Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Cơ chế quản lý hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay – Thực trạng và hướng hoàn thiện Luật xuất bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.04 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC........................................................................................................................................1
I. CƠ CHẾ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN.......................................................................3
1. Hoạt động xuất bản...................................................................................................................3
1.2.2. Thực hiện chức năng chính trị tư tưởng.........................................................................5
2. Cơ chế quản lý hoạt động xuất bản..........................................................................................6
II. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 9
1. Tổng quan hoạt động kinh doanh XBP những năm gần đây....................................................9
1.5. Các chủ thể vi phạm........................................................................................................11
3. Một số tồn tại, hạn chế của cơ chế quản lý hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay..............20
III. HƯỚNG ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN Ở NƯỚC TA VÀ
KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI BỔ SUNG LUẬT XUẤT BẢN...............................................................23
1. Hướng đổi mới cơ chế quản lý hoạt động xuất bản ở nước ta................................................23
2. Một số kiến nghị sửa đổi và bổ sung Luật Xuất bản..............................................................24
2. 1. Vấn đề xuất bản và phát hành điện tử.............................................................................24
2.3. Vấn đề vị trí, vai trò của nhà xuất bản, cơ sở in, đơn vị phát hành.................................27
2. 4. Liên kết trong hoạt động xuất bản..................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................................29

1


LỜI NÓI ĐẦU
Xuất bản là một ngành đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế
cũng như trong đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ta. Trên thực tế, Luật
Xuất bản năm 2004, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản năm
2008 và một số văn bản quy định chi tiết đã góp phần tháo gỡ nhiều vướng mắc
trong thực tiễn xuất bản ở nước ta, tạo điều kiện thúc đẩy ngành xuất bản phát
triển trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên,
trước sự biến đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế – xã hội đất nước và sự tác


động của bối cảnh quốc tế, Luật Xuất bản hiện hành chưa theo kịp sự phát triển
của hoạt động xuất bản và đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, nhất là về
cơ chế quản lý hoạt động xuất bản và các loại hình xuất bản phẩm. Trước tình
hình đó, Quốc hội đã đưa nội dung sửa đổi Luật xuất bản vào Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh năm 2012 của Quốc hội khóa XIII và dự kiến thông qua tại kỳ
họp thứ tư này.
Nhằm cung cấp thêm thông tin cho Quốc hội, đại biểu Quốc hội và các cơ
quan Nhà nước hữu quan trong quá trình xem xét, thông qua dự án Luật xuất bản,
Trung tâm Nghiên cứu khoa học, Viện Nghiên cứu lập đã nghiên cứu chuyên đề
“Cơ chế quản lý hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay – Thực trạng và hướng
hoàn thiện Luật xuất bản”, xin trân trọng được giới thiệu kết nghiên cứu này tới
các vị đại biểu Quốc hội.

2


I. CƠ CHẾ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN
1. Hoạt động xuất bản
1.1. Khái niệm hoạt động xuất bản
Theo Luật Xuất bản năm 2004 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định: "Hoạt động xuất bản bao gồm các lĩnh vực xuất bản, in và phát hành xuất
bản phẩm" (sau đây gọi tắt là XBP).
Mục đích của hoạt động xuất bản được quy định như sau: "Hoạt động xuất
bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng thông qua việc sản xuất, phổ biến những xuất
bản phẩm đến nhiều người nhằm giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống
xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời
sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống đẹp của
người Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với đất nước, phát triển kinh tế- xã hội,
đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp phần vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa"1

Trong nền kinh tế thị trường, xuất bản là một hoạt động thuộc lĩnh vực văn
hóa tư tưởng nhưng vẫn chịu sự chi phối mạnh mẽ của các qui luật kinh tế. Đó là
một hoạt động kinh doanh đặc thù. Việc sản xuất kinh doanh XBP phải tuân thủ
nghiêm ngặt các qui luật kinh tế khách quan như cung-cầu, giá trị và cạnh tranh.
Hoạt động xuất bản cũng phải hướng tới lợi nhuận và lợi nhuận cũng trở thành
động lực, mục tiêu của sản xuất kinh doanh. Hiệu quả kinh tế là cơ sở, phương tiện
để hoạt động xuất bản đạt được mục tiêu xã hội to lớn.
1.2. Đặc trưng của hoạt động xuất bản
1.1.2.1. Kinh doanh loại hàng hoá đặc thù
XBP là một loại hàng hóa nhưng là hàng hóa đặc biệt có những đặc điểm
riêng mà hàng hóa thông thường không có. XBP là hàng hóa bởi nó có đầy đủ hai
thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng. Để có được một XBP phải trải qua một quá
trình lao động với nhiều công đoạn sản xuất khác nhau: chi phí sáng tác, chi phí in
ấn xuất bản và chi phí lưu thông. Tất cả những chi phí đó đã hình thành nên giá trị
của XBP trên thị trường. Giá trị này được thể hiện thông qua giá cả. Ở Việt Nam,
giá cả XBP cao hay thấp phụ thuộc không chỉ bởi giá trị của chúng hay qui luật của
thị trường mà còn phụ thuộc chủ yếu vào chính sách, định hướng của Đảng, Nhà nước trong mỗi giai đoạn nhất định. Mỗi một loại XBP cụ thể chứa đựng một nội

1

Bộ Văn hoá-thông tin. Cục Xuất bản (2006) Luật Xuất bản và các văn bản hướng dẫn thi hành, Hà Nội, tr 6.

3


dung tri thức nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu của một hoặc vài nhóm đối tượng
khách hàng nhất định. Đó là giá trị sử dụng của XBP.
XBP là loại hàng hóa đặc biệt, nó cũng mang những yếu tố vật chất, cũng có
nguồn gốc từ các ngành sản xuất vật chất, cũng có thể cân đo, đong, đếm được.
Song giá trị chủ yếu trong loại hàng hóa này không phải là giá trị vật chất mà là

những giá trị tinh thần tư tưởng. Giá trị tinh thần này vốn được kết tinh từ lao động
lâu dài, gian khổ và đầy tính sáng tạo của tác giả và những người tham gia làm ra
cuốn sách, phổ biến chúng trên thị trường. Giá trị vật chất của XBP chỉ là bỏ bao
bọc bề ngoài, là phương tiện để chuyển tải giá trị tinh thần tư tưởng cốt lõi bên
trong của chúng.
So với các loại hàng hóa khác, giá trị sử dụng của nó thường lớn hơn rất
nhiều gía trị. Giá trị sử dụng của XBP có tính lâu bền, có sự lan tỏa trong không
gian và theo thời gian. Muốn khẳng định giá trị của một cuốn sách cần phải có đủ
thời gian để người sử dụng thẩm định và phát huy những giá trị đó vào các hoạt
động thực tiễn.
Việc định giá cho một đơn vị hàng hóa XBP trên thị trường cũng là một việc
làm rất khó, rất đặc biệt đối với nhà kinh doanh. Trên thị trường có những cuốn
sách bán chạy tiêu thụ nhanh với số lượng lớn, song chưa chắc đã là cuốn sách có
giá trị cao về mặt khoa học, nghệ thuật hoặc tư tưởng. Cũng có những cuốn sách
được thẩm định là có giá trị đích thực về mặt này, mặt kia và thực sự là loại sách
rất cần để phục vụ cho nhiều lĩnh vực của cuộc sống xã hội song lại rất khó tiêu thụ
và là loại cần phải trợ giá. Như vậy, thị hiếu bạn đọc và nhu cầu thị trường không
thể là tiêu chí cao nhất để đánh giá giá trị của XBP.
Trên thực tế, mỗi một loại XBP chỉ có thể phù hợp với một vài nhóm đối
tượng khách hàng nhất định. Để có nhu cầu về XBP người ta phải trải qua một quá
trình nhận thức nhất định. Trình độ nhận thức và học vấn càng cao thì nhu cầu về
XBP càng lớn và ngược lại. Vì vậy có một hiện thực là: khách hàng sử dụng XBP ở
mỗi khu vực, tỉnh thành, mỗi vùng lãnh thổ, mỗi quốc gia có những sự khác biệt. Ở
các thủ đô, thành phố lớn - nơi tập trung dân cư trình độ dân trí cao thì nhu cầu về
XBP rất cao, đa dạng và phong phú. Ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa đời
sống kinh tế nghèo nàn, trình độ dân trí thấp nên nhu cầu về XBP thấp và bị xếp vào
nhu cầu thứ yếu.
XBP là hàng hóa đặc biệt nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần và trí
tuệ. Vì thế nó tác động mạnh mẽ đến tâm tư tình cảm con người và góp phần tích
cực vào việc hình thành nhân cách con người. XBP có ý nghĩa giáo dục rất lớn đối

