Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Biện pháp khắc phục lỗi chính tả trong dạy học tiếng việt lớp 5 trường Tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.84 KB, 81 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

KHÓA LUẬN
Đề tài: “Biện pháp khắc phục lỗi chính tả trong dạy học tiếng việt lớp 5
trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình.”
Người thực hiện: Lê Thị Cẩm Hằng.
Lớp: CĐGD Tiểu học A K54.
GVHD: Mai Thị Liên Giang.
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất mà còn là công cụ
tư duy của một dân tộc nói chung và của các em học sinh trong nhà trường nói
riêng.
Là hệ thống ký hiệu bằng các con chữ và các dấu, chữ viết ghi lại ngôn ngữ âm
thanh, thành tiếng của con người, giúp con người vượt qua những trở ngại về
không gian và thời gian, ghi lại những kinh nghiệm ngàn đời về tự nhiên và xã
hội, lịch sử dân tộc, sáng tạo ra các tác phẩm văn chương cho muôn đời.
Đối với nhà trường phổ thông ở Việt Nam, việc phát âm chuẩn và viết đúng
chính tả có tầm quan trọng đặc biệt, trong việc xây dựng và rèn luyện ngôn ngữ
là tiếng Việt. Môn tiếng Việt có chức năng là rèn luyện các kỹ năng nghe, nói,
đọc, viết nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ
trong nhà trường, và mục tiêu đầu tiên của giáo dục Tiểu học là rèn luyện cho
học sinh kỹ năng “ Đọc thông viết thạo” chữ Quốc ngữ.
Chính tả là một phần trong nội dung chương trình môn tiếng Việt ở bậc Tiểu
học. Đây là môn học có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc
hình thành và phát triển các kỹ năng cơ bản, đó là nghe, nói, đọc, viết. Có các kỹ
năng chính tả thành thạo sẽ giúp cho học sinh học tập, giao tiếp và tham gia các
quan hệ xã hội được thuận lợi, nắm bắt được những thông tin một cách chính
xác, đồng thời việc mỗi thành viên xã hội phát âm chuẩn và viết đúng chính tả

GVHD: Mai Thị Liên Giang



1

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
sẽ góp phần giữ gìn sự trong sáng, thống nhất của tiếng Việt mà học sinh là một
trong những thành phần của xã hội đó.
Tuy nhiên hiện nay chất lượng dạy kỹ năng viết chính tả cho học sinh lớp 5
Trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình vẫn chưa cao và
còn nhiều bất cập. Việc viết chính tả của học sinh lớp 5 đa số còn mắc nhiều lỗi
thông thường như: Viết hoa tự do, các lỗi về cách phát âm thực tế phương ngữ,
… Muốn khắc phục những hạn chế này đòi hỏi chúng ta phải đánh giá chính xác
kỹ năng viết trong phân môn chính tả của học sinh lớp 5, để từ đó có những biện
pháp khắc phục. Đây chính là lý do khiến tôi chọn đề tài “Biện pháp khắc
phục lỗi chính tả trong dạy học tiếng Việt lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc
Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình.”
Nhằm bước đầu tìm hiểu kỹ năng viết chính tả của học sinh lớp 5 Trường Tiểu
học Số 2 Bắc Lý và đề ra các biện pháp để khắc phục kỹ năng này.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu lí luận và thực tiễn việc dạy học phân môn chính tả cho hoc sinh lớp
5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình, trên cơ sở đó đề
xuất một số biện pháp, góp phần nâng cao chất lượng viết chính tả cho học sinh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
3.1, Khách thể:
Các bài viết chính tả của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý –
TP.Đồng Hới – Quảng Bình.
3.2, Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng viết chính tả của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý –

TP.Đồng Hới – Quảng Bình.
4. Gỉa thuyết khoa học:
Kỹ năng viết chính tả của sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý trên địa bàn
TP.Đồng Hới tỉnh Quảng Bình còn hạn chế. Nếu hiểu được thực trạng thì sẽ có
biện pháp khắc phục phù hợp giúp học sinh nâng cao kỹ năng viết chính tả.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
GVHD: Mai Thị Liên Giang

