Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tiểu luận - Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thi trường ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.47 KB, 32 trang )

Tiểu luận - Vai trò của nhà nước trong
nền kinh tế thi trường

CHƯƠNG I – KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1. Tổng quan chung về kinh tế thị trường
1.1 Kinh tế thị trường
Lịch sử phát triển của xã hội loài người, là lịch sử phát triển không ngừng của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, đồng thời cũng là quá trình thay thế
lẫn nhau của các phương thức sản xuất xã hội. Nhưng bất cứ nền sản xuất xã hội
nào cũng đều phải giải quyết 4 vấn đề cơ bản: Sản suất cái gì? Với số lượng bao
nhiêu? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai và phân phối sản phẩm như thế nào?
Giải quyết những vấn đề này có hai kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, đó là: Kinh tế tự
nhiên và kinh tế hàng hóa
Kinh tế tự nhiên là hình thức kinh tế đầu tiên của xã hội loài người. Kinh tế tự
nhiên là nền kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm thỏa mãn nhu cầu
cá nhân của con người sản xuất trong một đơn vị kinh tế nhất định. Người sản xuất
quyết định về số lượng, chủng loại sản phẩm theo yêu cầu của mình, gắn với điều
kiện tự nhiên và phong tục tập quán cổ truyền. Trình độ phân công lao động, công
cụ lao động, phương thức tổ chức sản xuất còn rất thấp và giản đơn: sản xuất
mang tính tự cấp, tự túc, khép kín theo từng vùng từng địa phương, lãnh thổ.
Trong các xã hội nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ phong kiến chủ yếu là nền kinh tế
tự nhiên.
Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên, kế tiếp kinh tế tự nhiên trên cơ sở sự
phát triển của phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế của những
người sản xuất. Đó là hình thức kinh tế trong đó người sản xuất ra sản phẩm
không phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của mình, mà nhằm để trao đổi, để bán
trên thị trường. Vì vậy số lượng và chủng loại sản phẩm suy cho cùng là do người
mua quyết định. Việc phân phối sản phẩm được thực hiện thông qua quan hệ trao
đổi (mua- bán) trên thị trường.


Kinh tế hàng hóa ra đời từ rất sớm - vào thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên
thủy và đã từng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất. Hình thức đầu tiên của
nó là nền kinh tế hàng hóa giản đơn. đó là kiểu sản xuất do những người nông dân,
thợ thủ công tiến hành dựa trên cơ sở tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và sức lao
động của chính bản thân người sản xuất, họ trực tiếp trao đổi sản phẩm với nhau
trên thị trường. Quan hệ hàng –tiền tệ phát triển mạnh trong thời kì tan rã của
phương thức sản xuất phong kiến quá độ sang chủ nghĩa tư bản. Đồng thời đó
cũng là quá trình chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn lên kinh tế hàng hóa tư bản
chủ nghĩa. Kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa (TBCN) là hình thức sản xuất hàng
hóa cao nhất, phổ biến nhất trong lịch sử, dựa trên sự tách rời tư liệu sản xuất với
sức lao động. Hay nói cách khác, đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa TBCN là
dựa trên cơ sở chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc
lột lao động làm thuê. Nền kinh tế hàng hóa TBCN đã trải qua hai giai đoạn: kinh
tế thị trường tự do (cổ điển) và kinh tế thị trường hỗn hợp (hiện đại). Như vậy với
sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản(CNTB) kinh tế hàng hóa giản đơn
phát triển thành kinh tế hàng hóa phát triển hay kinh tế thị trường.
Nói như trên không có nghĩa là đồng nhất kinh tế thị trường với sản xuất hàng hóa
TBCN. Khi nói sản xuất hàng hóa TBCN là muốn nhấn mạnh mặt xã hội của sản
xuất tính chất của nền sản xuất. Còn nói kinh tế thị trường là muốn nhấn mạnh mặt
tự nhiên của sản xuất dựa trên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Ngày nay, kinh tế hàng hóa đã phát triển và phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Sản
xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại, phát triển dưới chủ nghĩa xã hội (CNXH). đặc điểm
của nền sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa là dựa trên cơ sở người lao động làm
chủ xã hội về tư liệu sản xuất; thực hiện tổ chức và quản lý nền sản xuất thông qua
nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) – Nhà nước của dân, do dân vì nhân dân nhằm
mục đích thỏa mãn nhu cầu vật chất tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. đó
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không dựa trên cơ sở người
bóc lột người: mục tiêu của phát triển sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện công
bằng tiến bộ xã hội và văn minh. Như vậy sản xuất hàng hóa không đối lập với
chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại

khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã xây dựng.
“Tóm lại kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Nói
khác với kinh tế tự nhiên ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ
phân công lao động xã hội và cách thức tổ chức kinh tế xã hội, trong đó sản xuất
và toàn bộ quá trình tái sản xuất gắn chặt với thị trường. Quan hệ kinh tế giữa
những người sản xuất và tiêu thụ sản phẩm biểu hiện qua thị trường, qua việc mua
bán sản phẩm lao động của nhau. Việc sản xuất ra những hàng hóa gì, cần có
những dịch vụ nào đều phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Mọi sản phẩm đi
vào sản xuất phân phối, trao đổi, tiêu dùng đều phải thông qua thị trường” hay
“Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động
với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá,
dịch vụ trên thị trường”.
1.2 Cơ chế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường có một loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó như
quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh, v.v…Các quy luật đó đều
biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua giá cả thị trường.
Nhờ sự vận động giá cả thị trường mà diễn ra một sự thích ứng một các tự phát
giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng cung) với khối lượng và nhu cầu của
xã hội (tổng cầu), tức là sự hoạt động của các quy luật đó đã điều tiết nền sản xuất
xã hội.
Vậy: cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nề kinh tế thị trường do sự tác
động của các quy luật vốn có của nó. Nói một cách cụ thể hơn, cơ chế thị trường
là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố
giá cả, cung – cầu, cạnh tranh …trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường để
điều tiết nền kinh tế thị trường.
Cơ chế thị trường là một bộ máy tinh vi để phối hợp một cách không tự giác hoạt
động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất. Cơ chế thị trường tự phát sinh và
phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường phát sinh và phát triển cùng
với sự phát triển của kinh tế thị trường, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì

ở đó có thị trường và do đó coá cơ chế thị trường hoạt động.
1.3 Ưu điểm và nhược điểm của nền kinh tế thị trường:
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do cạnh tranh. Doanh nghiệp muốn đứng
vững được trên thị trường phải luôn luôn đổi mới về sản phẩm, về tổ chức quản lý.
Do vậy, nó luôn tạo ra lực lượng sản xuất cho xã hội, tạo ra sự dư thừa hàng hoá
để cho phép thoả mãn nhu cầu ở mức tối đa.
a. Ưu điểm:
· Kinh tế thị trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, luôn tìm cách để cải
tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm về thành công hay thất bại
để phát triển không ngừng.
· Kinh tế thị trường tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng người quản lý kinh
doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các nhà quản lý kém hiệu quả.
· Kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ trong kinh tế bảo
vệ lợi ích người tiêu dùng.
· Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng
suất, chất lượng và hiệu quả cao, dư thừa và phong phú hàng hóa. Dịch vụ được
mở rộng và coi như là hàng hoá. Thị trường năng động, luôn luôn đổi mới mặt
hàng, công nghệ.
Song ngoài những ưu điểm nêu trên, kinh tế thị trường còn tồn tại một số khuyết
tật sau:
b. Khuyết tật của nền kinh tế thị trường:
· Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, không
chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội.
· Kinh tế thị trường, đặt lợi nhuận lên hàng đầu, cái gì có lãi thì làm, không có lãi
thì thôi nên nó không giải quyết được cái gọi là “hàng hoá công cộng” (đường xá,
các công trình văn hoá, y tế và giáo dục .v.v.)
· mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi ích tối đa, vì vậy họ có thể lạm
dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó
hiệu quả kinh tế – xã hội không được đảm bảo.
· Một nền kinh tế tự do thuần tuý điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng

hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp.
· Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo
nhiều, bất công xã hội.
Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ có tiến bộ mà
còn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần phải có sự can thiệp của
Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của
thị trường được ổn định, nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng
chính trị của sự phát triển kinh tế, sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của
kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ quan trọng để điều tiết thị trường ở tầm vĩ
mô. Bằng cách đó Nhà nước mới có thể kiềm chế tính tự phát của kinh tế thị
trường, đồng thời kính thích đối với sản xuât thông qua trao đổi hàng hoá dưới
hình thức thương mại.
2. Các học thuyết về mối quan hệ giữa nhà nước với nền kinh tế thị trường.
2.1. Học thuyết “ Bàn tay vô hình” của A. Smith (1723-1790)
a/ Hoàn cảnh ra đời học thuyết
Cuối thế kỷ 17, cùng với quá trình tan rã của CN trọng thương, sự phát triển của
nền CN công trường thủ công, cuộc CMTS Anh đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ
về công nghiệp. Xã hội lúc này xuất hiện tầng lớp quí tộc mới, liên minh với giai
cấp tư sản để chống lại triều đình phong kiến. Giai cấp Tư sản Anh cuối thế kỷ 17
đã trưởng thành, ít cần tới sự bảo hộ của nhà nước như trước. Các chính sách kinh
tế của nhà nước trong thời kì này cũng ít hà khắc hơn. Về mặt tư tưởng: các ngành
KHTN (toán, thiên văn), KHXH (triết, LS, VH) phát triển đã tạo cho khoa học
kinh tế 1 cơ sở phương pháp luận chắc chắn.
Chính những nguyên nhân đó đã làm nảy sinh những tư tưởng thể hiện sự tự do về
kinh tế. A.Smith là đại diện tiêu biểu cho trường phái này. Học thuyết “ Bàn tay vô
hình” về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trở thành tư tưởng kinh tế chủ
đạo ở Châu Âu từ thế kỷ 17 cho tới khi xảy ra cuộc đại khủng hoảng kinh tế những
năm 1930.
b/ Nội dung:
Theo A.Smith, một chế độ kinh tế bình thường phải dựa trên cơ sở sản xuất và trao

đổi hàng hóa và một nền kinh tế hàng hóa bình thường phải dựa trên cơ sở tự do
cạnh tranh. Ngược lại thì chỉ là sản phẩm của ngẫu nhiên, độc đoán và ngu dốt của
con người.
Liên minh trao đổi là đặc tính vốn có của con người. Nó tồn tại vĩnh viễn với loài
người. Ông cho rằng mỗi người trong quá trình trao đổi sản phẩm không ai xuất
phát từ lợi ích công mà xuất phát từ lợi ích cá nhân của mình. Lợi thế cá nhân
chính là mục đích, là động lực xuất phát. Khi chạy theo lợi ích cá nhân thì lợi ích
công cộng cũng được hình thành bởi một bàn tay vô hình dẫn dắt mọi người phục
vụ cho lợi ích công, phục vụ cho lợi ích xã hội. Bàn tay vô hình đó không nằm
trong ý muốn ban đầu của con người.
Bàn tay vô hình đó chính là các quy luật kinh tế khách quan chi phối hành động
của con người. Adam Smith gọi hệ thống các quy luật khách quan đó là một trật tự
thiên định. Ông chỉ ra các điều kiện cần thiết để cho các quy luật hoạt động là:
phải có sự tồn tại và phát triển sản xuất trao đổi hàng hóa, nền kinh tế phải phát
triển trên cơ sở tự do kinh tế, tự do mậu dịch. Quá trình ấy được thực hiện bởi
chính quá trình cạnh tranh giữa các lợi ích cá nhân. Không ai cần kế hoạch, không
ai cần mệnh lệnh, thị trường sẽ tự động giải quyết tất cả.
Theo ông quan hệ giữa người và người là quan hệ phụ thuộc về kinh tế chỉ có
CNTB mới là XH bình thường, nó được xây dựng trên cơ sở các quy luật tự nhiên.
Ông cho rằng các chế độ XH trước đó là không bình thường. Từ đó ông cho rằng
nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, nhà nước chỉ có chức năng bảo vệ
quyền sở hữu tư bản, đấu tranh chống kẻ thù bên ngoài, chống tội phạm trong
nước. Nhà nước chỉ nên can thiệp vào các chức năng kinh tế khi nó vượt ra ngoài
khả năng của các chủ doanh nghiệp. Ông cho rằng chính sách kinh tế tốt nhất của
nhà nước là tự do kinh tế
c/ Ý nghĩa:
· Học thuyết “ bàn tay vô hình” phù hợp với quy luật khách quan.
· Khuyến khích tự do kinh doanh, tự do mậu dịch, tự do phát triển.
2.2. Học thuyết “ Bàn tay hữu hình” của Keynes(1884-1946)
a/ Hoàn cảnh xuật hiện.

Cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã làm cho các nước tư bản gánh chịu
một hậu quả nặng nề, đặc biệt khi “bong bóng” bất động sản ở Mỹ nổ tung.
Học thuyết “ bàn tay vô hình”- tự điều tiết kinh tế của A. Smith đã không còn
thích hợp khi lòng tham cao độ của các nhà tư bản đã tự thiêu rụi nền kinh tế của
mình. Hơn nữa, sự phát triển nhanh của lực lượng sản xuất lúc này đòi hỏi sự can
thiệp ngày càng tăng của nhà nước vào kinh tế.
Tất cả điều này đã đòi hỏi các nhà kinh tế học phải đưa ra một học thuyết mới phù
hợp hơn với sự phát triển của thị trường. Chính trong điều kiện đó, học thuyết “
Bàn tay hữu hình”- Kinh tế TBCN có điều tiết đã xuất hiện.
b/ Nội dung
Thị trường không thể tự do phát triển mà nó chịu sự chi phối của một “bàn tay hữu
hình”. Bàn tay hữu hình này chính nhà nước.
Keynes cho rằng nhà nước phải đóng vai trò lớn trong nền kinh tế thị trường, là
người chịu trách nhiệm chính trong việc ổn định các hoạt động kinh tế . Nhà nước
sẽ can thiệp và điều tiết nền kinh tế thị trường thông qua các cơ chế, chính sách và
công cụ điều hành kinh tế vĩ mô
c/ Ý nghĩa
· Lý thuyết của Keynes phù hợp với tình hình kinh tế lúc bấy giờ
· Đề cao vai trò của nhà nước trong quản lý nền kinh tế.
· Hạn chế sự cạnh tranh không công bằng giữa các chủ thể kinh tế.
· Tuy nhiên hạn chế của học thuyết này là quá đề cao vai trò của nhà nước đối với
thị trường mà không thừa nhận những quy luật tự nhiên của nền kinh tế.
2.3. Học thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của Samuelson
a. Hoàn cảnh xuất hiện
Sự xích lại gần nhau của hai trường phái kinh tế tự do và kinh tế cần có sự điều
tiết của nhà nước thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20. Samuelson đưa ra học thuyết
kinh tế hỗn hợp.
b/. Nội dung
Chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào cả hai bàn tay vô hình và hữu hình.
Ông cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường thì

chẳng khác nào như định “vỗ tay bằng một bàn tay”.
Theo quan điểm này, nền kinh tế cần phải có môi trường tự do phát triển, tự do
mậu dịch…theo quy luật tự nhiên kết hợp với sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Có
như vậy thì nền kinh tế mới phát triển hoàn chỉnh và cân bằng.
c/ Ý nghĩa
· Không có một nền kinh tế tự do hoàn toàn.
· Phù hợp với quy luật khách quan.
· Hạn chế được những khuyết tật cuả cơ chế thị trường, nhận thấy vai trò cần thiết
điều tiết nền kinh tế cảu nhà nước.
3. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
3.1. Định hướng, dẫn dắt nền kinh tế
Định hướng chiến lược kinh tế đúng đắn có vai trò tiên quyết đối với sự phát triển
kinh tê của mỗi quốc gia.
Nhà nước định hướng cho nền kinh tế phát triển phù hợp với quy luật khách quan
của thời đại nhưng đồng thời cũng phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của
đất nước
Để định hướng nền kinh tế, nhà nước phải có chính sách phát triển kinh tế dài hạn
tương ứng với từng giai đoạn lịch sử nhất định. Việc hoạch định chiến lược phát
triển kinh tế sẽ làm cho nền kinh tế thị trường phát triển một cách tự giác, các
doanh nghiệp và chủ thể tham gia kinh doanh đều thống nhất với nhau về mục
đích phát triển kinh tế của quôc gia.
Thông qua việc định hướng các chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế, nhà nước
cũng thống nhất các lợi ích khác nhau về cùng một lợi ích để cho ai khi thực hiện
các lợi ích cá nhân của minh cũng đều góp phần vào việc tạo ra các lợi ích của
cộng đồng.
3.2.Điều phối, điều tiết nền kinh tế
Nhà nước tạo ra các điều kiện kinh tế cần thiết để thị trường tư nhân có thể phát
huy hết hiệu quả hoạt động của mình.
Tạo ra một thị trường tiền tệ ổn định, được chấp nhận rộng rãi, có khả năng loại bỏ
hệ thống giao dịch cồng kềnh, kém hiệu quả và đồng thời có khả năng duy trì giá