với xã hội.
4


1.2.2. Thực hiện chức năng chính trị tư tưởng
Mục tiêu lâu dài của hoạt động xuất bản hướng tới là nhằm đạt tới hiệu quả
xã hội. Bên cạnh mảng sách thuần túy kinh doanh đáp ứng nhu cầu của khách hàng,
của thị trường theo định hướng của nhà nước, hoạt động này còn phải hoàn thành
trọng trách lớn trong việc sản xuất và phổ biến một khối lượng lớn xuất bản phẩm
theo chương trình XBP tài trợ của Chính Phủ đến mọi miền của đất nước. Trên
thực tế, nhà nước đã quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực này và có sự đầu tư tài trợ
thích đáng. Những chương trình sách tài trợ trị giá hàng tỷ đồng cho các đối tượng
chính sách, vùng sâu, vùng xa, miền núi hải đảo hàng năm vẫn thường xuyên được
tổ chức. Trong đó có sự đóng góp công sức và tiền của rất lớn của đông đảo các
thành phần, lực lượng nhà xuất bản và đơn vị phát hành sách tham gia. Hàng triệu
bản sách các loại thuộc nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau của đời sống xã hội đã
nhanh chóng được phổ biến sâu rộng trong xã hội. Bằng nhiều hình thức, kênh
chuyển tải khác nhau, các xuất bản phẩm được đưa đến khách hàng, các thư viện,
trường học, các điểm văn hóa cơ sở (thông qua câu lạc bộ, nhà văn hóa của khu
phố, thôn, xóm...) đáp ứng nhu cầu đọc cho công chúng, nâng cao dân trí và đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
1.2.3. Thực hiện chức năng kinh doanh
Xuất bản đồng thời cũng là một hoạt động kinh tế. Hoạt động đó gồm ba
khâu xuất bản-in-phát hành (sản xuất-lưu thông). Mục tiêu của hoạt động xuất bản
nhằm hướng tới đáp ứng nhu cầu của người sử dụng XBP trong xã hội (người mua
và đọc XBP). Quá trình vận động liên tục và xuyên suốt giữa các khâu sáng tácbiên tập-in-phát hành đến khách hàng đã tạo nên một chu trình kinh tế khép kín
sản xuất- lưu thông-tiêu dùng. Đó là một quá trình kinh tế mà các nhà sản xuất kinh
doanh đầu tư các nguồn lực sẵn có để thực hiện việc sản xuất ra các XBP và sử
dụng các hình thức, biện pháp nhằm đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hóa xuất bản
phẩm trên thị trường. Quá trình chuyển giao giá trị XBP trên thị trường diễn ra khi

nhà sản xuất kinh doanh và người mua có thể chấp nhận các thương lượng của
nhau về giá cả, sản phẩm và dịch vụ mua bán hàng hóa. Trong đó, nhà sản xuất
kinh doanh thu được một khoản tiền không những bù đắp được tất cả những chi phí
đã bỏ ra mà còn có thêm lợi nhuận để tiếp tục tái đầu tư tiếp theo. Khách hàng mua
được hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu đọc của bản thân và khai thác tối đa giá trị sử
dụng của XBP. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động xuất bản chịu sự chi phối
mạnh mẽ của các qui luật kinh tế. Việc sản xuất kinh doanh các XBP trên thị
trường phải tuân thủ nghiêm ngặt các qui luật cung-cầu, giá trị và cạnh tranh. Hoạt
động xuất bản cũng phải hướng tới lợi nhuận và lợi nhuận cũng trở thành động lực,
mục tiêu của sản xuất kinh doanh. Bởi hiệu quả kinh tế chính là nền tảng vững chắc
5


để duy trì sự tồn tại và phát triển của hoạt động xuất bản. Đồng thời, hiệu quả kinh
tế cũng là cơ sở để hoạt động xuất bản đạt được hiệu quả xã hội to lớn.
Như vậy, ở nước ta, xuất bản là một hoạt động đặc thù- hoạt động kinh tế
trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng. Hoạt động sản xuất kinh doanh loại hàng hóa đặc
biệt nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần cho xã hội theo định hướng của Đảng
và Nhà nước; Hoạt động xuất bản phải vận hành trong nền kinh tế thị trường và
tuân thủ các qui luật kinh tế, lấy hiệu quả kinh doanh làm mục tiêu trước mắt nhằm
thực hiện tốt chiến lược lâu dài là hiệu quả xã hội.
2. Cơ chế quản lý hoạt động xuất bản
2.1. Khái niệm cơ chế quản lý
Trong cuốn sách Lịch sử các học thuyết kinh tế, các nhà kinh tế học cổ điển
cho rằng việc tổ chức và quản lý nền kinh tế phải dựa vào bàn tay vô hình của cơ
chế thị trường. Ngược lại trường phái Keynes lại cho rằng hoạt động này phải dựa
vào bàn tay hữu hình của Nhà nước. Theo quan điểm kinh tế học của Paul
A.Samuelson thuộc trường phái chính hiện đại chủ trương phát triển kinh tế phải
dựa vào cả hai bàn tay là cơ chế thị trường và Nhà nước. Ông cho rằng, “điều hành
một nền kinh tế không có cả Chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định vỗ tay

bằng một bàn tay”2
Theo các nhà kinh tế học, “Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế,
trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động qua lại thị
trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là cái gì? Như thế nào?
Cho ai?”.3 Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thông qua giá cả
thị trường. Giá cả thị trường là hạt nhân, là trung tâm của cơ chế này và bàn tay vô
hình điều tiết hành vi kinh doanh của chủ thể kinh tế đồng thời trực tiếp điều tiết
toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Giá cả là kim chỉ nam định hướng, dẫn dắt
người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa dịch vụ đáp ứng nhu cầu, giúp nhà kinh doanh
lựa chọn lĩnh vực đầu tư, mặt hàng kinh doanh và thị trường tiêu thụ để tối đa hóa
lợi nhuận. Do vậy, giá cả phải là giá cả thị trường, được hình thành trên thị trường
theo quan hệ cung cầu và trong môi trường cạnh tranh.
Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế thông qua các công cụ pháp luật,
kế hoạch hóa và công cụ kinh tế tài chính nhằm định hướng và chỉ đạo sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế - xã hội; tạo môi trường kinh tế và khuôn khổ pháp lý cho
hoạt động sản xuất kinh doanh, phát huy mặt tích cực, khống chế những tác động
2

Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Bộ môn kinh tế chính trị Mác-Lênin, (1999), Lịch sử các học thuyết kinh
tế, NXB Giáo dục. Tr 165
3

Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Bộ môn kinh tế chính trị Mác-Lênin, (1999), Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Giáo dục. Tr 166

6


tiêu cực, khắc phục những hạn chế vốn có của cơ chế thị trường tạo hành lang và
môi trường phát triển kinh tế bền vững.
Quá trình quản lý kinh tế là quá trình chủ thể quản lý nhận thức và vận dụng

các qui luật khách quan vào điều kiện cụ thể của nền kinh tế, từ đó đưa ra các qui
định, sử dụng các cách thức và phương tiện nhằm định hướng, kích thích, kiểm tra,
giám sát các đối tượng quản lý để đạt mục tiêu. Hệ thống các qui định, cách thức và
phương tiện quản lý được xây dựng và sử dụng trong quá trình quản lý chính là cơ
chế quản lý kinh tế.
“Cơ chế quản lý kinh tế là tổng thể các qui định, cách thức và phương tiện
do chủ thể quản lý kinh tế đề ra nhằm tác động vào đối tượng quản lý để đạt được
mục tiêu” 4
Cơ chế quản lý kinh tế là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý, nhưng lại
xuất phát từ cơ sở khách quan đó là hệ thống các qui luật kinh tế, thực tiễn kinh tế xã
hội của đất nước trong từng thời kỳ nhất định. Mỗi một thời kỳ kinh tế khác nhau
tương ứng với một cơ chế quản lý kinh tế nhất định.
Các qui định mà chủ thể quản lý kinh tế đưa ra chính là các văn bản về pháp
luật kinh tế. Đây là công cụ để chủ thể định hướng, ràng buộc, điều tiết các hoạt
động kinh tế từ phạm vi vĩ mô nền kinh tế đến các hoạt động vi mô của các đơn vị
doanh nghiệp. Các cách thức và phương tiện quản lý được chủ thể sử dụng chính là
kế hoạch, chính sách kinh tế, chế độ hạch toán kinh tế … nhằm hướng dẫn, điều
tiết, kiểm tra giám sát và kích thích các đối tượng quản lý trong nền kinh tế hoạt
động có hiệu quả hướng tới mục tiêu đã xác định.
Trong cấu thành của mình, cơ chế quản lý kinh tế là một hệ thống bao gồm
các bộ phận định hướng, ràng buộc, kích thích, kiểm soát. Mỗi một bộ phận có
chức năng riêng nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, tạo nên một chỉnh thể của cơ chế
quản lý kinh tế.
Cơ chế quản lý kinh tế là sản phẩm của bộ máy quản lý kinh tế (và của cán
bộ quản lý kinh tế) song chúng lại có cơ sở khách quan là hệ thống các qui luật. Do
vậy, cơ chế quản lý kinh tế quyết định cách thức tổ chức, thiết chế bộ máy quản lý
kinh tế và đặt ra những yêu cầu về phẩm chất và năng lực đối với cán bộ quản lý
trong bộ máy đó. Khi nội dung, tính chất của cơ chế quản lý kinh tế đã thay đổi thì
cấu trúc, thiết chế của bộ máy cũng như yêu cầu đối với cán bộ quản lý về phẩm
chất, năng lực trong bộ máy đó phải thay đổi theo. Nói cách khác, trong mối quan

hệ giữa cơ chế quản lý kinh tế và bộ máy quản lý kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế
quyết định bộ máy quản lý kinh tế. Trong mối quan hệ giữa cơ chế quản lý kinh tế
4

Phân viện Báo chí và Tuyên truyền. Khoa Quản lý kinh tế (2003), Nguyên lý quản lý kinh tế, NXB Chính trị quốc gia. Tr 97

