THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA DNNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Quá trình đổi mới tổ chức quản lý của DNNN ở VN
2.1.1 Giai đoạn trước khi đổi mới (trước năm 1986)
Với vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nên các nhà làm luật ở
nước ta luôn coi trọng và cố gắng tạo dựng cho doanh nghiệp nhà nước một
hành lang pháp lý ổn định để hoạt động.
Văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước tạo tiền đề cho doanh nghiệp
nhà nước là Sắc lệnh 104/SL do Chủ tịch nước ban hành ngày 01 - 01 - 1948.
Sắc lệnh này khẳng định xí nghiệp quốc doanh thuộc sở hữu quốc gia, do Nhà
nước quản lý. Nhiệm vụ của xí nghiệp quốc doanh là sản xuất ra sản phẩm
nhằm thoả mãn nhu cầu tối thiểu của nền kinh tế, điều phối các hoạt động kinh
tế trong nước, bảo vệ kinh tế và phát triển tài chính quốc gia. Sắc lệnh này còn
quy định xí nghiệp quốc doanh có vốn tự trị và không thuộc ngân sách hàng
năm.
Ngày 25 - 02 - 1949 Chủ tịch nước kí sắc lệnh 09/SL về việc thành lập xí
nghiệp quốc doanh. Để thực hiện hai sắc lệnh 104/SL và 09/SL ngày 31 - 10 -
1952 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về xí nghiệp quốc
doanh trong Nghị định số 214/TTg. Điều lệ này khẳng định vai trò chủ đạo của
xí nghiệp quốc doanh, xác định xí nghiệp quốc doanh là pháp nhân và có trách
nhiệm trước bộ chủ quản về thực hiện kế hoạch và quản lý tài sản Nhà nước.
Các văn bản pháp luật nói trên đã tạo dựng nên hành lang pháp lý cho sự
thành lập và hoạt động cuả xí nghiệp quốc doanh, đồng thời khẳng định vai trò
chủ đạo của xí nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế quốc dân.
Sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng năm 1954 Nhà nước ta chính
thức triển khai thực hiện những nguyên tắc và phương pháp quản lý xã hội
chủ nghĩa. Ngày 04 - 04 - 1957 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định
130/TTg nhằm tạo ra một hành lang pháp lý tốt cho các xí nghiệp quốc doanh
phát triển sản xuất. Họ có quyền tự hạch toán đầu vào, đầu ra để sản xuất sao
cho có hiệu quả nhất. Quyết định đã đưa ra những vấn đề có tính nguyên tắc
trong quản lý xí nghiệp như: kế hoạch toàn diện, áp dụng chế độ hợp đồng kinh
doanh, thi hành chế độ hạch toán kinh doanh...
Tuy vậy do điều kiện chiến tranh nên cho mãi tới đầu những năm 70 vấn
đề về ổn định sản xuất và cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh mới được quy
định trong chỉ thị 11/TTg ngày 09 - 01 - 1971. Theo chỉ thị này hệ thống chỉ
tiêu kế hoạch pháp lệnh và chỉ tiêu hướng dẫn bắt đầu được áp dụng tại các xí
nghiệp quốc doanh. Ngày 10 - 12 - 1976 Chính phủ ban hành Nghị định 244/CP
về việc áp dụng thống nhất hệ thống 9 chỉ tiêu pháp lệnh cho tất cả các xí
nghiệp quốc doanh.
Những quy định của pháp luật về xác định địa vị pháp lý của doanh
nghiệp nhà nước trong thời kì này nói chung còn sơ sài, thiếu đồng bộ. Nhiều
quy định chỉ có giá trị mang tính chất tạm thời.
Hội nghị Trung ương lần thứ VI (khoá IV) từ đầu những năm 80 đã ban
hành hàng loạt văn bản pháp luật quan trọng về doanh nghiệp nhà nước như:
• Quyết định 25/CP ngày 21/01/1981
• Quyết định 146/HĐBT ngày 25/8/1982
• Nghị quyết 156/HĐBT ngày 30/11/1984
• Quyết định 76/HĐBT ngày 26/6/1986
Những văn bản này thể hiện những chủ trương, định hướng cơ bản. Đồng thời đưa ra những giải
pháp cụ thể về cải tiến một cách sâu rộng cơ cấu tổ chức, quản lý và cơ chế hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước, thực tế đã cho thấy các văn bản pháp luật trên đã có tác dụng từng bước làm sống động các hoạt động
của doanh nghiệp nhà nước.