trị tiền tệ thông qua các chính sách hạn chế lạm phát.
Chính sách tài chính bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu ngân sách của Nhà
nước nhằm điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, ổn định giá cả và
tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Trong những thời kỳ kinh tế suy giảm, chính
sách tài chính có tác dụng kích cầu và sản xuất bằng cách Chính phủ tăng mua,
giảm thuế, do đó tạo ra được một thu nhập quốc dân khả dụng lớn hơn để đưa vào
luồng tiêu đùng. Còn trong những thời kỳ kinh tế "quá nóng", chính phủ làm
ngược lại. Để cân bằng lại những biện pháp tài chính cố ý này, Nhà nước tạo ra
nhưng cái gọi là cơ chế ổn định, như thuế thu nhập luỹ tiến và phụ cấp thất nghiệp.
Chính sách tài chính được điều hành một cách độc lập với chính sách tiền tệ là
chính sách nhằm điều tiết hoạt động kinh tế bằng cách kiểm soát việc cung ứng
tiền.
Chính sách tiền tề để ổn định kinh tế và can thiệp tỷ giá hối đoái. Về ổn định kinh
tế vĩ mô, nguyên lý hoạt động chung của chính sách tiền tệ là cơ quan hữu trách về
tiền tệ sẽ thay đổi lượng cung tiền tệ. Các công cụ để đạt được mục tiêu này gồm:
thay đổi lãi suất chiết khẩu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị
trường mở.
Khi tăng chi tiêu vào thời điểm thất nghiệp cao và lạm phát thấp, Nhà nước đã
tăng cung ứng tiền, dẫn tới giảm lãi suất (tức giám giá đồng tiền), nhờ đó ngân
hàng mới có nhiều điều kiện cho vay và chi tiêu cho tiêu dùng được tăng lên. Điều
đó có nghĩa là kích cầu vì tiêu dùng là bộ phận cấu thành lớn nhất và ổn định nhất
của tổng cầu. Lãi suất thấp, đồng thời khuyến khích đầu tư, các chủ doanh nghiệp
có thể mở rộng sản xuất, thuê thêm công nhân. Trong thời kỳ lạm phát cao và thất
nghiệp thấp thì ngược lại, Nhà nước “làm nguội" nền kinh tế bằng cách tăng lãi
suất, giảm cung ứng tiền. Cùng với việc giảm tiền và tăng lãi suất, cả chỉ tiêu lẫn
giá cả đều có xu hướng giảm hoặc ít nhất, nếu có tăng thì cũng rất chậm, và kết
quả là thu hẹp lại sản lượng và việc làm.
Nhà nước tạo điều kiện cho thị trường phát triển theo quy luật vốn có của nó, đồng
thời khắc phục những mặt trái mà nền kinh tế thị trường đem lại.
3.3.Giữ vững ổn định chính trị- kinh tế- xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp

luật
Mỗi quốc gia trong quá trình hiện đại hóa, muốn thịnh vượng kinh tế cần phải có
một cơ sở hạ tầng pháp luật, dù khiêm tốn nhưng tập trung bảo vệ các quyền về tài
sản và hợp đồng.
Để chống lại bạo lực và gian lận kinh tế, nhà nước phải tạo ra một hệ thống pháp
lý về kinh tế để quản lý nền kinh tế phát triển một cách công bằng, chẳng hạn như
những quy định về quyền sở hữu, những điều luật về pha sản và khả năng thanh
toán, hệ thống tài chính với ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại
để giữ cho việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt….
Trong các nền kinh tế thị trường không có gì bảo đảm để không diễn ra bạo lực và
gian lận. Đó là lý do tại sao Nhà nước cần phải có lưu trữ văn bản, hồ sơ, chứng từ
về đất đai, nhà ở, đảm bảo các hợp đồng mua bán tất cả các loại sản phẩm. Cả
người mua lẫn người bán đều muốn là khi cả hai phía đã đồng ý trao đổi thì sự
thoả thuận nhất định phải được thực hiện. Tình hình đó cũng giống như đối với
quan hệ giữa người chủ và người làm công. Người lao động đã với tư cách cá nhân
hay tập thể trong các tổ chức hiệp hội cũng đều có sự thoả thuận nhất định về điều
kiện làm việc, tiền lương với chủ sử dụng lao động. Nếu như không có sự đảm bảo
cho các thoả thuận ấy, nghĩa là không có sự thực thi của luật pháp thì các giao dịch
trên thị trường trở nên khó mà có thể thực hiện.
Nhựng quy định trong lĩnh vực kinh tế mà nhà nước đặt ra được áp dụng cho các
doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả nhà nước cũng phải tuân theo
Thông qua hệ thống pháp luật, nhà nước điều chỉnh những mối quan hệ cơ bản
trong lĩnh vực kinh tê, tạo ra những hành lang pháp lý lành mạnh để các chủ thể
kinh tế vận hành và phát triển.
CHƯƠNG II – KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN VÀ VÀ
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
1./ Kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.1/ Các tiêu chí của nền kinh tế thị trường.
Hiệp định thương mại của WTO không có quy định về các tiêu chí xác định tính