7


với cơ cấu kinh tế thì cơ chế quản lý kinh tế chịu sự qui định, chi phối của cơ cấu
kinh tế. Cụ thể, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp (nền kinh tế
đóng) sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (nền kinh tế mở về cơ cấu thành
phần kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế) đòi hỏi phải chuyển từ cơ chế quản lý tập
trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
2.2. Cơ chế quản lý hoạt động xuất bản
Xuất bản là hoạt động kinh tế trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng, từ cách hiểu về
cơ chế quản lý kinh tế trên đây, cho thấy cơ chế quản lý hoạt động xuất bản cũng
không nằm ngoài sự vận động trên, cơ chế này được hiểu như sau: Cơ chế quản lý
hoạt động xuất bản là tổng thể các văn bản pháp luật, các phương thức và biện
pháp, các phương tiện quản lý do Nhà nước đề ra nhằm định hướng, điều tiết kích
thích, kiểm tra giám sát các chủ thể kinh tế tham gia hoạt động xuất bản để đạt
được mục tiêu quản lý”
Phương thức và biện pháp quản lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất bản
chính là việc Nhà nước vừa sử dụng cơ chế tự điều tiết của cơ chế thị trường theo các
qui luật kinh tế khách quan như cung cầu, giá trị và cạnh tranh và sự điều tiết vĩ mô
của Nhà nước thông qua các công cụ luật pháp, và kinh tế tài chính khác. Đồng thời
Nhà nước sử dụng các biện pháp quản lý để quản lý thống nhất hoạt động xuất bản
trên toàn quốc như biện pháp hành chính, kinh tế và tâm lý giáo dục.
Phương tiện Nhà nước sử dụng trong quản lý hoạt động xuất bản bao gồm kế
hoạch hóa, chính sách kinh tế, chế độ hạch toán, thông tin kinh tế … Trong quá trình

quản lý, Nhà nước không chỉ sử dụng công cụ pháp luật để điều tiết hoạt động xuất
bản trong cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường phát huy tác dụng.
Trong cả những trường hợp nền kinh tế nói chung, thị trường XBP nói riêng có sự
biến động lớn do các tác động khách quan (sự khủng hoảng kinh tế khu vực và quốc
tế, thiên tai, chiến tranh, tâm lý người tiêu dùng), Nhà nước còn sử dụng các chính
sách tài chính, tiền tệ, thuế nhằm đảm bảo tính khách quan của các hình thức kinh tế,
lập lại trật tự cho các hoạt động xuất bản theo yêu cầu của các qui luật kinh tế khách
quan. Ngoài ra, Nhà nước còn kiểm soát hoạt động xuất bản theo cơ chế thị trường
bằng chế độ hạch toán kinh tế, cung cấp thông tin thị trường …
2.3. Chức năng cơ chế quản lý hoạt động xuất bản
Trong quá trình quản lý của Nhà nước, chức năng cơ chế quản lý hoạt động
xuất bản thể hiện ở các mặt sau:
- Định hướng sự phát triển xuất bản: Nghĩa là cơ chế quản lý hoạt động xuất bản
góp phần xác định con đường và hướng sự vận động của sự nghiệp xuất bản nhằm đạt
đến một đích nhất định (gọi là mục tiêu) căn cứ vào đặc điểm kinh tế, xã hội của đất
nước trong từng thời kỳ nhất định. Điều này sẽ tạo cho các nhà xuất bản, các đơn vị in
8


và phát hành dự đoán được sự biến đổi của thị trường, nhu cầu của xã hội, từ đó nắm
lấy cơ hội trong sản xuất kinh doanh cũng như lường trước những bất lợi, hạn chế
những bất lợi có thể xẩy ra trong cơ chế thị trường, khắc phục ngành phát triển tự phát
không phù hợp với lợi ích xã hội, với mục tiêu quản lý đẩy mạnh những ngành mũi
nhọn, xây dựng chế tài quản lý phù hợp cho những lĩnh vực, khâu trọng yếu then chốt
trong toàn bộ hệ thống xuất bản.
- Điều tiết kích thích hoạt động xuất bản. Nhà nước sử dụng quyền năng chi
phối của mình lên các hành vi kinh tế của các chủ thể tham gia hoạt động xuất bản,
ngăn chặn các tác động tiêu cực đến quá trình hoạt động xuất bản, ràng buộc chúng
phải tuân thủ các quy tắc hoạt động xuất bản đã định sẵn nhằm bảo đảm sự phát
triển bình thường của chúng.

- Kiểm tra, giám sát hoạt động xuất bản: Nhà nước xem xét, đánh giá tình
trạng tốt xấu của các hoạt động xuất bản. Theo dõi, xét xem sự hoạt động xuất bản
được thực thi đúng hoặc sai đối với các quy định của pháp luật. Kiểm tra, giám sát
hoạt động xuất bản là một chức năng quản lý của Nhà nước. Công tác này phải
được thực thi thường xuyên và nghiêm túc.
Mục tiêu quản lý: Mục tiêu này bao gồm mục tiêu trước mắt và lâu dài. Mục
tiêu trước mắt nhằm đạt tới là tạo ra môi trường kinh doanh hấp dẫn, hành lang pháp
lý an toàn, bình ổn thị trường và sức mạnh tăng trưởng kinh tế của các lực lượng
SXKD. Mục tiêu lâu dài nhằm đạt tới là mục tiêu kinh tế cho các tổ chức, doanh
nghiệp, tăng trưởng ngân sách quốc gia, thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần lành
mạnh cho xã hội, nâng cao dân trí và năng lực thẩm mỹ cho công chúng xã hội.
II. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
1. Tổng quan hoạt động kinh doanh XBP những năm gần đây
Hoạt động xuất bản những năm gần đây đã không ngừng có những bước tiến
mới về số lượng, cơ cấu mặt hàng, giá cả, phương thức phát hành đến bạn đọc… Bên
cạnh đó, những hạn chế của xuất bản Việt Nam hiện nay cũng đang là trăn trở lớn
của các nhà lãnh đạo, nhà quản lý, các nhà kinh doanh XBP trong nước. Đó là thị
trường XBP lậu vẫn tồn tại như một thực thể vốn có.
1.1. Về số lượng và cơ cấu sách xuất bản và phát hành.
Theo Báo cáo Tổng kết hoạt động Xuất bản của Cục Xuất bản trong những
năm gần đây cho thấy số lượng bản sách có xu hướng tăng lên rõ rệt hàng năm (năm
2001: xuất bản đạt 190,9 triệu bản, phát hành đạt 194,9 triệu bản; năm 2008: xuất
bản đạt 279,9 triệu bản, phát hành đạt 314, 6 triệu bản; năm 2011: xuất bản đạt
9


293,723 triệu bản, phát hành đạt 373,8 triệu bản), cơ cấu các mặt hàng sách có nhiều
thay đổi phù hợp với cơ chế thị trường vừa đáp ứng tốt nhu cầu thị trường, vừa đảm
bảo định hướng của Nhà nước. Đó là sự gia tăng không ngừng số lượng đầu và bản

sách mặt hàng sách khoa học- công nghệ, kinh tế đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thực
tiễn. Đồng thời sách chính trị, luật pháp được coi là mặt hàng khó bán, khó tiêu thụ
nhất, hiện cũng có số lượng được xuất bản khá lớn so với các loại sách khác (Sách
chính trị, luật pháp: 1629 cuốn, 5,202 triệu bản năm 2001, 3628 cuốn, 8,590 triệu
bản năm 2008, 4303 cuốn, 12,910 triệu bản năm 2011; Sách khoa học công nghệ,
kinh tế: 2073 cuốn, 3,203 triệu bản năm 2001, 4271 cuốn, 10,600 triệu bản năm
2008, 468 cuốn, 12,142 triệu bản năm 2011). v.v
1.2. Về các lực lượng tham gia xuất bản, phát hành sách
Theo thống kê mới nhất của Ban Tuyên giáo Trung ương năm 2011 ở Việt
Nam có 64 nhà xuất bản thuộc thành phần kinh tế nhà nước, trên 13200 cơ sở phát
hành sách và gần 1500 cơ sở in bao gồm nhiều thành phần kinh tế tham gia. Các
lực lượng cung ngày nay đang ngày một gia tăng về số lượng, khả năng cung ứng,
đa dạng về mô hình hoạt động và phương thức, qui mô ngày càng mở rộng. Các lực
lượng này dần được phân bổ rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi
đến miền núi. Tiêu biểu như mạng lưới phát hành của Nhà Xuất bản Giáo dục, Kim
Đồng, Chính trị Quốc gia, Công ty Fahasa, Công ty cổ phần văn hoá Phương Nam,
Thành Nghĩa … Tuy nhiên, mạng lưới phát hành của phần lớn các đơn vị mới chỉ
dừng lại ở các trung tâm, thành phố, thị trường nông thôn, miền núi chưa được
quan tâm đúng mức.
1.3. Về giá sách
Giá sách thường có sự biến động theo thời gian và không gian trên thị
trường. Bởi giá sách là giá cả thị trường, nó chịu sự chi phối của các qui luật kinh
tế và các điều kiện môi trường khách quan và chủ quan khác. Giá sách hiện nay có
sự chênh lệch lớn giữa các thành phần lực lượng tham gia kinh doanh, giữa giá bán
buôn và bán lẻ. Phần lớn các lực lượng thuộc thành phần kinh tế nhà nước giá bán
thường cao hơn, giá bán lẻ thường theo giá bìa. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị
trường chủ yếu thông qua yếu tố giá cả.
Trên thực tế, cách tính giá sách hiện nay còn nhiều bất cập, chưa tính đựơc
giá trị thực (giá trị cốt lõi là nội dung tư tưởng) của cuốn sách. Các nhà làm sách
thường tính giá theo số trang là chủ yếu hoặc dựa trên loại giấy và mực in. Vì vậy

chưa kích thích được sức sáng tạo của tác giả cũng như đội ngũ cán bộ những
người làm công tác biên tập trong các nhà xuất bản.

