Anh. William lên ngôi vua, mở ra một
3


thời kỳ mới trong lịch sử nước Anh và mở đầu cho giai đoạn hình thành
Common Law. Ông vẫn duy trì tập quán pháp của Anh nhưng trên thực tế lại cố
làm cho mọi người quên đi ảnh hưởng của quá khứ và xây dựng một chế độ
phong kiến tập quyền nhằm nắm độc quyền trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội kể cả lĩnh vực tư pháp. Thuật ngữ luật chung ( Common Law ) xuất phát từ
quan điểm cho rằng các tòa án do nhà vua lập ra, áp dụng các tập quán chung
(Common Custom) của vương quốc, trái ngược với những tập tục luật pháp địa
phương áp dụng ở các miền hay ở các tòa án của điền trang, thái ấp phong kiến.
Thời Henry II là giai đoạn phát triển của một hệ thống Common Law có
tính chất quốc gia. Ông gửi các thẩm phán hoàng gia tới nắm tòa án ở các nơi.
Trong nhiều thập kỷ, họ phải cạnh tranh với các tòa án địa phương: tòa án của
tỉnh, tào án giáo hội, tòa án của lãnh chúa phong kiến... Đến cuối thế kỷ XIII,
các Tòa án Hoàng gia thắng thế trong việc xét xử vì chất lượng xét xử tốt và
trình độ chuyên môn cao, dần dần các tòa án địa phương lấy án lệ của tòa án
hoàng gia làm khuôn mẫu. Common law bắt đầu chiếm vị trí quan trọng và thu
hút nhiều công việc pháp lý.
Các nguyên tắc bền vững của luật chung đã được tạo ra bởi ba tòa án
được vua Henry II (1133 - 1189) thành lập là Tòa án Tài chính (Court of
Exchequer) để xét xử các tranh chấp về thuế; Tòa án thỉnh cầu phổ thông ( Court
of Common Pleas) đối với những vấn đề không liên quan trực tiếp đến quyền lợi

của nhà vua; và Tòa án Hoàng Đế ( Court of the King’s Bench) để giải quyết
những vụ việc liên quan trực tiếp đến quyền lợi của Hoàng gia.
Thực chất, trước đó dưới thời của Hoàng đế William, những tập quán của
Anh ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa Đức ở Châu Âu lục địa. Tòa án lúc đó
là những người dân được triệu tập để cùng giải quyết tranh chấp và nếu không
xử được người ta dùng phương pháp thử tội (ordeal) bằng việc bắt bị cáo cầm
vào một miếng sắt nung đỏ, hoặc cầm một viên đá đã được ngâm trong nước sôi,
hoặc hình thức thề độc. Nếu vết thương đó lành sau một thời gian xác định, anh
ta sẽ bị tuyên là vô tội và ngược lại.
4


Năm 1154, Vua Henry II đã tạo ra một hệ thống luật chung và sáng tạo
ra một hệ thống tòa án thống nhất đầy quyền năng, ông đưa các thẩm phán từ
tòa án Hoàng gia đi khắp nơi trong nước và sưu tầm, chọn lọc cách thức giải
quyết các tranh chấp. Sau đó những thẩm phán này sẽ trở về thành Luân đôn và
thảo luận về những vụ tranh chấp đó với các thẩm phán khác. Những phán
quyết này sẽ được ghi lại và dần trở thành án lệ (precedent), hay theo Tiếng
Latin là stare decisis. Theo đó, khi xét xử thẩm phán sẽ chịu sự ràng buộc bởi
những phán quyết đã có từ trước đó. Thuật ngữ “Common Law” bắt đầu xuất
hiện từ thời điểm đó. Như vậy trước khi Nghị viện ra đời trong lịch sử pháp luật
của Anh, Common Law đã được áp dụng trên toàn bộ vương quốc trong vài thế
kỉ.[1]
c.

Giai đoạn 1485 – 1832
Đây là giai đoạn phát triển Equity Law (luật công bằng), đây là hình thức

luật được hình thành trên cơ sở coi nhà vua là biểu tượng của công lý. Trong
trường hợp Common Law không đáp ứng được cho bên bị thiệt hại tức là không

đảm bảo được tính công bằng thì một công chức của tòa án (quan chưởng ấn) sẽ
trình vụ việc lên nhà vua. Thông qua các đơn từ gửi đến nhà vua và phán quyết
của các quan chưởng ấn, dẫn đến việc hình thành một hệ thống pháp luật thứ hai
gọi là luật công bằng.
d.