2

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
- Nghiên cứu các vấn đề lí luận về kỹ năng viết chính tả của học sinh lớp 5
trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý.
- Đánh giá thực trạng dạy viết chính tả cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Số 2
Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình.
- Đề xuất các biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 5 trường Tiểu
học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình.
6. Phạm vi nghiên cứu:
Về địa bàn và khách thể nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trên học sinh khối lớp 5
trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình.
7. Phương pháp nghiên cứu:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
Nghiên cứu, thu thập, xử lý, chọn lọc và khái quát hóa các thông tin, những
nghiên cứu thuộc các vấn đề có liên quan đến đề tài của các tác giả trong và
ngoài nước. Làm sáng tỏ các thuật ngữ liên quan đến đề tài. Xây dựng các cơ sở
khoa học về mặt lí luận cho đề tài.
7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

Phương pháp quan sát sư phạm (dự giờ), thực nghiệm… nhằm thu thập thông
tin về thực trạng kỹ năng viết chính tả của học sinh lớp 5, nâng cao kỹ năng viết
chính tả cho học sinh lớp 5.
7.3 Phương pháp xử lý số liệu:
Tổng hợp số liệu bằng phương pháp thống kê toán học như: tính tần suất mắc
lỗi…
8. Cấu trúc khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa
luận gồm có 3 chương nội dung chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Thực trạng kỹ năng viết chính tả của học sinh lớp 5 trường Tiểu
học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình.

GVHD: Mai Thị Liên Giang

3

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
Chương 3: Biện pháp khắc phục lỗi chính tả trong dạy học tiếng Việt lớp 5
trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý – TP.Đồng Hới – Quảng Bình

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Tổng quan về vấn đề nghiên cứu:
Vấn đề kỹ năng, kỹ năng viết và kỹ năng viết chính tả đã được nghiên cứu dưới
nhiều lĩnh vực như ngôn ngữ học, tâm lý học và cho ra đời nhiều công trình
nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau.

1.1.1 Các nghiên cứu về kỹ năng:
Vấn đề kỹ năng đã được các nhà tâm lý học nghiên cứu từ lâu dưới nhiều góc
độ khác nhau. Nhìn chung có hai hướng chính. Đó là: Hướng nghiên cứu kỹ
năng ở mức độ khái quát. Đại diện của hướng nghiên cứu này có: K.K.Platonov,
V.X.Cudin, P.Ia.Galperin, P.V.Peetropxki… P.Ia.Galperin chủ yếu đi sâu vào
vấn đề hình thành tri thức, kỹ năng theo lý thuyết hình thành hành động trí tuệ
theo giai đoạn. K.K.Platonov thì trình bày khái quát ba khái niệm: Tri thức, kỹ
xảo, kỹ năng và mối quan hệ giữa chúng theo quan niệm của ông và các nhà tâm
lý khác. Hướng nghiên cứu kỹ năng ở mức độ cụ thể. Đây là hướng nghiên cứu
lớn về kỹ năng, gắn liền với nhiều nhà tâm lý lớn và trong nhiều hoạt động cụ
thể như: Kỹ năng hoạt động sư phạm (A.A.Leonchive,…), Kỹ năng học tập
(G.X.kchiuc,

N.A.Menchinxcaia…), Kỹ năng lao động ( V.G.Look,

V.V.Tsebbuseva, E.A.Milerian…).
1.1.2 Các nghiên cứu về kỹ năng viết và kỹ năng viết chính tả:
Kỹ năng viết và kỹ năng viết chính tả được nhiều tác giả khác nhau nghiên cứu.
Năm 1989 nhà xuất bản Giáo dục có biên dịch cuốn “ Phương pháp dạy tiếng
mẹ đẻ - Các nguyên tắc tâm lý của việc dạy chính tả” của Đ.N.Bôgôiavlenxki.
Năm 2007 nhà xuất bản Đại học Huế có biên dịch cuốn “ Dạy đọc viết cho tất cả
học sinh ở Trường Tiểu học và chuyên biệt” của tác giả Kristin Bostelman &
Vivien Heller.