10


1.4. Các phương thức phát hành
Hiện nay các lực lượng kinh doanh XBP sử dụng nhiều phương thức phát
hành hiệu quả kết hợp giữa bán buôn với bán lẻ, giữa các hình thức bán truyền
thống với hiện đại (bán cố định, lưu động và bán qua mạng). Thiết lập mạng lưới
phát hành rộng khắp thông qua mạng lưới của chính đơn vị và sử dụng hệ thống
mạng lưới của đối tác để tiêu thụ sách hiệu quả. Đặc biệt với các biện pháp hỗ trợ
bán hàng như các chương trình chào hàng, khuyến mại, quảng cáo, thiết lập các
trang web bán hàng… làm cho doanh số tiêu thụ sách ngày càng tăng, thu hút nhiều
lực lượng trong xã hội tham gia vào hoạt động xuất bản, sức cạnh tranh ngày một
quyết liệt.
Tuy nhiên, hoạt động xuất bản hiện nay còn khá nhiều vi phạm, những vi
phạm thường gặp ở các nhà xuất bản, cơ sở in, đơn vị phát hành và cả ở những cơ sở
không có chức năng liên quan đến xuất bản, in, phát hành như:
Sách có nội dung vi phạm điều 10 Luật xuất bản
Sách xuất bản không mua bản quyền, sách xuất bản không giấy phép, sách in
không chấp hành giấy phép hoặc sử dụng giấy phép không hợp lệ. Theo thống kê
của Cục Xuất bản hiện nay có khoảng trên 70% các vụ vi phạm bị xử lý trên thị
trường là in không có giấy phép. Các vi phạm dạng này bao gồm: Cơ sở in không
có giấy phép hoạt động, in không giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
in không có quyết định xuất bản của nhà xuất bản, in không đúng với nội dung,
quyết định xuất bản của nhà xuất bản, in XBP đã có quyết định đình chỉ, cấm lưu
hành, tiêu hủy hoặc tịch thu, in không đúng với bản thảo đã duyệt của nhà xuất bản,
in quá số lượng ghi trong hợp đồng…
Sách xuất bản trong nước và nhập khẩu có nội dung thiếu tính định hướng

giáo dục và thẩm mỹ
Cơ sở phát hành có giấy phép nhưng hoạt động không đúng qui định
Cơ sở kinh doanh không có giấy phép
1.5. Các chủ thể vi phạm
Qua khảo sát thị trường, số liệu của cơ quan quản lý chức năng, cũng như một
số thông tin công bố trên các phương tiện truyền thông đại chúng cho thấy, bất cập
lớn nhất trong hoạt động xuất bản hiện nay chính là nạn sách “lậu”, sách “ngoài
luồng”, sách “không rõ nguồn gốc, xuất xứ” ngang nhiên tồn tại. Ðó là một thực tế
đáng buồn khi mà Việt Nam đã gia nhập Công ước Bern từ năm 2004. Khối liên
minh quốc tế về sở hữu trí tuệ (IIPA) đã xếp Việt Nam vào một trong các quốc gia
vi phạm bản quyền nhiều nhất. Ðể đối phó với tình trạng này, một số biện pháp đã
được áp dụng, cụ thể là Bộ Thông tin và Truyền thông cùng Bộ Công an phối hợp
11


ra Thông tư liên tịch nhằm chống sách lậu. Nhiều vụ bắt giữ sách lậu lớn trong thời
gian qua đã ít nhiều mang lại hy vọng trong cuộc chiến chống sách lậu tại Việt
Nam. Nổi bật trong năm 2011 là vụ việc của công ty Văn hóa sáng tạo Trí Việt First New. Vào tháng 11/2011, cơ sở gia công sau in Huy Thi ở Ngọc Hồi, Hà Nội
bị công an và lực lượng quản lý thị trường bất ngờ đột kích, thu giữ hàng chục
nghìn cuốn sách lậu, sách giả, kém chất lượng. Với con số đến 117 đầu sách bị in
lậu, lần này Trí Việt quyết tâm tuyên chiến với sách giả để “tự cứu” mình bằng việc
thuê luật sư hoàn tất thủ tục pháp lý, đề nghị các cơ quan tố tụng khởi tố vụ án hình
sự để xử lý về hành vi làm hàng giả, hàng lậu. Và mới đây, Trí Việt lại tiếp tục
đứng đơn kiện hai trung tâm Anh ngữ Úc Châu và Việt - Úc tại thành phố Hồ Chí
Minh vì đã sao chép trái phép các ấn bản dạy tiếng Anh của mình.
Có thể nói, những nhà làm sách chân chính luôn trong trạng thái bất an khi ra
được cuốn sách hay, nhu cầu thị trường cao. Tuy nhiên, sự thật khó tin, một điều cần
báo động ở thị trường XBP Việt Nam là thủ phạm của các vi phạm trên, ngoài những
cá nhân, cơ sở cố ý hoặc “vô tình” “nối bản, in lậu”, “ăn cắp bản quyền” sách của
người khác, không ít các nhà làm sách khi xuất bản cuốn sách của mình đã “tự làm

lậu” bằng cách nối bản, nhân bản vượt quá giấy phép của cơ quan quản lý chức
năng. Chúng ta vẫn thường lên án, tố cáo những cá nhân, tổ chức vi phạm bản quyền
sách… nhưng thực tế không ít các chủ sở hữu lại tự mình vi phạm bản quyền của
chính mình, gây thiệt hại cho nhiều cá nhân, tổ chức liên quan; đó còn là sự “lơ là
trong quản lý” của các cơ quan chức năng. Đây là một thực tế, cần được làm rõ và
quản lý nhà nước cần phải thiết lập các chế tài và có biện pháp gắn quyền lợi đi đôi
với trách nhiệm của các nhà làm sách trong nước hiện nay.
2. Cơ chế quản lý hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay
Căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước, tính đặc thù của
hoạt động xuất bản, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đảng, Nhà nước định hướng chỉ đạo và quản lý hoạt động xuất bản theo cơ chế kết
hợp bàn tay vô hình của cơ chế thị trường với bàn tay hữu hình của Nhà nước. Một
số vấn đề cốt lõi như thể loại đề tài, tính tư tưởng nội dung của XBP do Nhà nước
định hướng và quản lý, các vấn đề khác như loại hình XBP, nội dung, hình thức
mẫu mã, chất lượng XBP… do thị trường, nhu cầu khách hàng quyết định. Theo
đó, loại XBP phục vụ nhiệm vụ xã hội, Nhà nước đầu tư, trợ giá; loại XBP kinh
doanh do doanh nghiệp quyết định căn cứ vào quan hệ cung cầu, giá trị và cạnh
tranh để tự điều tiết hoạt động kinh doanh của mình. Phương thức quản lý này giúp
các tổ chức doanh nghiệp kinh doanh XBP nâng cao chủ động, độc lập trong hạch
toán kinh doanh, mặt khác nhà nước có thể huy động tối đa sức mạnh và nguồn lực
vốn có của các thành phần kinh tế, các đơn vị tham gia hoạt động xuất bản.
12


Trong những năm gần đây, nhằm tổ chức và quản lý hoạt động xuất bản có
hiệu quả, Đảng và Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản có tính chất định
hướng, chỉ đạo cụ thể, sát sao như: Chỉ thị số 22/CT-TW ngày 17/10/1997 của Bộ
Chính trị về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí,
xuất bản, Chỉ thị số 20/CT-TW ngày 27/1/2003 của Ban Bí thư về nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác xuất bản, phát hành sách lý luận, chính trị trong tình

hình mới. Đặc biệt, Chỉ thị số 42/CT-TW ngày 25/8/2004 của Ban Bí thư về nâng
cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản đánh dấu mốc quan trọng về định
hướng phát triển toàn diện hoạt động xuất bản của Đảng ta trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay. Chỉ thị đã định hướng, mở đường cho việc hình thành mô
hình các tổ hợp kinh tế khép kín, các tập đoàn xuất bản có khả năng chi phối thị
trường XBP trong nước và vươn ra thị trường quốc tế; phát triển hoạt động xuất
bản thành một ngành kinh tế công nghiệp hiện đại dưới sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước. Sự ra đời các chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng
những năm gần đây đã phần nào nói lên tính chất phức tạp và nhạy cảm của hoạt
động xuất bản và hàng hóa sách đối với xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường.
Các chỉ thị được ban hành nhằm mục đích làm rõ và khẳng định tính chất đặc thù
của hoạt động xuất bản, từ đó đưa ra những định hướng phát triển cụ thể coi trọng
việc phục vụ nhiệm vụ chính trị, tư tưởng đáp ứng nhu cầu đọc của nhân dân, đồng
thời phải thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh và những nhiệm vụ cụ thể. Mặt khác,
Nhà nước phải xây dựng chính sách và cơ chế phù hợp để xuất bản hoạt động có
hiệu quả trong cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Các giải pháp chủ
yếu tập trung đề cập đến vấn đề đổi mới và nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng; tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản. Đẩy mạnh
xã hội hóa, huy động các nguồn lực để phát triển sự nghiệp xuất bản, in, phát hành,
tạo lập và củng cố các quan hệ trên thị trường sách trong và ngoài nước; Các văn
bản dưới Luật qui định về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu XBP (Nghị định số
32/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về quản lý xuất khẩu,
nhập khẩu văn hóa phẩm không nhằm mục đích kinh doanh; Thông tư số
07/2012/TT-BVHTTDL ngày 16 tháng 7 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch hướng dẫn Nghị định số 32/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm
2012 của Chính phủ về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm không nhằm
mục đích kinh doanh)
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh việc
“Phát triển đồng bộ các loại thị trường và tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị


13


trường định hướng xã hội chủ nghĩa”5. Trong đó, đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về kinh tế thị trường, tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các
loại thị trường, tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước, tạo
môi trường kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, không can thiệp trực tiếp
vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ
theo hướng đẩy mạnh tự do hóa thương mại và đầu tư phù hợp với các cam kết
song phương, đa phương của nước ta và theo thông lệ quốc tế. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa X ngày 1/8/2007 đã nhấn mạnh công tác
tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới. Gần đây, ngày 30 tháng 1 năm 2008
Ban chấp hành Trung ương đã ra Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 về tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo đồng
bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Đồng thời hệ thống đồng bộ các văn bản Luật đã được Quốc hội thông qua
và có hiệu lực thi hành như: Luật Xuất bản (2004), Luật Sở hữu trí tuệ (2005), Luật
thuế Giá trị gia tăng (số 13/2008/QH12), Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp (số
14/2008/QH12), ngoài ra hệ thống pháp luật kinh tế như Luật Cạnh tranh (2005),
Luật Doanh nghiệp, Luật Kinh tế, Luật Thương mại, Luật Đầu tư trong nước cũng
được điều chỉnh bổ sung và ban hành đảm bảo môi truờng hành lang pháp lý cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và các quan hệ kinh tế với bên ngoài
thời hội nhập quốc tế …
Gần đây Quốc hội họp sửa đổi bổ sung Luật Xuất bản 2004 bằng Luật số
12/2008/QH12 ngày 3/6/ 2008, Nghị định số 11/2009/NĐ-CP ngày 10/2/2009, các
văn bản pháp lý này đã đề cập đến nhiều vấn đề thực tiễn và giải quyết khá phù hợp
với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và xã hội như: xử lý vi phạm trên thị trường
XBP nói chung, đăng ký và cấp giấy phép nhập khẩu, cấp giấy phép hoạt động của
văn phòng đại diện tổ chức nước ngoài trong lĩnh vực phát hành XBP...
Tháng 1 năm 2010, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành đồng thời 3

quyết định: Quyết định số 281-QĐ/TW ban hành Qui định về việc chỉ đạo, định
hướng chính trị, tư tưởng đối với các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm trong
nội dung xuất bản phẩm; Quyết định số 282-QĐ/TW ban hành Qui định trách nhiệm,
quyền hạn và việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ lãnh đạo nhà
xuất bản; Quyết định số 283-QĐ/TW ban hành Qui định về sự phối hợp giữa Ban
Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thong với các cơ
quan đảng, cấp uỷ, tổ chức đảng các cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể trong công
tác chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản. Các vấn đề về định hưởng chính trị, tư tưởng
nội dung XBP, đối với cán bộ xuất bản, đối với nhà xuất bản, các đơn vị trong hoạt
5

Đảng cộng sản Việt Nam(2006) – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội, tr 240

14


động xuất bản; trách nhiệm, quyền hạn và các hình thức khen thưởng, xử phạt, xử lý
vi phạm; sự phối kết hợp giữa các cơ quan chỉ đạo của Đảng với các tổ chức Đảng
trong các cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể …đã được đưa ra và giải quyết kịp thời
nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với công tấc
xuất bản trong tình hình mới, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh
đạo, quản lý hoạt động xuất bản.
Vận hành theo cơ chế thị trường, hoạt động xuất bản chịu sự tác động, chi
phối mạnh mẽ của các qui luật kinh tế, Nhà nước đã có chính sách, chế độ phù hợp
nhằm hỗ trợ, kích thích thị trường phát triển, đạt mục tiêu kinh tế và hiệu quả xã
hội như:
+ Chính sách vốn: Chuyển sang cơ chế thị trường, khó khăn lớn nhất đối với
nền kinh tế Việt Nam nói chung và đối với các lực lượng cung sách nói riêng đó là
thiếu vốn hoạt động. Khó khăn về tài chính đã làm cho nhiều thị trường sách ở địa
phương bị bỏ trống, nhiều đơn vị của Nhà nước chạy theo mục tiêu lợi nhuận, Nhà

nước chưa quản lý được thị trường. Trước thực trạng đó, Đảng, Nhà nước ta đã kịp
thời có cơ chế tạo nguồn vốn thích hợp cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này
hoạt động: Cấp 30% vốn kinh doanh, tạo mặt bằng sản xuất kinh doanh…
Trong những năm gần đây, tiếp tục tinh thần của Nghị định số 388/HĐBT
ngày 20/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về thành lập và giải thể doanh nghiệp
Nhà nước, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản về đổi mới doanh nghiệp
Nhà nước nhằm tìm hướng đi phù hợp cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; giải quyết tình trạng thiếu vốn, khó khăn về
tài chính và máy móc, về cơ chế quản lý; giúp các doanh nghiệp Nhà nước tự chủ,
sáng tạo và nhạy bén vận hành theo cơ chế thị trường. Các văn bản pháp qui mới
qui định việc cho phép chuyển đổi mô hình và sở hữu doanh nghiệp của doanh
nghiệp Nhà nước đã tạo ra hành lang pháp lý mở, môi trường đầu tư hấp dẫn. Nhà
nước tạo điều kiện thu hút các nguồn lực về tài chính, con người và các nguồn lực
có liên quan khác trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tại Hội nghị
lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Đảng đã ra Nghị quyết số 05NQ/TW ngày 24/9/2001 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp Nhà nước. Đồng thời, Chính phủ cũng kịp thời ban hành những
qui định mới về quản lý vốn của Nhà nước trong các loại hình doanh nghiệp khác
cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Nghị định số 73/2000/NĐ-CP ngày 6/12/2000
của Chính phủ ban hành Qui chế quản lý phần vốn nhà nước ở các doanh nghiệp
khác. Nhà nước còn ban hành thêm một số các Nghị đinh, Thông tư qui định việc
15


chuyển và hướng dẫn xử lý tài chính khi doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành công ty TNHH một thành viên.
Lộ trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực in, phát hành hiện
nay đang diễn ra theo chiều hướng tích cực. Đảng và Nhà nước ta đã xác định được
hướng đi đúng đắn cho các doanh nghiệp nói chung. Một trong những thành tựu
lớn đạt được khi các doanh nghiệp Nhà nước chuyển đổi sang hình thức đa dạng sở

hữu là khả năng thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và nâng cao tính
tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Cơ chế tạo nguồn vốn hoạt động trong các doanh
nghiệp linh hoạt, năng động hơn, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cũng được
nâng lên rõ rệt. Nhà nước còn ban hành hàng loạt các văn bản xử lý nợ đối với các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh có khó khăn. Các chính sách này đã tác
động mạnh đến thị trường XBP, làm cho thị trường XBP sôi động hơn với nhiều
lực lượng tham gia, phạm vi, qui mô thị trường được mở rộng, sức cạnh tranh tăng
lên rõ rệt
+ Chính sách đầu tư, tài trợ: Con người là trung tâm của mọi hoạt động xã hội,
nhận thức rõ vấn đề đó, Nhà nước đã quan tâm đến việc đầu tư kinh phí đào tạo,
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ cán bộ của hoạt động xuất bản. Từ
những năm 90 cho đến nay, hàng loạt các lớp bồi dưỡng ngắn hạn hoặc dài hạn về
xuất bản, in, phát hành được tổ chức ở hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước.
Nhiều hình thức đào tạo khác nhau cũng được mở ra ở các trường Đại học Văn hóa
Hà Nội , Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học Quốc gia Hà Nội, trường in và
một số trường có liên quan.
Bên cạnh nhân tố con người, nguồn lực về tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật
cũng được Nhà nước quan tâm sâu sát. Nhà nước đã hỗ trợ kinh phí để xây dựng
mới hoặc nâng cấp, sửa chữa hàng loạt các nhà xuất bản, tòa soạn báo, cơ sở in và
phát hành sách, tạo điều kiện cho hoạt động xuất bản ổn định và phát triển trong cơ
chế mới. Nhà nước đã có chính sách tài trợ đối với mặt hàng sách thiếu nhi, đặt
hàng với các nhà xuất bản và cùng với các lực lượng phát hành chuyển sách đến
vùng sâu, vùng xa, miền núi hải đảo (Quyết định số 21/TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 16/1/1993 về chính sách đối với việc phát hành sách, báo, phim ảnh cho
thiếu nhi, Thông tư số 11/TTLB của Bộ Văn hoá - Thông tin và Tài chính ngày 20
tháng 2 năm 1993 hướng dẫn thực hiện chính sách tài trợ đối với xuất bản, báo
chí). Nhà nước có chính sách tài trợ cước phí vận chuyển sách lên miền núi, ra thị
trường nước ngoài (Văn bản số 3764/KTTH ngày 8 tháng 8 năm 1996 của Thủ
tướng Chính phủ quy định chính sách trợ cước vận chuyển xuất bản phẩm lên Miền
núi; Văn bản số 5458/KTTH ngày 29/10/1996 của Văn phòng Chính phủ về