Giai đoạn 1832 đến nay
Đây là giai đoạn cải cách và phát triển pháp luật Anh với sự xuất hiện của

nhiều luật, tòa án hành chính, văn bản hành chính. Đặc biệt là việc gia nhập
EEC năm 1972 có tác động đến sự phát triển của hệ thống pháp luật Anh.
1.1.3.
a.

Nguồn luật

Án lệ
Án lệ là nguồn luật chính thức của các nước thuộc dòng họ Common Law,

phân biệt với các nước Civil Law coi pháp luật thành văn làm nguồn chính. Hệ
thống án lệ này sẽ được phát triển qua các vụ việc được tòa án xét xử.
b.

Lẽ phải

5


Lẽ phải là một nguồn luật thể hiện đặc trưng của Common Law. Trong
trường hợp một vụ án phát sinh không có tiền lệ pháp phù hợp, không có luật

thành văn hay tập quán pháp thì thẩm phán chính là người tạo ra luật pháp bằng
việc tạo ra lẽ phải thông qua việc dẫn các tập quán pháp không có giá trị bắt
buộc hoặc bản án không phải là án lệ; dẫn các án lệ nước ngoài, thậm chí cả án
lệ của các nước Civil Law.
c.

Một số nguồn luật khác
Ngoài một số nguồn luật cơ bản trên thì dòng họ pháp luật Common Law

còn sử dụng các học thuyết pháp luật, các văn bản luật... vào hệ thống nguồn
luật của mình.
Tóm lại, có thể thấy trong hệ thống nguồn luật của dòng họ pháp luật
Common Law, án lệ đóng một vai trò quan trọng và là nguồn chính không thể
thiếu của dòng họ pháp luật này.
1.2.

Án lệ
1.2.1. Khái niệm và đặc diểm

Theo từ điển Black’s Law thì án lệ được hiểu như sau: “Án lệ là việc làm
luật của tòa án khi công nhận và áp dụng các quy tắc mới trong quá trình xét xử;
vụ việc đã được giải quyết làm cơ sở để đưa ra phán quyết cho những trường
hợp có tình tiết hoặc vấn đề tương tự sau này”[2].
Từ đó, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của án lệ như sau:
Thứ nhất, án lệ do tòa án tạo ra trong qúa trình xét xử nên nguồn luật án lệ
còn được gọi là luật được hình thành từ vụ việc ("case law”) hay luật do thẩm
phán ban hành ("judge make law”) [3]. Trong khi đó, nguồn luật văn bản chủ yếu
được tạo ra bằng con đường nghị viện ban hành.
Thứ hai, án lệ được hình thành phải mang tính mới.Vụ việc đó phải liên
quan tới các vấn đề chưa từng được đề cập thì khi này tòa án mới tạo ra án lệ khi

giảiquyết.
Thứ ba, việc xây dựng và vận hành là dựa vào yếu tố tương tự. Các thẩm
phán khi giải quyết một vụ việc cần phải xác định và đánh giá lý lẽ tương tự, từ

6


đó để xác định áp dụng hoặc không áp dụng lý lẽ trong bản án trước để giải
quyết vụ việc hiện tại.
1.2.2.

Quy trình hình thành án lệ

Án lệ cũng như các nguồn pháp luật khác cũng có cơ chế hình thành
riêng. Về nguyên tắc, mỗi bãn án là một quyết định cá biệt chỉ có hiệu đối với vụ
việc mà nó giải quyết chứ không có hiệu lực áp dụng chung đối với các vụ việc
khác.
Thông thường để hình thành án leek trước hết phải có bản án. Bản án
chính là chất liệu đầu tiên để hình thành nên án lệ. Nội dung của bản án gồm hai
phần: phần nội dung của vụ việc và phần quyết định của Tòa án. Phần nội dung
của vụ việc bao gồm hai phần là phần trình bày của các bên và phần nhận định
của Tòa án. Trong các phần trên, phần nhận định của Tòa án là phần có giá trị
nhất trong việc hình thành án lệ. Trong phần nhận định này, Thẩm phán thể hiện
quan điểm của mình về hướng giải quyết vụ việc cũng như những vấn đề pháp
lý đặt ra trong vụ việc. Và nếu nhận định này phù hợp với yêu cầu thực tế và
phù hợp với trật tự pháp lý thì sẽ có xu hướng trở thành một quy phạm án lệ có
khả năng áp dụng cho các vụ việc tương tự.
Hạt nhân đầu tiên để trở thành án lệ chính là bản án, trong đó phần nhận
định của Thẩm phán là phần quan trọng nhất. Tuy nhiên, để trở thành án lệ, quan
điểm nhận định này phải trở thành quan điểm chung của các Tòa án khi giải