chất thị trường hoặc phi thị trường của một nền kinh tế, tuy nhiên Các nguyên tắc
và hiệp định của WTO được xây dựng dựa trên nguyên tắc của thị trường. Các
nước gia nhập WTO phải cam kết cải cách kinh tế theo hướng thị trường, tuân thủ
các nguyên tắc của WTO.
Đó là:
-Thương mại không phân biệt đối xử: Được thể hiện thông qua quy chế tối huệ
quốc (MFN) và quy chế đãi ngộ quốc gia (NT). Mục đích của các quy chế này là
bảo đảm bình đẳng trong gia nhập thị trường. Nguyên tắc này còn quy định không
có thiên vị trong việc hưởng ưu đãi từ Nhà nước về chính sách thuế và trợ cấp
-Thương mại ngày càng tự do hơn: WTO thúc đẩy tự do hoá và gia nhập thị
trường, thể hiện thông qua việc cắt giảm và từng bước bãi bỏ các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan.
-Đảm bảo tính minh bạch, dễ dự đoán trong chính sách thương mại: Bảo đảm
công khai, minh bạch và khả năng giải trình về sự can thiệp chính sách của Nhà
nước, các thành viên trong và ngoài nước được bình đẳng trong tiếp cận thông
tin
-Thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh: bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, chống độc
quyền, giá cả không bị bóp méo, mang tính thị trường (chẳng hạn chống hành vi
bán phá giá).
-Thúc đẩy phát triển và cải cách kinh tế: Thúc đẩy cải cách định hướng thị trường,
thông qua ưu đãi thuế quan và thực hiện các dạng trợ cấp được phép, ví dụ, để hỗ
trợ các đối tượng dễ bị tổn thương, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng
miền, bảo hộ nền sản xuất trong nước trong trường hợp bị tổn thương
(Các nước xin gia nhập WTO phải cam kết cải cách kinh tế theo hướng đáp ứng
các yêu cầu thị trường nói trên, tức là không được tạo ra những rào cản bóp méo
thị trường. Vấn đề kinh tế thị trường thể hiện rất rõ trong một số hiệp định của Tổ
chức thương mại thế giới như Hiệp định chống bán phá giá, Định giá hải quan,
Hiệp định về trợ cấp)
Theo Luật Thuế 1930 (sửa đổi) của Mỹ (quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới
và có ảnh hưởng đáng kể đến kinh tế VN) thì có 6 tiêu chí trong việc xác định 1