2.1.2 Giai đoạn bắt đầu đổi mới 1986 đến nay
a. Giai đoạn từ 1986 đến ngày 20-4-1995 .
Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đất nước ta chuyển đổi từ nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần (nền kinh tế thị trường) vai trò của Nhà nước càng được quan tâm chú
trọng hơn. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo dựng
một địa vị pháp lý vững vàng cho doanh nghiệp nhà nước để đứng vững được
trước những thử thách khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường:
• Nghị định 217/HĐBT ngày 14/11/1987 ra đời được xem như một mốc
đánh dấu bước chuyển đổi quan trọng về chính sách đổi mới kế hoạch hoá
và hoạch toán kinh doanh để từng bước giúp Nhà nước thích ứng với việc
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường .
• Điều lệ xí nghiệp quốc doanh được ban hành kèm theo NĐ 50/HĐBT, ngày
22-3-1988.
• Nghị định 27/HĐBT ngày 22/03/1989 ban hành điều lệ liên xí nghiệp quốc
doanh.
• Quyết định 195/ HĐBT 02/12/1989 bổ sung quyết định 217/HĐBT
• Quyết định 315/HĐBT ,ngày 01/9/1990.
• Quyết định 330/HĐBT ngày 23/10/1991, bổ sung quyết định 315/HĐBT về
chấn chỉnh và tổ chức lại sản xuất kinh doanh trong khu vực kinh tế quốc
doanh.
• Chỉ thị 316/CT ,ngày 01/9/1990 về việc thí điểm trao quyền sử dụng và
trách nhiệm bảo toàn vốn kinh doanh cho các cơ sở quốc doanh.
• Quyết định 143/HĐBT ,ngày 10/5/1990 về việc chuyển thí điểm xí nghiệp
quốc doanh sang công ty cổ phần.
• Chỉ thị 138/CT, ngày 25/4/1991 về mở rộng diện trao quyền sử dụng và
trách nhiệm bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh cho đơn vị cơ sở quốc doanh.
• Quyết định 332/HĐBT, ngày 23/10/1991 về bảo toàn và phát triển vốn kinh
doanh đối với doanh nghiệp nhà nước.
Các văn bản pháp luật trên quy định về điều lệ xí nghiệp quốc
doanh, chấn chỉnh và tổ chức lại sản xuất kinh doanh thuộc khu vực quốc
doanh, trách nhiệm bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh cho các cơ sở quốc
doanh, chuyển thí điểm xí nghiệp quốc doanh sang công ty cổ phần, trách
nhiệm bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh ở khu vực kinh tế quốc doanh, bảo
toàn và phát triển vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước.
Có thể thấy địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước (trước ngày 20-4-
1995) được hình thành và phát triển dưới sự chi phối mạnh mẽ của chế độ sở
hữu và quyền sở hữu Nhà nước. Nhà nước luôn tập trung xác định cho doanh
nghiệp nhà nước một hành lang pháp lý ổn định với các quyền và nghĩa vụ hợp
lý để doanh nghiệp nhà nước phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong
nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, đó mới chỉ là các văn bản dưới luật nên tính
bền vững của nó không cao, phải thay đổi liên tục cho phù hợp vơí điều kiện
thực tế. Do vậy, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải tạo dựng cho doanh nghiệp nhà nước
một hành lang pháp lý ổn định để doanh nghiệp nhà nước có thể đứng vững và
phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế thị trường.
b) Sau ngày ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước 20-4-1995 đến nay.
Để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp nhà nước, tăng cường quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp,
thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn và thực hiện đúng
các mục tiêu do Nhà nước giao cho doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp nhà nước ra đời nhằm tạo điều kiện pháp lý thuận lợi
cho sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trong cơ
chế thị trường. Trong đó quy định rõ về các vấn đề thành lập, tổ chức lại, giải
thể và phá sản doanh nghiệp nhà nước, vấn đề tổ chức và hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước, các quyền và nghĩa vụ cụ thể của doanh nghiệp nhà nước,
vấn đề quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước ... Như vậy, sự ra
đời của Luật doanh nghiệp nhà nước đồng nghĩa với việc doanh nghiệp nhà
nước đã có một hành lang pháp lý chặt chẽ và ổn định giúp cho doanh nghiệp
nhà nước đi vào hoạt động chững chạc và tự tin hơn trong quá trình từng
bước công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Mặt khác doanh nghiệp nhà
nước khẳng định được vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Thực tế cho thấy doanh nghiệp nhà nước hoạt động ngày càng có hiệu
quả. Bằng quy định các doanh nghiệp nhà nước đều có quyền tự chủ trong
hoạt động của mình. Doanh nghiệp nhà nước cho đến nay có quyền mở rộng
quy mô kinh doanh theo khả năng của doanh nghiệp hay theo nhu cầu của thị
trường, có thể kinh doanh bổ sung những ngành nghề khác. Mặt khác doanh
nghiệp nhà nước có quyền tự lựa chọn thị trường, được xuất nhập khẩu , tự
quyết định giá mua bán sản phẩm và dịch vụ trừ những sản phẩm và dịch vụ
do Nhà nước định giá. Ngoài ra để mở rộng và đẩy mạnh các hoạt động của
mình doanh nghiệp nhà nước còn có quyền đầu tư, liên doanh ,liên kết hoặc
góp vốn cổ phần.. .