quyết các vụ việc tương tự. Như vậy, ở đây xuất hiện một yếu tố thứ hai tham
gia vào quá trình hình thành là yếu tố tiền lệ. Nói cách khác, để có án lệ thì phải
có tiền lệ, tức là trước đó đã từng có nhiều bản án đưa ra cách giải quyết tương
tự đối với những trường hợp tương tự, rồi dần hình thành nên một tiền lệ trong
việc giải quyết các trường hợp đó.
Ngoài hai yếu tố bản án và tiền lệ, còn có một yếu tố thứ ba tham gia vào
quá trình hình thành án lệ đó là yếu tố thống nhất hóa thông qua vai trò giám sát
của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới. Chính vai trò giám sát này thể hiện
qua cơ quan kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm sẽ đảm bảo hình
thành một án lệ thống nhất cho một địa phương hoặc cho toàn quốc.
7


Trong quá trình hình thành án lệ, còn có một yếu tố nữa có vai trò quan
trọng là công tác thông tin tuyên truyền về án lệ nhằm công khai hóa và phổ
biến rộng rãi các bản án và quyết định của Tòa án các cấp. Sẽ không có án lệ
nếu các bản án, quyết định của Tòa án không được công khai rộng rãi để mọi
người cùng biết và tham khảo. Đây cũng chính là một trong những quy trình thể
hiện tính thực tế của án lệ, để án lệ thực sự đi vào tư duy pháp lý của mọi người
dân.
Tóm lại, quá trình hình thành án lệ bao gồm ba yếu tố cơ bản: bản án, tiền
lệ và yếu tố thống nhất hóa. Với quy trình này, việc hiện diện của án lệ sẽ không
còn quá xa lạ với tất cả mọi người và nó cũng đảm bảo cho sự tồn tại khách
quan của án lệ trong hệ thống pháp luật trên thế giới.
1.3.

Khái quát về vị trí của án lệ trong hệ thống nguồn luật của
dòng họ Common Law

Như chúng ta đã biết, theo cách hiểu ngắn gọn nhất, “ Án lệ” là bản án đã

tuyên hoặc sự giải thích, áp dụng pháp luật được coi như tiền lệ là cơ sở để các
thẩm phán sau đó có thể áp dụng tương tự. Án lệ được coi là nguồn của pháp
luật và đặc biệt được coi trọng trong dòng họ pháp luật Common Law.
Trong hệ thống nguồn luật của dòng họ Common Law luôn chịu ảnh
hưởng của hệ thống pháp luật Anh và thừa nhận án lệ như nguồn luật chính
thống, tức là thừa nhận học thuyết tiền lệ pháp.
Học thuyết tiền lệ pháp ở các hệ thống pháp luật này đều ít, nhiều chi phối
luật án lệ theo hướng: các phán quyết đã tuyên của Tòa án cấp trên nói chung có
giá trị ràng buộc tòa án cấp dưới trong quá trình xét xử các vụ việc hiện tại. Học
thuyết này được triển khai áp dụng trên thực tế thông qua việc xuất bản các phán
quyết của Tòa án có giá trị ràng buộc để tạo điều kiện thuận lợi và tạo nguồn tài
liệu có hệ thống, đáng tin cậy cho việc áp dụng thống nhất tiền lệ pháp tại các
tòa án trên toàn quốc trong công tác xét xử.

8


2.

Vai trò của án lệ trong hệ thống nguồn luật của dòng họ pháp luật
Common Law

Để tìm hiểu vai trò của án lệ trong hệ thống nguồn luật của dòng họ pháp
luật Common Law, cần phân tích vai trò của án lệ trong hệ thống nguồn luật của
các nước thuộc dòng họ Common Law mà ở đây, Anh và Mỹ là hai quốc gia tiêu
biểu và là hình mẫu trong việc áp dụng án lệ vào trong pháp luật nước mình.
Tuy nhiên, vai trò của án lệ ở Anh và Mỹ là khác nhau.Vì vậy, trước khi tìm hiểu
vai trò cảu án lệ trọng hệ thống nguồn luật của từng nước, cần tìm hiểu nguyên
nhân dẫn đến vai trò của án lệ ở hai nước Anh và Mỹ lại khác nhau.
2.1.


Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về vai trò của án lệ ở Anh
và Mỹ

Anh, Mỹ là hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới, thuộc dòng họ
Common Law và đều coi án lệ là nguồn luật quan trọng. Tuy nhiên, vai trò của
án lệ ở hai hệ thống pháp luật này lại khác nhau. Nếu xét về tổng thể thì vai trò
của án lệ ở Anh nổi bật hơn nhiều so với ở Mỹ. Nếu như Anh án lệ là nguồn luật
quan trọng và chủ yếu thì ở Mỹ lại ít quan trọng hơn. Sở dĩ như vậy là do những
nguyên nhân như sau:
Nguyên nhân quan trọng và sâu xa nhất là Anh là nước khởi nguồn của
văn hóa án lệ. Án lệ có lịch sử phát triển lâu dài và chiếm vị trí quan trọng trong
hệ thống pháp luật Anh. Còn ở Mỹ vốn là thuộc địa của Anh, từ khi mới giành
được độc lập 1776 thì họ không hề muốn phụ thuộc vào vương quốc Anh. Vì
vậy, tiền lệ pháp có nguồn gốc ở Anh nên thực sự không được ưa chuộng đặc
biệt trong điều kiện kinh tế xã hội có nhiều thay đổi. Hơn nữa, nước Mỹ là hợp
chủng quốc, người Anh tuy chiếm phần đông nhưng không thể phủ nhận sự tồn
tại của các dân tộc khác với bản sắc văn hóa, dân tộc, tôn giáo khác nhau; do đó
việc tiếp thu một cách thụ động án lệ - một thứ cứng nhắc và ra đời từ rất lâu
không phù hợp với người Mỹ.

9


Bên cạnh đó, Mỹ cũng không phải là nước khởi nguồn của văn hóa án lệ
nên họ cũng sẵn sàng cải tiến văn hóa đó hơn và một trong những cách cải tiến
tập quán án lệ là việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
2.2.

Vai trò của án lệ trong hệ thống nguồn luật Anh


Số lượng nguồn luật ở Anh rất phong phú bao gồm năm loại: Án lệ, luật
thành văn, luật Liên Minh Châu Âu, tập quán pháp địa phương và các tác phẩm
có uy tín. Trong đó án lệ được coi là nguồn pháp luật đầu tiên do lịch sử hình
thành của hệ thống pháp luật này.
Anh được coi là nơi sinh ra của khái niệm “án lệ”, vương quốc Anh cho
đến nay luôn được coi là một hình mẫu điển hình cho việc áp dụng cũng như coi
án lệ là một nguồn pháp luật chủ chốt. Bắt đầu hình thành từ năm 1066, tính đến
năm 1980, sau hơn 9 thế kỷ tồn tại và phát triển, ở Anh đã công bố 350.000 án
lệ. Con số trên là rất áp đảo so với con số 3000 đạo luật được nghị viện Anh ban
hành từ năm 1235 đến nay.
Nước Anh được xem là quê hương của án lệ, vì vậy mà án lệ đóng một vai
trò rất quan trọng và chiếm đa số trong hệ thống pháp luật Anh. Trong hệ thống
pháp luật này có một nguyên tắc ra đời từ khoảng thế kỉ XII có tên Latinh là “
Stare decisis” có nghĩa là tuân thủ các phán quyết trước đây và không phá vỡ
những quy phạm pháp luật đã được thiết lập trong án lệ. Theo nguyên tắc này,
tòa án cấp dưới chịu sự ràng buộc bởi các nguyên tắc pháp lý do tòa án cấp trên
sáng tạo ra được ghi nhận trong các bản án trong quá trình xét xử các vụ việc
trong quá khứ. Tuy nhiên việc tuân thủ nguyên tắc “Stare decisis” ở Anh có
phần khắt khe hơn rất nhiều so với Mỹ.
Án lệ ở Anh đậm nét hơn bởi lẽ nguyên tắc này đã in sâu vào tiềm thức
của người Anh. Việc bám sát tiền lệ pháp trong hoạt động xét xử là yêu cầu
nghiêm ngặt. Mức độ tuân thủ nguyên tắc “Stare decisis” của các tòa án Anh thể
hiện Ở sự không muốn phủ nhận các phán quyết trong quá khứ của chính mình.
Ngoài ra các tòa án Anh tạo ra luật và thay đổi luật bằng các bản án của họ
nhưng các thẩm phán có xu hướng ra sức biện luận trong các bản án của mình
10