GVHD: Mai Thị Liên Giang

4

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng



Khóa luận tốt nghiệp
Nhiều tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu liên quan tới vấn đề kỹ năng viết ở các
khía cạnh như: Xây dựng phương pháp dạy viết chữ, quy trình dạy viết chữ, quá
trình dạy đọc viết – thủ thuật viết… với các tác giả như: E.N.Sokolova, Usinxki,
F.de.Saussure và L.Hiclmslev.
Trong nước cũng có nhiều công trình nghiên cứu tập trung chính vào hướng
nghiên cứu về kỹ năng viết và kỹ năng viết chính tả: Lê Phương Nga có công
trình “ Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học”, Hà Quang Năng “ Từ thực
trạng mắc lỗi của học sinh Tiểu học, suy nghĩ về cách dạy học và sách giáo khoa
hiện nay”(Kỉ yếu hội thảo khoa học – 1997), Lê A với cuốn “ Chữ viết và dạy
chữ viết ở Tiểu học”, Nguyễn Đức Dương “ Về chiến lược dạy chính tả” (Kỉ yếu
hội nghị khoa học – 1997), Hoàng Trọng Canh “ Chữ quốc ngữ với vấn đề luyện
chính tả ở trường phổ thông” (Ngữ học trẻ - 1996).
Tóm lại các công trình lí luận và thực tiễn của tác giả trong và ngoài nước đã
làm sáng tỏ nhiều vấn đề về kỹ năng, kỹ năng viết – kỹ năng viết chính tả. Thế
nhưng chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về
vấn đề kỹ năng viết chính tả của học sinh lớp 5.
1.2 Các khái niệm công cụ:
1.2.1 Dạy học:
Dạy học là một quá trình dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của người giáo
viên, người học tự giác, tích cực, chủ động, biết tự tổ chức, tự điều khiển hoạt
động nhận thức – học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Dạy học là dạy để nâng cao trình độ văn hóa và phẩm
chất đạo đức theo chương trình nhất định”.
1.2.2 Điều chỉnh:
Điều chỉnh là sự thay đổi mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy
học nhằm giúp học sinh phát triển tốt nhất phù hợp với những năng lực và trình
độ của học sinh.
1.2.3 Kỹ năng viết chính tả:

1.2.3.1 Kỹ năng:
GVHD: Mai Thị Liên Giang

5

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
Có rất nhiều khái niệm về kỹ năng, cụ thể:
- Theo Từ điển Tiếng Việt “Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu
nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế”.
- Khái niệm kỹ năng của nhà tâm lý học Nga K.K.Platonov: “Kỹ năng là khả
năng của con người thực hiện một hoạt động bất kỳ nào đó hay các hành động
trên cơ sở của kinh nghiệm cũ”.
- Trong từ điển tâm lý học của A.V.Peetrovxki và M.G.Jarosecxki chủ biên năm
1990 cho rằng: “ Kỹ năng là phương thức thực hiện thông thạo hành động của
chủ thể dựa trên cơ sở tổ hợp những tri thức, kỹ xảo đã có. Kỹ năng được hình
thành bằng con đường luyện tập, tạo cho con ngưởi khả năng thực hiện hành
động không chỉ trong điều kiện quen thuộc mà cả trong điều kiện đã thay đổi.
1.2.3.2 Khái niệm viết chính tả:
- Theo Từ điển tiếng Việt: “Viết chính tả là vạch những đường nét tạo thành
chữ”.
- Chữ viết là hệ thống ký hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói và những
quy tắc, quy định riêng.
Chính tả là gì?
- Thuật ngữ chính tả hiểu theo nghĩa gốc là “Phép viết đúng” hoặc “Lối viết hợp
với chuẩn”. Cụ thể, chính tả là hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho
các từ của một ngôn ngữ, cách viết hoa tên riêng, cách phiên âm tên riêng nước
ngoài, cách viết đúng dấu câu…

- Chính tả là sự quy định có tính chất xã hội, nó không cho phép vận dụng quy
tắc một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân.
Tóm lại, có thể hiểu kỹ năng viết chính tả là khả năng vận dụng những tri thức
và hiểu biết đã có vào trong hoạt động viết chính tả. Hình thành cho học sinh kỹ
năng viết chính tả nghĩa là giúp học sinh viết đúng chính tả theo quy định có
tính chất xã hội.
1.3 Những vấn đề lí luận về dạy học cho học sinh lớp 5:

GVHD: Mai Thị Liên Giang

6

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
1.3.1 Điều chỉnh chương trình day học phù hợp với năng lực và trình độ của
học sinh:
Mục đích: Điều chỉnh sẽ giúp học sinh có hứng thú học tập và học tập có hiệu
quả trên cơ sở sử dụng tối đa các kiến thức và kỹ năng hiện có để lĩnh hội những
tri thức và kỹ năng mới; tránh những bất cập giữa những kỹ năng hiện có của
học sinh và những nội dung giáo dục phổ thông; nâng cao tính tương hợp giữa
cách học của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Các phương pháp điều chỉnh: Trên cơ sở những đặc điểm khác nhau về khả
năng , nhu cầu, sở thích của học sinh, căn cứ vào nội dung của môn học, bài
học, có thể áp dụng một trong các cách điều chỉnh như: Phương pháp đồng loạt,
căn cứ vào yêu cầu bài học để xây dựng mục tiêu cho một bài dạy, thiết kế các
hoạt động nhằm hoàn thành các mục tiêu đặt ra. Phương pháp trùng lặp giáo án,
cho học sinh viết đi viết lại nhiều lần những từ khó, dễ mắc lỗi.
Các hình thức điều chỉnh:

-Thay đổi hình thức hoạt động của học sinh: Căn cứ vào khả năng và sở thích
của học sinh, căn cứ vào nội dung và thời điểm của bài học, giáo viên cần đưa
ra các dạng hoạt động cho phù hợp với học sinh. Có thể tổ chức các hoạt động
theo hình thức: Hoạt động lớp, hoạt động theo nhóm, hoạt động theo từng đôi
qua sự giúp đỡ của bạn bè.
- Thay đổi hình thức giảng dạy của giáo viên: Nhiều khi việc ghi nhớ kiến thức
của trẻ không phải chỉ thông qua việc giảng dạy, hướng dẫn của giáo viên mà
còn được thông qua các hoạt động khác như: Tổ chức hoạt động vui chơi, các
giờ thực hành, tổ chức các giờ học ngoài trời…
- Thay đổi phong cách giảng dạy của giáo viên: Trong giảng dạy giáo viên cần
thay đổi cách truyền đạt hay phong cách giảng dạy. Phải có giọng nói vui tươi,
diễn cảm giúp trẻ hứng thú trong học tập.
- Vận dụng các phương pháp dạy học khác nhau: Giáo viên cần biết vận dụng
một cách linh hoạt các phương pháp dạy học khác nhau, đúng lúc, đúng chỗ, phù
hợp với nội dung và đối tượng, thể hiện nghệ thuật và phong cách sư phạm.
GVHD: Mai Thị Liên Giang

7

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
- Thay đổi nội dung, yêu cầu và tiêu chí đạt thành công của học sinh: Mỗi học
sinh có nhu cầu và khả năng khác nhau, cách tiếp nhận kiến thức khác nhau. Do
đó khi giảng dạy giáo viên giao nhiệm vụ và bài tập, giáo viên cần đảm bảo cho
học sinh có thể hoàn thành được. Cùng một nhiệm vụ nhưng tùy thuộc vào khả
năng của mỗi em mà giao những phần việc khác nhau. Cùng một nội dung
nhưng khác nhau về thời gian, số lượng và mức độ của kiến thức.
- Thay đổi cách trợ giúp: Trực tiếp – gián tiếp, gần – xa, nhiều – ít.

Những nội dung cần điều chỉnh:
- Thời gian:
+ Tăng, giảm thời gian
+ Thường xuyên thay đổi các hoạt động
+ Nghỉ giải lao sau mỗi hoạt động
+ Dành ít phút để các em xem lại bài.
+ Giao các bài tập để học sinh về nhà chuẩn bị trước.
- Môi trường trong lớp học:
+ Phòng học sạch sẽ, thoáng mát.
+ Có chỗ ngồi đảm bảo cân đối, phù hợp với tầm nhìn, vừa với cơ thể.
+ Sắp xếp lại phòng học.
+ Làm giảm thiểu các tác động bên ngoài gây mất tập trung như: tiếng ồn, bụi
bẩn…
- Những vấn đề cần điều chỉnh trong các môn học:
+ Điều chỉnh cách học tập trong các môn học
+ Các biện pháp tiến hành giảng dạy: Áp dụng những kĩ thuật giảng dạy để lôi
cuốn học sinh, minh họa bằng mô hình, nhấn mạnh những thông tin quan trọng.
+ Các biện pháp tự quản: Thường xuyên kiểm tra học sinh, dạy phương pháp
học, cho học sinh nhắc lại những vấn đề đã được hướng dẫn, có kế hoạch để
tổng hợp và khái quát kiến thức, dạy cách ứng xử phù hợp với hoàn cảnh.
- Kiểm tra bằng nhiều hình thức: Kiểm tra nói, đọc bài kiểm tra cho học sinh,
kiểm tra từng bài ngắn, giới hạn thêm thời gian.
GVHD: Mai Thị Liên Giang