16


phương thức cấp trợ cước vận chuyển cho xuất bản phẩm, Thông tư số 753/UBTT ngày 03 tháng 12 năm 1996 của Ủy Ban Dân tộc và miền núi hướng dẫn thực
hiện văn bản số 3764/KTTH ngày 8 tháng 8 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ
quy định chính sách trợ cước vận chuyển xuất bản phẩm lên miền núi; Công văn số
6516/KTTH ngày 19/12/1997 về trợ giá cước phí vận chuyển sách báo ra nước
ngoài phục vụ tuyên truyền đối ngoại…)
Ngoài ra, Luật Xuất bản và các văn bản hướng thi hành Luật qui định các điều
khoản về chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển sự nghiệp xuất bản, chính sách đặt
hàng, mua bản thảo, hỗ trợ mua bản quyền, trợ cước vận chuyển XBP, từng bước thiết
lập các điều kiện về pháp lý và cơ sở hạ tầng, tạo tiền đề thiết lập và mở rộng các quan hệ
của hoạt động xuất bản hiện nay. Đó là tiền đề vững chắc giúp các lực lượng cung sách
có khả năng đầu tư, phát triển mở rộng thị trường, đặc biệt là các thị trường XBP ở nông
thôn, miền núi.
+ Chính sách thuế: Hiện nay Nhà nước có một số chính sách ưu đãi thuế đối
với các lực lượng tham gia hoạt động xuất bản. Để nâng cao mặt bằng dân trí trong
nước và tạo điều kiện để bạn đọc có thể giao lưu học hỏi kinh nghiệm, tri thức tinh
hoa của thế giới ngày 28/5/1994 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 280/TTg về
việc ban hành biểu thuế xuất nhập khẩu. Quyết định số 203/2000/QĐ- BTC ngày
21/12/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành biểu mức thu lệ phí giám định
nội dung và cấp giấy phép xuất nhập khẩu văn hóa phẩm. Nhà nước không đánh
thuế xuất khẩu XBP hợp pháp ra nước ngoài. Tuy nhiên, thuế suất thuế nhập khẩu
đối với XBP hiện nay từ 5% - 60% (tùy từng loại XBP).
Trước năm 1999, khi Nhà nước còn qui định thực hiện thuế doanh thu và lợi
tức, Nhà nước chỉ thu Thuế doanh thu với thuế suất 1% cho tất cả các mặt hàng
XBP (trừ sách chính trị xã hội, giáo khoa, giáo trình, khoa học kỹ thuật, thiếu nhi
và sách phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số là mặt hàng không chịu thuế) trong khi
các ngành khác từ 2-10%; Thuế lợi tức thu với thuế suất là 45%, ngành khác là
50%.

Khi thực hiện thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp (từ tháng
1/1999), Nhà nước thu thuế giá trị gia tăng với mức thuế suất là 5% (sách), 10%
(văn hóa phẩm), 0% (XBP xuất khẩu), thuế thu nhập doanh nghiệp là 32% và đến
tháng 1 năm 2004 hạ xuống mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 28%, nay
theo Nghị định số 122/2011/NĐ-CP thuế thu nhập doanh nghiệp còn 10%. Các mặt
hàng thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động xuất bản
bao gồm: sách giáo trình, giáo khoa, sách in bằng tiếng dân tộc thiểu số, sách văn
17


bản pháp luật, sách chính trị.
Tuy nhiên, việc thực hiện thuế giá trị gia tăng hiện nay nảy sinh sự mâu thuẫn
giữa hai phương pháp tính thuế của các tổ chức, doanh nghiệp với các hộ kinh doanh
cá thể. Thực tế trên dẫn đến một số tiêu cực trong cạnh tranh, tình trạng hạ giá, phá
giá sách trên thị trường khá phổ biến hiện nay. Thuế nhập khẩu sách hiện nay quá
cao, có mặt hàng thuế suất lên tới 60%. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến mức
hưởng thụ XBP của người dân trong nước.
Bên cạnh các công cụ quản lý hữu hiệu, nhằm quản lý tốt hoạt động xuất bản
trên cả nước, Nhà nước còn sử dụng đồng bộ các biện pháp quản lý.
* Tuyên truyền giáo dục trong quản lý
Tuyên truyền giáo dục trong quản lý là cách thức tác động của Nhà nước vào
nhận thức và tình cảm của những người thuộc đối tượng quản lý nhằm nâng cao
tính tự giác, tích cực và nhiệt tình của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được
giao. Đặc trưng của biện pháp này là sử dụng hình thức tuyên truyền, giáo dục làm
cho các cá nhân, tổ chức nâng cao trình độ hiểu biết, phân biệt đúng - sai, lợi - hại,
tốt - xấu, thiện – ác, từ đó nâng cao tính tự giác và sự gắn bó với công việc của họ.
Biện pháp này thể hiện thông qua các hình thức:
- Sử dụng phương tiện thông tin đại chúng: Sách, báo, tạp chí, các chương
trình của đài phát thanh, chương trình truyền hình, các trang Website, thư điện tử,
gần đây là chương trình “Mỗi ngày một cuốn sách”, “Tủ sách pháp luật” của Đài

truyền hình Việt Nam. Đây là chương trình tuyên truyền, giáo dục có ý nghĩa thiết
thực đối với toàn xã hội. Nó không chỉ giới thiệu, thông tin sách mới, sách hay cho
công chúng, quan trọng hơn là quảng bá những nhà làm sách, nâng cao uy tín,
thương hiệu và thúc đẩy hoạt động xuất bản phát triển. Mặt khác, nó giúp cho Nhà
nước có thể định hướng thị trường, các chiến lược kinh doanh của tổ chức, doanh
nghiệp.
- Sử dụng các Hội nghị tổng kết, Hội chợ, triển lãm sách, hội thi
+ Hàng năm Bộ Văn hóa thông tin định kỳ tổ chức hội nghị tổng kết hoạt
động xuất bản, in, phát hành sách. Hội nghị tổng kết và đánh giá những bài học
kinh nghiệm, giới thiệu các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XBP điển
hình ...
+ Hiện nay, Nhà nước và một số doanh nghiệp lớn trên thị trường tổ chức
thường niên các hội chợ, triển lãm sách trong nước, tạo điều kiện để các cá nhân, tổ
chức doanh nghiệp có cơ hội mở rộng quan hệ, ký kết các hợp đồng kinh doanh,
18


liên kết, trao đổi sách... Thông qua các hội chợ, triển lãm sách, Nhà nước có thể đạt
được những mục tiêu xã hội to lớn bên cạnh mục tiêu kinh tế. Đây cũng là dịp Nhà
nước tạo điều kiện để các tổ chức, doanh nghiệp XBP trong nước giao lưu, trao đổi
kinh nghiệm, mở rộng các quan hệ thị trường với các đối tác ngoài nước. Công
chúng bạn đọc trong nước cũng có điều kiện để tiếp cận những tri thức, những giá trị
văn hóa tinh hoa của thế giới. Đồng thời, các doanh nghiệp sẽ hiểu được tâm tư,
nguyện vọng của khách hàng để có biện pháp đáp ứng nhu cầu XBP của xã hội.
Khách hàng cũng có dịp chia sẻ những khó khăn của doanh nghiệp, nâng cao văn
hóa tiêu dùng XBP.
+ Các hội thi tay nghề (Hội thi người bán sách giỏi toàn quốc). Hiện nay do sự
tác động của kinh tế thị trường, công tác này không được tổ chức thường xuyên
như trước đây. Qua các hội thi này, Nhà nước thực hiện mục tiêu tuyên truyền,
nâng cao ý thức, trách nhiệm, cũng như giáo dục truyền thống ngành cho các chủ

thể kinh tế tham gia hoạt động xuất bản.
Thông qua các biện pháp quản lý này, thị trường XBP trong nước ngày càng
được mở rộng và phát triển. Nhiều nhà cung cấp sách đã thiết lập mạng lưới tiêu
thụ trên địa bàn rộng lớn và tiêu thụ một khối lượng lớn sách trên thị trường. Tiêu
biểu như công ty cổ phần phát hành sách FAHASA tại thành phố Hồ Chí Minh với
trên 50 nhà sách, doanh nghiệp sách Thành Nghĩa, phát triển hệ thống bán lẻ rộng
khắp ba miền Bắc – Trung – Nam, công ty cổ phần văn hóa Phương Nam với một
hệ thống 30 nhà sách lớn phân bổ ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ...
Đây cũng là những đơn vị tiêu biểu tham gia các chương trình sách tài trợ của
Chính phủ, thực hiện các xe sách lưu động đến với bà con nông dân và các đối
tượng là sinh viên, học sinh.
* Biện pháp đòn bẩy kinh tế
Đây là biện pháp tác động gián tiếp dựa trên những lợi ích có tính hướng dẫn
lên đối tượng quản lý, nhằm làm cho họ quan tâm tới kết quả cuối cùng của hoạt
động. Trên cơ sở đó, các tổ chức, doanh nghiệp tự giác hoàn thành tốt nhiệm vụ,
hạn chế bớt sự tác động của Nhà nước bằng các mệnh lệnh hành chính.
Nhà nước thông qua cơ chế, chính sách, công cụ và biện pháp kinh tế mà tác
động đến lợi ích của chính Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cũng như
toàn xã hội. Sự tác động nhằm giải quyết hài hòa các lợi ích, tạo điều kiện thúc đẩy
kinh tế, xã hội phát triển. Ví dụ chính sách giá cả phải đảm bảo lợi ích của cả doanh
nghiệp và người mua sử dụng sách; chính sách thuế không chỉ đảm bảo lợi ích của
Nhà nước mà còn phải đảm bảo lợi ích của người sản xuất kinh doanh, phải nuôi
19


dưỡng được nguồn thu (nhà xuất bản, nhà in, các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh
XBP).
Biện pháp kinh tế giúp các tổ chức, doanh nghiệp tự lựa chọn nội dung và
phương thức hoạt động thông qua sự quan tâm của họ đến lợi ích vật chất và vì lợi
ích thiết thực mà họ hoạt động có hiệu quả. Hiện nay, Nhà nước sử dụng biện pháp