rằng trong các vụ án đang thụ lí họ không làm gì hơn ngoài việc tìm ra các quy

định pháp luật đã có và đã được động đến trong án lệ.
Ở Anh những phán quyết của Thượng nghị viện, tòa án phúc thẩm và tòa
án cấp cao đều có giá trị ràng buộc đối với các tòa án thấp hơn. Tuy nhiên không
phải toàn bộ các phán quyết của các tòa án này đều có giá trị ràng buộc mà chỉ
có bản án được xuất bản mới trở thành án lệ và có giá trị ràng buộc. Phán quyết
của tòa phúc thẩm và tòa án cấp cao không có giá trị ràng buộc Thượng nghị
viện nhưng thông thường Thượng nghị viện rất tôn trọng phán quyết của các tòa
án này. Từ sau năm 1966 Thượng nghị viện Anh không bắt buộc phải tuân thủ
các phán quyết của chính mình. Phán quyết của Tòa án hình sự trung ương, Tòa
địa hạt và Tòa án hình sự và gia đình không phải là án lệ và không có giá trị
ràng buộc. Trong mỗi bản án cũng chỉ có phần các nguyên tắc đề ra phán quyết
là có giá trị ràng buộc; còn phần bình luận của thẩm phán chỉ có giá trị để tham
khảo.
Án lệ của Thượng nghị viện là án lệ bắt buộc đối với tất cả các Tòa án
ngoại trừ Thượng nghị viện (trước năm 1966 án lệ của Thượng nghị viện có giá
trị bắt buộc đối với cả Thượng nghị viện).Các quyết định của Tòa phúc thẩm là
án lệ bắt buộc đối với tất cả các Tòa án cấp dưới thuộc quyền phúc thẩm của Tòa
án này. Trừ các bản án hình sự, còn các bản án khác có giá trị bắt buộc ngay cả
với bản thân nó. Các quyết định của Tòa án cấp cao là án lệ bắt buộc đối với các
tòa án cùng cấp và Tòa án cấp dưới.
Vai trò của án lệ trong các Tòa án cùng cấp cũng được nhấn mạnh. Đối
với hệ thống Tòa phúc thẩm, có hai Tòa phúc thẩm là tòa phúc thẩm dân sự và
tòa phúc thẩm hình sự. Tòa phúc thẩm dân sự thì không chấp nhận việc xem xét
lại những phán quyết trước đây để đưa ra những phán quyết mới phủ nhận án lệ.
Còn với tòa phúc thẩm hình sự thì lại sẵn sàn không chấp nhận những phán
quyết trước đây nếu thấy rằng những phán quyết đó đã giải thích sai hoặc áp
dụng không đúng pháp luật. Đối với Tòa án Tối cao Anh, thẩm phán tòa án Tối
cao không có nghĩa vụ ràng buộc bởi những phán quyết trước đây của mình,
nhưng trên thực tế họ thường tuân thủ án lệ của chính mình.
11