8

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp

- Tài liệu và học liệu: Sắp xếp các tư liệu trong sách, các bài trọng tâm, sử dụng
các bài tập bổ trợ kiến thức, các phương tiện hỗ trợ cho việc ghi chép,…
- Giao bài tập: Chỉ dẫn từng bước cụ thể, rõ ràng, giao nhiệm vụ rõ ràng, những
bài tập ngắn và không quá khó, học nhóm…
- Những biện pháp kích thích, động viên học sinh học tập: Tiếng nói, cử chỉ
điệu bộ, động viên những học sinh còn yếu kém trong những trường hợp cụ thể,
tăng cường tính sáng tạo, vận dụng điểm mạnh và sở thích của học sinh.
1.3.2 Thiết kế và tiến hành bài học có hiệu quả:
Trong dạy học ở Tiểu học, nhiệm vụ của giáo viên đóng vai trò quan trọng:
Giảng dạy, giáo dục đảm bảo chất lượng theo chương trình giáo dục, kế hoạch
bài học; soạn bài, lên lớp, kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh, quản lý học sinh
trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức; chịu trách nhiệm về chất
lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục. Giáo viên phải trau dồi đạo đức, nêu cao
tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương
mẫu trước học sinh, thương yêu đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của
học sinh, đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp. Thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy
định của pháp luật. Học sinh cũng có những nhiệm vụ không kém phần quan
trọng: Thực hiện đầy đủ và có kết quả hoạt động học tập, chấp hành nội quy nhà
trường, đi học đều và đúng giờ. Kính trọng, lễ phép với thầy cô giáo, với người
lớn, đoàn kết thương yêu giúp đỡ bạn bè. Tham gia các hoạt động tập thể…
Chương trình phổ thông được coi là pháp lệnh của mỗi quốc gia, đòi hỏi những
kiến thức, kỹ năng chuẩn mực mà học sinh cần phải nắm bắt được sau mỗi bậc
học, năm học, thậm chí mỗi bài học, giờ học và phải có thái độ nhất định. Căn
cứ vào “đầu ra mong muốn” các kiến thức, kỹ năng được sắp xếp theo một trật
tự nhất định, thể chế qua các tư liệu học tập: sách giáo khoa, các phiếu bài tập,
các phương tiện,… trong các môn học, để đạt mục tiêu chung. Những học sinh
yếu kém cần học theo chương trình riêng, được xây dựng với những mục tiêu,
kế hoạch cụ thể được thể hiện trong sổ theo dõi tiến bộ của học sinh.

GVHD: Mai Thị Liên Giang


9

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
Như vậy, khi thiết kế kế hoạch bài học, giáo viên cùng một lúc phải lựa chọn,
xem xét các biện pháp phù hợp với năng lực trình độ của học sinh. Khi xây dựng
kế hoạch giờ học tiếng Việt, giáo viên thiết kế chung cho cả lớp, sau đó mới tiến
hành điều chỉnh các hoạt động cho phù hợp với cá nhân học sinh yếu kém. Việc
làm này, thường mất nhiều thời gian, nhiều khi phù hợp với học sinh hay mắc
các lỗi chính tả mà không phù hợp với các học sinh khá, giỏi. Với những học
sinh yếu kém nên phải làm đi làm lại để khắc sâu kiến thức vừa học. Để bài học
trong phân môn tiếng Việt thiết kế có thể sử dụng ngay, tránh làm mất nhiều
thời gian, giáo viên cần sử dụng cách thiết kế bài dạy theo cách tiếp cận tổng
thể. Thiết kế tổng thể là khái niệm để chỉ việc tính trước các kết quả và môi
trường để khi thực hiện bài học, giáo viên đã có sẵn các giải pháp dự kiến cho
từng nội dung hoạt động của cả học sinh bình thường và học sinh hay mắc lỗi
chính tả. Vận dụng mô hình VNEN vào thiết kế và tiến hành bài học.
Trong bài học, mỗi học sinh có thể đạt đến một mức độ nhận thức nhất định,
mức độ đạt được đó biểu hiện qua các bài tập, qua các hoạt động cụ thể. Những
mức độ trải từ thấp đến cao. Đây là một công cụ quan trọng giúp giáo viên biên
soạn và tiến hành bài học có hiệu quả.
Tiến trình thiết kế và tiến hành bài học trong phân môn tiếng Việt có hiệu quả,
theo tiếp cận tổng thể.
- Tìm hiểu năng lực, nhu cầu và sở thích của học sinh.
- Xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung và phương pháp tiến hành bài học.
- Xác định nội dung bài học.
- Xác định, sắp xếp các hoạt động dạy – học và phương pháp tiến hành.