Như vậy với những quy định rất chặt chẽ và phù hợp với tình hình thực
tế luật doanh nghiệp nhà nước đã xây dựng nên một khuôn khổ pháp lý bằng
những điều luật cụ thể và những văn bản hướng dẫn chi tiết giúp cho doanh
nghiệp nhà nước dứng vững trong nền kinh tế thị trường và có những bước
tiến dài để khẳng định vị trí chủ đạo của mình và góp phần thúc đẩy nền kinh
tế quốc dân của chúng ta một cách nhanh chóng và toàn diện.
2.2 Thực trạng hoạt động hiện nay của DNNN
2.2.1 Về cơ cấu tổ chức hệ thống DNNN
Tình trạng phân bố của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện
nay vẫn còn bất hợp lý, cụ thể là đa số các doanh nghiệp nhà nước đều tập
trung ở những thành phố lớn, những khu đô thị và công nghiệp gắn với số
đông dân cư nhưng lại không chú ý quan tâm khai thác một số vùng tài nguyên
phong phú v à dồi dào mà lâu nay chúng ta vẫn đánh giá là lạc hậu như Tây
Bắc, Tây nguyên... ở đây chúng ta chỉ có những doanh nghiệp dường như mang
tính chất dịch vụ. Mặt khác tỷ trọng giữa các ngành trong doanh nghiệp nhà
nước cũng không đồng đều chủ yếu khai thác trong các lĩnh vực công nghiệp -
xây dựng - thương mại và dịch vụ còn lại các ngành khác không được chú ý
một cách đầy đủ và nghiêm túc.
Chính do sự phân bố bất hợp lý và mất cân đối giữa các ngành và lãnh
thổ như vậy dẫn đến sự trùng lặp mục tiêu của các doanh nghiệp, hoạt động
chồng chéo, dẫm chân nhau, cạnh tranh vô tổ chức, thiếu sự phân công hợp tác
cần thiết để cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế.
Hiện nay cả nước có 5.655 doanh nghiệp nhà nước, trong đó có 734
doanh nghiệp sẽ chuyển sang doanh nghiệp công ích, khoảng 2.000 doanh
nghiệp mà nhà nước cần giữ 100% vốn sẽ chuyển thành công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên, còn lại khoảng hơn 2.700 doanh nghiệp sẽ được cổ
phần hoá trong 5 năm tới. Để thực hiện kế hoạch này, Ban chỉ đạo đổi mới và
phát triển doanh nghiệp sẽ trực tiếp quyết định việc chuyển đổi sở hữu doanh
nghiệp mà không phụ thuộc vào sự tự nguyện của doanh nghiệp như hiện nay,
đồng thời định giá doanh nghiệp theo các tiêu chí của thị trường. Ngoài ra
chính phủ sẽ ban hành các tiêu chí để phân loại những doanh nghiệp nào Nhà
nước cần và không cần nắm giữ. Dự kiến Nhà nước sẽ nắm cổ phần chi phối
của các doanh nghiệp trong lĩnh vực dầu khí, bảo hiểm xăng dầu, khai thác
than và khoáng sản quan trọng.