Các án lệ được công bố trong các tuyển tập án lệ: Law reports, Weekly
law reports, All English law reports... được xem như một nguồn chính thống,
thậm chí có phần thông dụng hơn các bộ luật thành văn của nước này. Một án lệ
điển hình của Anh: năm 1933, cô Elizabeth trình báo cảnh sát việc bị một người
đàn ông đánh và lấy toàn bộ tiền bạc của cô. Cảnh sát điều tra phát hiện cô bịa
đặt nên tòa đã khép cô vào tội gây rối, ảnh hưởng đến trật tự công cộng dù lúc
đó tội này chưa hề có trọng luật thành văn. Kể từ đó bản án này đã trở thành án
lệ ở nước Anh. Bất kỳ người nào vô tội vào tình trạng bị truy tố và làm cảnh sát
phải điều tra một vụ án không có thật thì đều bị buộc vào tội danh này.
Việc áp dụng án lệ phải thỏa mãn những điều kiện về nguyên tắc và đòi
hỏi trên thực tế. Án lệ phải tồn tại từ lâu và phù hợp với nội dung vụ việc đang
xem xét. Thẩm phán thường phải sử dụng phương pháp chung là đi tìm án lệ để
áp dụng và nếu không có án lệ có liên quan, người thẩm phán sẽ vận dụng án lệ
có bản chất gần gũi với vụ việc đang giải quyết. Việc bám sát vào tiền lệ pháp
trong quá trình xét xử là quá trình cần thiết. Thực tế đòi hỏi việc sử dụng án lệ
phải đảm bảo được tính chắc chắn và sự ổn định của một hệ thống pháp luật.
Ví dụ trên cho ta thây quá trình hình thanh nên một án lệ, từ việc xác định
người vô tội – kẻ có tội, xác lập bản án, xét xử cho tới việc thống nhất xác lập
nên một án lệ, lấy đó làm quy chuẩn cho mọi vụ án tương tự về sau. Việc này
vẫn đảm bảo tính công bằng, tôn trọng pháp luật, tôn trọng lẽ phải mặc dù không
hề dựa vào một văn bản quy phạm pháp luật nào trước đó để đưa ra phán quyết.
2.3.

Vai trò của án lệ trong hệ thống nguồn luật Mỹ

Mặc dù được coi là một nước thông luật nhưng Mỹ lại có hệ thống luật
thành văn rất đồ sộ. Với một bản Hiến pháp lâu đời, đạt trình độ cao và khá trừu
tượng, việc áp dụng án lệ tại nước này gắn liền với cách giải thích Hiến pháp

của Tòa án Tối cao.
So với Anh, số lượng nguồn luật của Mỹ ít hơn chỉ bao gồm ba loại: Án
lệ, luật thành văn và các tác phẩm của các học gia pháp lý. Nếu như Anh được
12


xem là quê hương của án lệ thì Mỹ có án lệ là do trong lịch sử chịu sự đô hộ của
Anh. Cho nên, vị trí của án lệ ở quốc gia này không được coi trọng như ở Anh.
Ở Mỹ, tiền lệ pháp được tất cả các tòa án trích dẫn rất thường xuyên
nhưng trong các bản án cũng dành rất nhiều chỗ cho quan điểm của thẩm phán
về chính sách chung, đặc biệt là những vụ việc tòa án coi là quan trọng. Như
vậy, so với thẩm phán Anh, thẩm phán Mỹ rõ ràng đã đề cập nhiều hơn tới hệ
quả thực tiễn của một phán quyết xem nó có phù hợp với nhu cầu chính sách hay
không hơn là sự kiên định, phù hợp với lập luận của thẩm phán trong án lệ trước
đó.
Án lệ tại đây được áp dụng với các nguyên tắc cụ thể và chặt chẽ. Tòa án
Tối cao Liên bang không có nghĩa vụ phải tuân thủ cứng nhắc các phán quyết
trước đây của mình, tức là thừa nhận việc không phải tuân theo bất kỳ một án lệ
nào đã có trước đó, bởi lẽ là cơ quan tối cao có trách nhiệm đối với chính sách
pháp lý tổng thể của đất nước. Còn đối với các tòa án cấp dưới của liên bang và
các tòa án của các bang, các tòa án này có nghĩa vụ tuân theo các quyết định
trước đây của Tòa án tối cao Liên bang. Đối với các phán quyết của Tòa án cấp
dưới của liên bang về những vấn đề mang tính liên bang thì tòa án các bang
không bắt buộc phải tuân theo, tuy nhiên chúng được xem xét và cân nhắc rất
cẩn thận.
Tương tự, các phán quyết của tòa án bang về những vấn đề mang tính liên
bang cũng không ràng buộc các Tòa án liên bang. Đối với các phán quyết của
tòa án phúc thẩm khu vực của liên bang thì các phán quyết này chỉ mang tính bắt
buộc tuân theo đối với các tòa án cấp dưới nằm trong lãnh thổ khu vực đó chứ
khồn ràng buộc các tòa án khu vực khác. Tương tự, các phán quyết trước đây

của tòa án cấp trên của bang chỉ có giá trị ràng buộc đối với tòa án cấp dưới của
bang đó thôi.
Tuy nhiên, theo một số nhận định thì các Thẩm phán tối cao của Mỹ
không để ý đến án lệ một cách nghiêm túc trừ trường hợp họ nhất trí với những
phán quyết. Một nghiên cứu đã đưa ra con số, với 2.425 ý kiến thiểu số của 77
13