đòn bẩy kinh tế trong quản lý hoạt động xuất bản qua hai tác động cơ bản sau:
Thứ nhất, tác động bằng cách tạo ra sự quan tâm về lợi ích thông qua các kế
hoạch, chiến lược và các chính sách phát triển kinh tế của chủ thể quản lý. Ví dụ để
đạt mục tiêu xã hội nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của xã hội, Nhà
nước có kế hoạch đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng, phát triển mạng lưới ở nông thôn
miền núi, chính sách trợ giá, đặt hàng và tổ chức kênh tiêu thụ, chính sách thuế ưu
đãi mặt hàng… Để đạt mục tiêu cạnh tranh có hiệu quả, Nhà nước tạo ra hành lang
pháp lý, môi trường đầu tư hấp dẫn, đa dạng hóa mô hình tổ chức doanh nghiệp, đa
dạng hình thức sở hữu trong một doanh nghiệp… Nhà nước tạo ra cơ chế thu hút
vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế bằng cách tạo điều kiện và thúc đẩy nhanh tiến độ cổ
phần hóa các doanh nghiệp phát hành XBP hiện nay...
Thứ hai, tác động bằng tiêu chuẩn hóa các định mức kỹ thuật như định mức
khoán, định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức thuế, định mức doanh thu và lợi
nhuận… Các định mức này trực tiếp tác động đến lợi ích “sát sườn” của đối tượng
quản lý, tạo ra động lực thúc đẩy hoạt động có hiệu quả. Ví dụ, với một mức thuế suất
và lãi suất vay ưu đãi (các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động ở vùng sâu, vùng xa được
miễn hoặc giảm thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp trong những năm
đầu hoạt động, hỗ trợ mặt bằng kinh doanh), Nhà nước đưa đến nhiều quyết định đầu
tư vào thị trường XBP nông thôn, miền núi. Đồng thời, bằng chế độ thưởng phạt, trách
nhiệm và quyền lợi về vật chất, Nhà nước điều chỉnh toàn bộ hoạt động trong hệ
thống, xác định chế độ trách nhiệm cho các tổ chức, doanh nghiệp trong hệ thống đó.
Mục đích, kết quả của biện pháp kinh tế là tạo ra động lực thúc đẩy năng suất,
chất lượng và hiệu quả trong các hoạt động sản xuất kinh doanh XBP, đảm bảo sự
quản lý thống nhất của Nhà nước và phát huy quyền chủ động sáng tạo của mọi
thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất bản.
3. Một số tồn tại, hạn chế của cơ chế quản lý hoạt động xuất bản ở nước ta hiện
nay
Thành tựu lớn nhất mà công tác quản lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất bản là đã
từng bước tạo lập cơ chế thị trường, giữ vững định hướng chính trị về xuất bản của Đảng. Công tác
quản lý Nhà nước đã từng bước góp phần tạo ra một thị trường XBP với đúng nghĩa của nó. Quản

20


lý hoạt động xuất bản luôn gắn liền với định hướng giáo dục, văn hóa tư tưởng và mục tiêu kinh
tế, đáp ứng nhu cầu đọc của xã hội. Có thể nói, đây là sự thành công của Đảng, Nhà nước ta trong
cả tư duy lý luận và thực tiễn lãnh đạo, quản lý trong tình hình mới.
Bên cạnh đó, cơ chế quản lý hoạt động xuất bản còn bộc lộ một số hạn chế sau:
Thứ nhất, hệ thống các văn bản pháp qui chưa đồng bộ và kịp thời. Các văn
bản pháp lý vốn là kim chỉ nam dẫn đường mở lối cho các hoạt động thực tiễn,
chúng giữ vai trò quyết định đến mục tiêu, hiệu quả của các hoạt động thực tiễn.
Tuy nhiên thực tế cho thấy, Luật Xuất bản năm 1993 mới được ban hành, năm
1996 Chính phủ mới có quyết định cho thành lập Ban Thanh tra văn hóa và hầu hết
các Sở Văn hóa thông tin tỉnh, thành phố đến năm 2000 mới có bộ phận Thanh tra
xuất bản. Hoạt động liên doanh liên kết xuất bản trên thực tế phát triển rất mạnh bắt
đầu từ năm 1986 trở đi, nhưng một qui chế liên doanh, liên kết xuất bản chi tiết cụ
thể mãi tới tận tháng 11 năm 1999 Bộ Văn hóa thông tin mới ban hành, thực tiễn
nảy sinh nhiều bất cập, một số qui định của Qui chế không còn phù hợp với sự phát
triển của thực tiễn liên kết xuất bản sách, do vậy ngày 17 tháng 6 năm 2008 Bộ
Thông tin và Truyền thông mới hành Quyết định số 38/2008/QĐ-BTTTT thay thế
qui chế cũ… Nhiều vấn đề mang tính cấp bách trong thực tiễn đang đặt ra như giấy
phép hoạt động của các nhà xuất bản, cơ sở in, phát hành, giấy phép hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu xuất bản phẩm; qui định nhập khẩu xuất bản phẩm để kinh
doanh; Hợp tác với nước ngoài về phát hành xuất bản phẩm; Về việc đặt văn phòng
đại diện của nhà xuất bản nước ngoài và văn phòng đại diện của tổ chức nước
ngoài tại Việt Nam trong lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm; Về xuất bản trên mạng
thông tin máy tính (Internet);
Hiện nay không chỉ nội dung, chất lượng sách đa dạng, phức tạp mà ngay cả
nguồn gốc của chúng cũng phức tạp. Việc phân biệt đâu là hàng tốt / xấu, trong
luồng/ngoài luồng, đúng định hướng/sai định hướng rất khó khăn cho người quản
lý. Thế nhưng, ngay cả trong Luật và các văn bản dưới Luật mới nhất không có

điều khoản nào đề cập cụ thể, tạo ra nhiều khe hở cho các lực lượng xấu trong và
ngoài nước tranh thủ hoạt động, gây hậu quả xấu cho xã hội.
Thứ hai, trong cơ chế quản lý, Nhà nước chưa có sự phân định rạch ròi giữa
mảng XBP phục vụ nhiệm vụ chính trị và mảng XBP phục vụ nhiệm vụ kinh
doanh. Điều đó dẫn đến việc Nhà nước còn lúng túng trong việc xác định mô hình
hoạt động đối với các nhà xuất bản hiện nay và chưa xây dựng được các chiến lược
tổng thể phát triển sự nghiệp xuất bản. Mặc dù, hiện nay Việt Nam đã gia nhập tổ
chức thương mại WTO nhưng tình trạng xuất bản trong nước vẫn manh mún, nhỏ
lẻ, thiếu sức cạnh tranh. Một vài mô hình mới ra đời dạng tổ hợp xuất bản, công ty
21


mẹ - công ty con hoạt động còn yếu, thiếu năng lực, thiếu cơ sở pháp lý, cơ chế
hoạt động. Ngay cả Tổng công ty sách Việt Nam là đơn vị được Nhà nước quan
tâm đầu tư số vốn vài chục tỷ đồng với kỳ vọng là một Tổng công ty Sách mạnh
nhất của cả nước thành lập năm 2004 đến nay đã không còn phát huy hiệu quả.
Ngày 22/5/2007 Bộ Văn hóa thông tin đã ban hành Quyết định số 1544/QĐBVHTT về việc chuyển các đơn vị thành viên của Tổng Công ty sách Việt Nam về
trực thuộc Bộ Văn hóa thông tin. Các doanh nghiệp còn lại hoạt động chưa đúng
với tầm cỡ vốn có của nó.
Quá trình và tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp phát hành nhà nước diễn ra
phức tạp, cứng nhắc, chưa tính được những phát sinh trong thực tiễn. Hiện thực cổ
phần hóa còn có nhiều vướng mắc chưa được giải quyết triệt để: Mức độ cổ phần
của Nhà nước (đặc biệt khi doanh nghiệp bán cổ phiếu ở lần tiếp theo), quyền quyết
định kinh doanh của các cổ đông trong doanh nghiệp; hiệu quả kinh tế và xã hội
của doanh nghiệp... là những vấn đề cần được giải quyết cấp bách.
Thứ ba, các chính sách chưa đầy đủ và hợp lý. Mặc dù, trong hầu hết các văn
bản pháp qui của Đảng và Nhà nước ban hành, đều khẳng định xuất bản là hoạt
động đặc thù. Song tính đặc thù đó trên thực tế chưa được đưa vào thực hiện trong
các chính sách dành cho sự nghiệp xuất bản. Chính sách cấp 30% vốn lưu động cho
các đơn vị nhà nước hoạt động nhưng thực tế số đơn vị được cấp đủ số vốn theo

qui định con số không tới 30% tổng số đơn vị trên cả nước. Chính sách thuế cho
ngành chỉ loại trừ một số mặt hàng XBP thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia
tăng, số mặt hàng còn lại chịu thuế suất thuế giá trị gia tăng 5% và 10% như các
loại hàng hóa khác. Theo báo cáo thống kê của ngành, số thuế này cao gấp từ 2,74,5 lần thuế doanh thu trước đây. Chính sách trợ giá, trợ cước phí vận chuyển đối
với một số mặt hàng sách cho một số vùng miền theo qui định của Chính phủ do
không kiểm tra, giám sát chặt chẽ dẫn đến tình trạng sách không đến được địa chỉ
cần thiết, hoặc nằm chết trong kho lưu trữ, gây lãng phí và thiệt hại nặng nề về hiệu
quả kinh tế - xã hội.
Thứ tư, công tác thanh tra, kiểm tra chưa xử lý triệt để. Công tác này thực
hiện chưa chủ động, cán bộ quản lý chưa thực hiện đúng chức năng, khung hình
phạt và mức phạt chưa thỏa đáng. Nghị định mới nhất của Chính Phủ số
02/2011/NĐ-CP ngày 06/01/2011 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động báo chí, xuất bản mức xử phạt cao nhất đối những vi phạm trong lĩnh vực
hoạt động xuất bản là 40 triệu đồng và tịch thu tang vật vi phạm. Điều này rõ ràng
không những không răn đe, ngăn chặn vi phạm mà còn có chiều hướng làm cho vi
phạm gia tăng thêm.
22