Các doanh nghiệp sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên
dùng cho quốc phòng, an ninh và các doanh nghiệp tại các địa bàn chiến lược
quan trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng
khác có ít nhất 70% doanh thu từ các hoạt động trong các lĩnh vực sau đây:
a) Giao thông, công chính đô thị :
b) Quản lý, khai thác, duy tu, bảo dưỡng hệ thống cơ sở hạ tầng: hệ
thống đường sắt quốc gia, đường bộ, đường thuỷ, sân bay, điều hành bay, bảo
đảm hàng hải, dẫn dắt tàu ra vào cảng biển; kiểm định kỹ thuật phương tiện
giao thông đường bộ, đường thuỷ; kiểm tra, kiểm soát và phân phối tần số vô
tuyến điện.
c) Khai thác bảo vệ các công trình thuỷ lợi;
d) Sản xuất giống gốc cây trồng, vật nuôi;
đ) Xuất bản và phát hành sách giáo khoa, sách báo chính trị. Sản xuất và
phát hành phim thời sự, tài liệu, phim cho thiếu nhi. Sản xuất và cung ứng
muối ăn, chiếu bóng phục vụ vùng cao, biên giới, hải đảo. Sản xuất sản phẩm,
cung ứng dịch vụ khác theo chính sách xã hội của Nhà nước.
Nhà nước có kế hoạch giảm số lượng của các DNNN từ 5.700 như hiện
nay, xuống còn 2000 vào năm 2005. Mặc dù vậy, các DNNN mới sẽ vẫn được
thành lập khi yêu cầu thực tế về phát triển kinh tế – xã hội đòi hỏi và những
khu vực kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng để tham gia.
Về lâu dài, để hệ thống các DNNN có vai trò đối với sự tăng trưởng kinh
tế của đất nước, Nhà nước cần chấp thuận việc thiết lập một số nhóm kinh tế
đa dạng hoạt động ở một số vùng, để thuận lợi cho việc hội nhập quốc tế của
Việt Nam. Trong thời gian tới, sẽ xem xét việc thiết lập các nhóm về dầu khí,
công nghệ – thông tin, điện tử và xây dựng về các cơ sở vững chắc.
V ề l â u d à i , đ ể h ệ
t h ố n g d o a n h n g h i ệ p N h à
n ư ớ c t h ự c s ự m ạ n h , g i ữ
v a i t r ò đ ầ u t à u t r o n g
t h ú c đ ẩ y t ă n g t r ư ở n g
k i n h t ế , N h à n ư ớ c s ẽ c h o
p h é p h ì n h t h à n h m ộ t s ố
t ậ p đ o à n k i n h t ế l ớ n
k i n h d o a n h đ a n g à n h ,
t r o n g đ ó c ó n g à n h k i n h
d o a n h c h í n h , c h u y ê n m ô n
h o á c a o v à g i ữ v a i t r ò
c h i p h ố i t r o n g n ề n k i n h
t ế q u ố c d â n . T ậ p đ o à n
k i n h t ế n à y đ ư ợ c t h à n h
l ậ p t r o n g m ộ t s ố l ĩ n h
v ự c m à V i ệ t N a m c ó t h ế
m ạ n h , k h ả n ă n g c ạ n h
t r a n h v à h ộ i n h ậ p k i n h
t ế q u ố c t ế c ó h i ệ u q u ả .
T r ư ớ c m ắ t , n g h i ê n c ứ u
t h à n h l ậ p t h í đ i ể m m ộ t
s ố t ậ p đ o à n v ề d ầ u k h í ,
v i ễ n t h ô n g , đ i ệ n l ự c ,
x â y d ự n g . B ộ X â y d ự n g
h i ệ n n a y đ a n g d ự t h ả o
đ ể q u ý 3 – 2 0 0 3 t r ì n h
C h í n h p h ủ k ế h o ạ c h
t h à n h l ậ p T ậ p đ o à n x i
m ă n g , đ ể d ự k i ế n r a m ắ t
v à o đ ầ u n ă m 2 0 0 4 . B ộ
X â y d ự n g s ẽ k ê u g ọ i c á c
t h à n h p h ầ n k i n h t ế h u y
đ ộ n g v ố n đ â u f t ư c h o
t ậ p đ o à n , n h ư n g N h à
n ư ớ c g i ữ c ổ p h ầ n c h ủ
y ế u .
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh hiện
có, căn cứ vào vị trí quan trọng của từng lĩnh vực, từng ngành, từng doanh
nghiệp, từng sản phẩm trong nền kinh tế mà quyết định loại hình doanh
nghiệp Nhà nước giữ 100% vốn, doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối,
doanh nghiệp Nhà nước có cổ phần đặc biệt, doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ
phần ở mức thấp và doanh nghiệp khi chuyển thành công ty cổ phần, Nhà
nước không cần có cổ phần. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có
100% vốn của Nhà nước sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là doanh nghiệp nhà nước.
Chủ trương cổ phần hoá đã được thực hiện 10 năm nay song đến nay cả
nước mới có 1.070 doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi sang hình thức này.
Năm 2003, mục tiêu là phải sắp xếp lại 1.640 doanh nghiệp nhà nước, trong