- Thiết kế tiến trình giờ học.
Cấu trúc của bất kì giờ học nào cũng gồm các khâu: mở bài, giải quyết bài, và
kết thúc bài. Toàn bộ các khâu đều phải bám sát theo mục tiêu, hướng vào mục
tiêu. Tuy nhiên, nhiệm vụ của các khâu lại có những điểm khác nhau.
Đặc biệt khi giải quyết bài học giáo viên cần lưu ý để đảm bảo khâu này có hiệu
quả trong giờ học: phải giải thích rõ ràng cho học sinh hiểu, mô hình hóa các
GVHD: Mai Thị Liên Giang

10

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
kiến thức, thu nhận phản hồi từ phía học sinh, khuyến khích học sinh nêu ý kiến,
những thắc mắc của mình về các vấn đề các em chưa hiểu rõ, giáo viên ra quyết
định điều chỉnh, tạo động cơ học tập cho học sinh. Từ đó các em có thái độ tích
cực trong học tập, ham muốn học hỏi để sửa chữa lỗi sai.
1.4 Những vấn đề lí luận về dạy học cho học sinh lớp 5 trong phân môn
Chính tả:
1.4.1 Một số đặc điểm của học sinh ảnh hưởng đến việc rèn kỹ năng viết
chính tả:
Đặc điểm cảm giác, tri giác
- Tính nhạy cảm chậm và hạn chế: Một số em trong cùng một thời gian nhất
định thì khối lượng đối tượng các em quan sát được ít hơn so với các bạn.
- Tính không phân biệt thể hiện rõ: Khi viết chính tả các em phân biệt các âm,
các vần gần giống nhau, nên thường viết sai chính tả.
Đặc điểm chú ý
- Mức độ chú ý thấp, khó tập trung chú ý trong thời gian dài, dễ bị phân tán chú
ý.

- Không tập trung cao vào các giờ học.
- Luôn bị phân tán, không tuân theo các chỉ dẫn, không kiên nhẫn, những từ khó
thường viết qua loa.
Đặc điểm trí nhớ
- Hiểu chậm cái mới, nhanh quên cái vừa tiếp thu được. Qúa trình ghi nhớ chậm
chạp, không bền vững, không đầy đủ và thiếu chính xác. Dễ quên cái gì không
liên quan, không phù hợp với nhu cầu của các em.
- Ghi nhớ được bài học thông qua các hình ảnh nhanh hơn các kiến thức lý
thuyết có trong sách vở, khó nhớ những gì có tính khái quát, trừu tượng, quan hệ
lôgic.
- Có khả năng ghi nhớ máy móc, khó ghi nhớ ý nghĩa.
Đặc điểm tư duy

GVHD: Mai Thị Liên Giang

11

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
- Tư duy thường biểu hiện ở tính không liên tục, khi bắt đầu thực hiện nhiệm vụ
thì sôi nổi làm đúng, nhưng càng về sau càng trầm và mắc nhiều sai sót, nhanh
chóng mệt mỏi. Do đó, học sinh cần có chế độ nghỉ ngơi, giải lao xen kẽ giữa
các hoạt động, giao việc đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với trình độ của học
sinh, tránh kích thích mạnh dẫn đến hiệu quả không mong muốn.
- Tư duy lôgic kém: Trẻ thường không vận dụng được các thao tác tư duy đối
với các hành động trí tuệ, không định hướng được nhiệm vụ trước khi thực hiện
nhiệm vụ, khi thực hiện thì lẫn lộn. Các em khó vận dụng những kiến thức học
được vào việc giải quyết các tình huống thực tiễn. Vì vậy, đối với các dạng bài