nền kinh tế là thị trường hay phi thị trường. Các tiêu chí đó gồm:
+ Khả năng chuyển đổi của đồng tiền
+ Tự do thoả thuận mức lương
+ Đầu tư nước ngoài
+ Sở hữu hoặc quản lý của nhà nước đối với các ngành sản xuất
+ Quản lý của nhà nước đối với sự phân bổ các nguồn lực
+ Các yếu tố thích hợp khác (theo tình hình thực tế của QG và khu vực)
Từ những quan điểm trên ta thấy Kinh tế thị trường có những đặc trưng cơ bản sau
đây:
- Nền kinh tế thị trường lấy thị trường làm trung tâm của nền kinh tế, chính thị
trường điều tiết trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Vì mục tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp phải biết vận dụng và phát huy các quy luật
kinh tế của thị trường . Mỗi doanh nghiệp là một thực thể độc lập trong kinh doanh
, có quyền hợp tác cũng như cạnh tranh với nhau trên thị trường.
- Liên doanh, liên kết kinh tế là xu thế tất yếu trong kinh doanh không giới hạn
phạm vi trong nước và quốc tế.
- Sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường tạo ra các yếu
tố của thị trường : thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường hàng hoá
- Sự vận động của nền kinh tế thị trường gắn với sự can thiệp vĩ mô của Nhà nước
(đây là sự can thiệp có mức độ ) để điều tiết mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
trên thị trường.
- Sự cần thiết của vai trò quản lý NN đối với nền kinh tế thị trường: Nếu không có
Đảng Cộng sản lãnh đạo và Nhà Nước quan lý thì không thể có nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN mà đó là nền KTTT tư bản chủ nghĩa.
1.2 Đặc trưng nền kinh tế thị trường của VN.
Các đặc trưng ( nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN).
Về mục đích phát triển lực lượng sản xuất phát triển nền kinh tế để xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân, phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại gắn với việc xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên cả ba mặt: Sở
hữu quản lý và phân phối.

Thứ nhất về sở hữu lấy sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng, lấy thành
phần kinh tế nhà nước làm chủ đạo để định hướng nền kinh tế quốc dân
Thứ hai, về quản lý, kinh tế thị trường định hướng XHCN phải có sự quản lý nhà
nước.
Thứ ba, về phân phối, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh
tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn vào các nguồn lực khác vào sản
xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với
đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Nói tóm lại, kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta là một kiểu tổ chức
kinh tế và xã hội theo đó các nguyên tắc quy luật khách quan của nền kinh tế thị
trường được đảm bảo, song các nguyên tắc của của CNXH trên các khía cạnh sở
hữu, quản lý và phân phối tiêu dùng cũng được tuân theo.
1.3. Điểm khác biệt với nền kinh tế thị trường thuần tuý.
Kinh tế thị trường thuần tuý nêu cao vai trò của doanh nghiệp tư nhân, các tập
đoàn kinh tế chuyên biệt mang tinh chất quốc gia và xuyên quốc gia, ý chí tự do
kinh doanh, thì kinh tế thị trường định XHCN ở VN mang đặc trưng của nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần với hai hình chủ đạo: Kinh tế tập thể nhà nước ( kinh
tế quốc dân) và kinh tế tư nhân (tư hữu), trong đó vai trò Kinh tế tập thể nhà nước
chiếm vị trí chủ đạo nền tảng trong nền kinh tế.
1.4. Các bất cập của nền Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước
ta.
Nhà nước vừa tham gia định hướng hoạt động của thị trường, tuy nhiên cũng có
lúc dùng tài chính, hay các chính sách thuế nhằm tác động vào thị trường.
Các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ tuy nhiên vẫn còn những rào cản về
thủ tục hành chính kìm hãm sự phát triển đó.Nhà nước đã có chính sách về phát
triển doanh nghiệp nhưng không đồng bộ và thiếu sức đẩy.
Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập. Thậm chí, hệ thống luật
chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế, dẫn đến sự trì trệ, lúng túng khi giải quyết
vấn đề.
Nhiều địa phương kêu gọi đầu tư nhưng chạy theo chỉ tiêu nên không chọn lọc các