Thẩm phán Tòa án tối cao Hoa Kỳ từ năm 1793 đến năm 1990 khi biểu quyết
nghị án cho thấy, các Thẩm phán Tối cao pháp viện này sẵn sàng biểu quyết
phản lại bản án lệ nếu như án lệ đó không trùng với quan điểm của họ.
Có thể thấy vị trí của các Thẩm phán trong hệ thống quyền lực nước Mỹ
rất lớn. Điều đó xuất phát từ một tiền lệ mà vị Chánh án vĩ đại nhất của Tòa án
Tối cao John Marshall đã tuyên bố vào năm 1803 như sau:
-

Hiến pháp là bộ luât tối cao của đất nước
Những luật hay quyết định được đưa ra bởi cơ quan lập pháp là một bộ

-

phận của Hiến pháp và không được trái Hiến pháp.
Thẩm phán, người đã từng tuyên thệ bảo vệ Hiếp pháp, phải tuyên bố hủy
bỏ những luật, lệ, quy định nào của cơ quan lập pháp mâu thuẫn với Hiến
pháp.
Có thể thấy ở Mỹ mặc dù tỉ lệ án lệ trong hệ thống nguồn pháp luật không

cao như Anh nhưng án lệ của Tòa án cấp cao lại có vị trí đặc biệt trong cơ chế
bảo hiến. Nhiều quy định cụ thể trong Hiến pháp đã được cụ thể trong các phán
quyết của tòa án.

Ở Mỹ mỗi bang đều có hệ thống tòa án độc lập của riêng mình. Ớ tất cả
các bang, phán quyết của tòa án tối cao và tòa án phúc thẩm thường được xuất
bản. Mặc dù tiền lệ pháp ở mỗi bang không chịu sự ràng buộc những bang còn
lại nhưng rất có thể có ảnh hưởng lẫn nhau và cũng có thể ở trong trạng thái trái
ngược nhau do các bang có quan điểm khác nhau về vấn đề cần giải quyết. Do
vậy dường như án lệ không hoạt động hiệu qủa ở Mỹ khi các phán quyết ở các
bang có thể xung đột với nhau, không nhất thiết có sự ràng buộc lẫn nhau và
không có tòa án nào coi mình chịu sự ràng buộc bởi phán quyết của chính mình.
Đặc biệt Tòa án tối cao của Mỹ cũng thẳng thắn khẳng định rằng kết quả xét xử
của một vụ việc có thể dựa trên chính sách chung nhiều hơn là dựa vào án lệ và
rằng triết lí của tòa án thay đổi tùy theo quan điểm của cá nhân của người thẩm
phán về vấn đề đang giải quyết và ở thời điểm giải quyết vụ việc.
Qua những phân tích trên đây, ta thấy rằng án lệ có vai trò vô cùng quan
trọng trong hệ thống nguồn luật của dòng họ Common Law. Tiêu biểu là ở hai
14


hệ thống pháp luật lớn trên thế giới Anh- Mỹ tuy có sự tương đồng về lịch sử
hình thành, dòng họ nhưng ở mỗi quốc gia thì vai trò của án lệ lại được thể hiện
rất khác biệt. Chính điều này đã góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú trong
hệ thống nguồn luật của dòng họ Common Law.
C.

KẾT LUẬN
Tựu chung lại, án lệ có vai trò quan trọng đối với pháp luật thế giới nói

chung và đối với dòng ho pháp luật Common Law nói riêng mặc dù trên một số
phương diện, án lệ còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhưng chúng ta không thể phủ
nhận chỗ đứng và vai trò hết sức to lớn đối với pháp luật của các nước Common
Law. Giúp các nhà làm luật cũng như bộ máy xét xử giải quyết được nhiều vấn

đề còn tồn tại mà các nguồn luật khác không thể giải quyết được. Hơn thế nữa,
án lệ ngày càng phổ biến không những trong dòng họ pháp luật Common Law
mà còn xuất hiện ngày càng nhiều hơn trong các hệ thống pháp luật khác. Cụ thể
và gần đây nhất là Việt Nam đã có một cái nhìn nghiêm túc về việc đưa án lệ
vào trong thực tiễn xét xử, điều đó càng nâng cao ý nghĩa và vai trò của nguồn
luật này trong nền tư pháp Thế giới.

15



×