Thứ năm, đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu và yếu. Hiện nay đội ngũ cán bộ
quản lý nhà nước về xuất bản còn thiếu về số lượng, trình độ chuyên môn chưa
được nâng cao và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Cụ thể, công tác lưu chiểu và
đọc lưu chiểu XBP là công việc đòi hỏi trách nhiệm nghề nghiệp cao, chuyên môn
thẩm định vừa là vai trò của người biên tập, vừa là vai trò của người quản lý nhưng
bộ phận này ở Cục Xuất bản lâu nay chỉ có 2- 3 cán bộ. Ở các Sở văn hóa thông tin
cán bộ làm công tác này cũng chỉ với vai trò là người nhận lưu chiểu XBP.
Thứ sáu, phương tiện kỹ thuật và công nghệ quản lý chưa được đầu tư thích
đáng. Mặc dù là một chuyên ngành hẹp trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng, nhưng
chức năng hoạt động và khả năng phục vụ lại liên quan đến nhiều ngành và lĩnh
vực khác nhau. Do vậy, quản lý trong lĩnh vực này đòi hỏi cần thiết phải vận dụng

công nghệ thông tin và phương tiện kỹ thuật. Thực tế hiện nay, mỗi năm các nhà
xuất bản trong nước cho ra đời khoảng trên 25000 đầu sách và gần 300 triệu bản
sách một năm. Con số này quả là không nhỏ cho nên việc quản lý gặp rất nhiều khó
khăn. Hiện nay, cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật cũng như việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong quản lý đang là trở ngại lớn vì kinh phí hạn hẹp và trình
độ về tin học của đội ngũ cán bộ quản lý các cấp còn hạn chế.
III. HƯỚNG ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN Ở
NƯỚC TA VÀ KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI BỔ SUNG LUẬT XUẤT BẢN
1. Hướng đổi mới cơ chế quản lý hoạt động xuất bản ở nước ta
Nhằm đổi mới cơ chế quản lý hoạt động xuất bản ở nước ta, nâng cao hiệu quả
của cơ chế quản lý hoạt động xuất bản, cần hướng vào một số vấn đề cơ bản sau:
Cần nhận thức đúng, toàn diện và khách quan về tính đặc thù của hoạt động
xuất bản Việt Nam để thiết lập cơ chế quản lý phù hợp vừa đảm bảo hoạt động xuất
bản vận hành theo các qui luật kinh tế khách quan, vừa đảm bảo vận hành theo định
hướng của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở đó, Nhà nước cần xây dựng chính sách
phù hợp và đồng bộ để tiếp tục cụ thể hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của
Đảng và Nhà nước, hệ thống các văn bản pháp luật về xuất bản cần được xây dựng
hoàn thiện trên cơ sở thực tiễn hoạt động và xu hướng phát triển của xuất bản trong
nước trong sự vận động khách quan của ngành công nghiệp xuất bản thế giới. Do
vậy hệ thống pháp luật về xuất bản trong nước vừa đảm bảo tính đặc thù song phải
phù hợp với pháp luật quốc tế; tạo cơ sở pháp lý và môi trường hoạt động ổn định
cho sự nghiệp xuất bản phát triển đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, giữ
vững an ninh - quốc phòng, xây dựng đạo đức, lối sống và nâng cao đời sống tinh
thần của nhân dân.
23


Hoàn thiện cơ chế trong hoạt động xuất bản với việc sử dụng linh hoạt các
phương thức và biện pháp, các công cụ quản lý nhằm huy động tốt nhất các tiềm
lực vốn có của xã hội để phát triển sự nghiệp xuất bản, phát huy tính tự chủ và sáng

tạo trong việc tạo ra những xuất bản phẩm có giá trị cao và đưa chúng ra thị trường
kịp thời đáp ứng nhu cầu xã hội, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, mở rộng các quan hệ
thị trường ra ngoài nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức, doanh
nghiệp trong nước trong quá trình hội nhập quốc tế.
Nhà nước cần phân định rõ mảng XBP kinh doanh và không kinh doanh. Đối
với mảng XBP kinh doanh, nhà nước để bàn tay vô hình của cơ chế thị trường tự
điều tiết; sử dụng qui luật cung cầu, giá trị và cạnh tranh để kích thích sản xuất kinh
doanh phát triển. Đối với mảng XBP thuộc diện không kinh doanh, Nhà nước cần
đầu tư tài trợ kinh phí và có chế tài quản lý chặt chẽ. Đối với mảng này, việc xây
dựng, triển khai thực hiện kế hoạch cần được tính toán, kiểm tra, giám sát kỹ lưỡng
và cần sử dụng mã số mã vạch để thuận lợi trong quản lý.
Đồng thời, trong điều kiện hội nhập quốc tế như hiện nay, Luật Sửa đổi, bổ
sung cần chú trọng làm rõ sự phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương;
trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản, cơ quan chủ quản của nhà
xuất bản, tạo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các nhà xuất bản; làm rõ trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xuất bản để nâng cao kỷ cương
và hiệu lực quản lý hoạt động xuất bản.
Ngoài ra, con người vốn là nhân tố then chốt, cốt lõi quyết định sự thành
bại của mọi hoạt động. Con người tạo ra cơ chế, dùng cơ chế để ràng buộc và
điều chỉnh các hành vi và hoạt động của mình. Xác định hoạt động xuất bản, in,
phát hành là hoạt động kinh doanh đặc thù vừa thực hiện chức năng tư tưởng
chính trị vừa thực hiện chức năng kinh doanh, Nhà nước cần qui định thống nhất
đồng bộ bằng văn bản các chức danh của cán bộ xuất bản, in, phát hành theo tiêu
chuẩn, ngạch bậc Nhà nước qui định. Đặc biệt nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực quản lý và bản lĩnh chính trị cho đội ngũ quản lý lãnh đạo
trong lĩnh vực xuất bản, in, phát hành.
2. Một số kiến nghị sửa đổi và bổ sung Luật Xuất bản
2. 1. Vấn đề xuất bản và phát hành điện tử
Xuất bản phẩm điện tử được đánh giá là xu thế tất yếu, là tương lai của
ngành xuất bản. Theo thống kê, trong năm 2011 nước ta đã có hơn 3 triệu bản sách

điện tử được bán ra . Độc giả ngày nay cũng đã được trang bị nhiều công cụ tiện
24


ích, hiện đại để đáp ứng việc đọc sách điện tử. Nhiều doanh nghiệp điện tử cũng
không ngừng đầu tư, hợp tác với các đơn vị làm sách để phát triển sản phẩm sách
điện tử. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm bản quyền về xuất bản phẩm điện tử ngày càng
trên diện rộng. Xuất bản điện tử là một hình thái mới của hoạt động xuất bản. Luật chưa thể
hiện được bản chất và nội hàm của chúng. Các mục, điều khoản của dự thảo 4 Luật Xuất bản,
In, Phát hành cũng như dự thảo Luật Xuất bản (sửa đổi) ngày 17/8/2012 qui định về XBP điện
tử, xuất bản, phát hành XBP điện tử vẫn chỉ dừng lại ở mức độ chung chung và qui định cho
loại hình XBP truyền thống. Do đó, Luật Xuất bản lần này hoặc các văn bản dưới Luật cần
phải được bổ sung những điều khoản cụ thể để nhận diện sản phẩm và loại hình hoạt động mới
để có thể tổ chức và quản lý hiệu quả hoạt động phù hợp với xu thế phát triển chung của thế
giới. Cụ thể:
- Về XBP điện tử cần làm rõ về mặt khái niệm, hình thức thể hiện hoặc định dạng XBP
điện tử, các phương tiện chuyển tải XBP điện tử .
- Về Xuất bản điện tử cũng cần làm rõ về khái niệm, qui trình, yêu cầu của xuất bản
điện tử (nhằm phân biệt với xuất bản truyền thống), các hình thức xuất bản điện tử.
- Về Phát hành XBP điện tử cũng cần làm rõ về khái niệm, qui trình, nguyên tắc phát
hành XBP điện tử, các hình thức phát hành XBP điện tử v.v... nhằm hạn chế bớt vấn nạn vi
phạm bản quyền trên thị trường XBP hiện nay ... Cụ thể, quy trình để xuất bản xuất

bản phẩm điện tử cơ bản giống với xuất bản sách in, chỉ khác về hình thức thể hiện
của sách. Do đó, dự thảo Luật cần quy định về việc xuất bản, phát hành xuất bản
phẩm điện tử một cách chi tiết và đầy đủ hơn.
- Xuất bản sách điện tử nhất thiết phải được thông qua các nhà xuất bản và
các nhà xuất bản đồng thời làm công tác xuất bản sách in truyền thống và sách điện
tử. Các tổ chức, doanh nghiệp làm công tác phát hành, kinh doanh xuất bản phẩm
có thể tham gia liên kết xuất bản sách điện tử như sách in giấy hiện nay. Đồng thời,

có chính sách khuyến khích, mở rộng đối tượng tham gia vào việc phát hành, kinh
doanh sách điện tử.
2. 2. Vấn đề mô hình tổ chức, hình thức sở hữu nhà xuất bản.
25


×