nhà đầu tư dẫn đến vấn đề mất phương tiện sản xuất của dân:
Ví dụ: Một tỉnh nhỏ như Long An mà có hàng chục sân gôn với việc thu hồi hàng
chục ngàn hecta ruộng đã gây bức xức trong nhân dân.
Tỷ trọng ngành công nghiệp chất xám vẫn chưa chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh
tế.
VD: Dầu thô vẫn phải xuất khẩu- giờ mới có được nhà Máy lọc dầu Dung Quất;
chảy máu lao động chất xám.
Vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trì trệ, chậm thay đổi tư duy thị trường đối với một số
doanh nghiệp, tổ chức trực thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.
Khoảng cách giàu nghèo ngày càng sâu sắc.
Bên cạnh sự linh hoạt ,nhạy bén của hệ thống các cơ quan công quyền vẫn có 1 bộ
phận nhỏ độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng.
Vấn đề nổi cộm là ô nhiễm môi trường, phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển
môi trường bền vững
2. Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong nền Kinh tế thị trường định hướng
XHCN của Việt Nam.
2.1. Vai trò định hướng của Nhà nước Việt Nam nền Kinh tế thị trường định
hướng XHCN của Việt Nam.
Nhà nước định hướng cho nền kinh tế phát triển theo đúng quy luật khách quan
của thời đại cũng như phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của đất nước.
VD: Giai đoạn thập niên 80 định hướng nhà nước kinh tế quốc doanh, và kinh tế
tập thể là chủ đạo ( điều 22 hiến pháp năm 1980)
Giai đoạn cuối thập niên 80 đến thập niên 90, nhìn nhận từ sai lầm từ Liên Xô,
tiến hành cải cách toàn diện nền kinh tế( 1986 mốc). Nhà nước định hướng phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dưới sự quản lý của nhà nước. ( khẳng
định chấp nhận KTTT), và bắt đầu quan tâm đến việc khuyến khích đầu tư nước
ngoài.( điều 22-Hp năm 1992)
Đầu thế kỷ 21 khi kinh tế thế giới phát triển mau lẹ, tạo thời cơ để VN hội nhập
kinh tế TG. Nhà nước ta đã nhận định tình hình và bổ sung thêm tính quan trọng
của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế nước ta ( điều

15-16 Nghị quyết 51/2001 bổ sung một số điều của HP 1992).
Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế hội nhập vừa mở ra thời cơ nhưng cũng mang tới
không ít thử thách cho các nền kinh tế trong guồng quay kinh tế hội nhập này (
cạnh tranh không lành mạnh, tiếp biến văn hoá, lồng ghép kinh tế với các hoạt
động diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch). Đảng và Nhà nước đã định
hướng phát triển nền kinh tế vững mạnh ổn định,chủ động hội nhập.
2.2. Vai trò điều tiết của Nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN của Việt Nam.
Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để điều tiết nền kinh tế, Chính phủ không
trực tiếp can thiệp vào các quan hệ sản xuất mà chỉ tạo ra môi trường kinh doanh
thuận lợi, khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp cũng như những cá thể
kinh doanh. và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường.
Bằng các công cụ của mình như: chính sách tài chính, chính sách tiền tệ… Nhà
nước nhằm điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, ổn định giá cả và
tăng trưởng liên tục của nền kinh tế.
.
VD1: - Từ đầu năm nay, thị trường chứng khoán Việt Nam liên tục sụt giảm, đồng
Việt Nam giảm giá mạnh, vật giá không ngừng tăng lên, nhập siêu tăng chóng
mặt, thị trường tiền tệ gặp nhiều biến động, khiến kinh tế Việt Nam đứng trước
nhiều nguy cơ.
Trước tình hình đó, ngay từ sớm, Chính phủ Việt Nam đã hạ chỉ tiêu tăng trưởng
kinh tế năm 2008 từ mức 8,5-9% được xác định hồi đầu năm xuống còn 7%. Đầu
tháng 6, Chính phủ Việt Nam lại đưa ra một “liều thuốc” mạnh hơn, áp dụng một
loạt biện pháp liên quan đến nhiều lĩnh vực quan trọng, bao gồm thắt chặt vòng
quay tiền tệ, cắt giảm đầu tư vào các hạng mục công cộng và chi tiêu của cơ quan
Nhà nước… “Giá cả tiêu dùng các mặt hàng thiết yếu của người dân như lương
thực, thịt và rau xanh đã không còn tiếp tục tăng, hiện tượng tranh mua cũng
không còn thấy nữa, giá cả nhìn chung đang theo hướng ổn định, điều này cho
thấy các chính sách điều tiết vĩ mô của Chính phủ đã có hiệu quả nhất định”,
VD2: Cùng kỳ quý 4, năm 2008, quý 1 năm 2009 VN đứng trước tình trạng liên

tục nhập siêu, nhờ tác dụng của một loạt các biện pháp như Chính phủ khuyến
khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và tăng thuế quan nhập khẩu những hàng hoá
đắt tiền như xe hơi, nên tình trạng nhập siêu của Việt Nam từ tháng 6 đến nay đã
giảm dần.
Tài liệu: Thời báo kinh tế VN Quý 2 năm 2009 ( Bài viết. Ths. Thái Quang Tuân)
- Áp dụng chính sách bình ổn giá cả tiêu dùng mỗi khi thị trường có biến động.

×