tập chính tả ngữ pháp, giáo viên nên cho học sinh hoạt động nhóm cùng với các
bạn.
Đặc điểm ngôn ngữ
- Vốn từ: ít, nghèo nàn.
- Do đặc điểm ảnh hưởng của phương ngữ: Sử dụng từ địa phương trong giao
tiếp nên dẫn đến viết sai chính tả.
- Ngữ pháp: Không nắm được quy tắc ngữ pháp, quy tắc chính tả như quy tắc
viết hoa tên riêng, danh từ riêng, quy tắc về dấu thanh…
- Viết chữ cẩu thả.
1.4.2 Môi trường giáo dục học sinh:
Yếu tố môi trường có tác dụng quyết định trong việc giáo dục học sinh. Hơn
nữa, nhờ việc tổ chức môi trường, tổ chức các hoạt động trong môi trường và
thông qua những tác động trong các mối quan hệ tương tác mà người giáo viên
có thể kiểm soát, nâng cao được kết quả học tập của học sinh.
1.4.3 Dạy học kỹ năng viết chính tả cho học sinh lớp 5:
1.4.3.1 Vị trí dạy học phân môn chính tả ở Tiểu học
Phân môn chính tả trong nhà trường giúp học sinh hình thành năng lực và thói
quen viết đúng tiếng Việt văn hóa, tiếng Việt chuẩn mực. Vì vậy phân môn
chính tả có vị trí quan trọng trong cơ cấu chương trình môn tiếng Việt nói riêng,
các môn học ở trường phổ thông nói chung.
GVHD: Mai Thị Liên Giang

12

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
Ở bậc Tiểu học, phân môn chính tả càng có vị trí quan trọng. Bởi vì giai đoạn
Tiểu học là giai đoạn then chốt trong quá trình hình thành kỹ năng chính tả cho

học sinh. Không phải ngẫu nhiên mà ở Tiểu học, chính tả được bố trí thành một
phân môn độc lập (thuộc môn tiếng Việt), có tiết dạy riêng. Trong khi đó ở
Trung học cơ sở và Trung học phổ thông, chính tả được dạy xen kẽ trong các
tiết thực hành ở phân môn tập làm văn, chứ không tồn tại với tư cách là một
phân môn độc lập như ở bậc Tiểu học.
Tầm quan trọng của phân môn chính tả còn thực hiện nhiệm vụ nặng nề hiện
nay – khắc phục tình trạng viết sai chính tả phổ biến ở học sinh.
1.4.3.2 Mục tiêu của phân môn chính tả ở Tiểu học
Cụ thể hóa mục tiêu của phân môn tiếng Việt, phân môn chính tả nhằm hình
thành ở học sinh kỹ năng sử dụng tiếng Việt, trong đó đặc biệt chú ý tới kỹ năng
viết (có kết hợp kỹ năng nghe). Bên cạnh đó, chính tả cung cấp cho học sinh một
số kiến thức về chữ viết như: cấu tạo chữ, quy tắc chính tả, quy tắc ngữ pháp…
Phân môn chính tả còn góp phần rèn cho học sinh các thao tác tư duy như phân
tích, tổng hợp, thay thế, bổ sung, so sánh, khái quát…, cung cấp cho học sinh
những hiểu biết sơ giản về tự nhiên, xã hội, về con người, văn hóa, văn học Việt
Nam và nước ngoài, để từ đó bồi dưỡng lòng yêu cái đẹp, cái thiện, lòng trung
thực, lòng tốt, lẽ phải và sự công bằng trong xã hội; góp phần hình thành lòng
yêu mến tiếng Việt và thói quen giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
1.4.3.3 Nhiệm vụ của phân môn chính tả ở Tiểu học
Phân môn chính tả có nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Giúp học sinh nắm vững các quy tắc chính tả và hình thành kỹ năng chính tả.
Nói cách khác, phân môn chính tả có nhiệm vụ giúp học sinh hình thành năng
lực và thói quen viết đúng chính tả: Viết đúng chữ ghi âm đầu, âm đệm, âm
chính, âm cuối và thanh điệu, viết đúng tên người, tên địa lí, tên cơ quan, tổ
chức trong và ngoài nước, các từ phiên âm nước ngoài, cách sử dụng đúng dấu
câu, tiến tới viết đẹp viết nhanh.

GVHD: Mai Thị Liên Giang

13


SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
- Kết hợp luyện tập chính tả với việc rèn luyện cách phát âm, củng cố nghĩa của
từ, trau dồi về ngữ pháp tiếng Việt, góp phần rèn luyện một số thao tác tư duy
(nhận xét, so sánh, liên tưởng, ghi nhớ…).
- Rèn cho học sinh một số phẩm chất như tính cẩn thận, tinh thần trách nhiệm
với công việc, óc thẩm mỹ, tính sáng tạo nghệ thuật…; bồi dưỡng cho các em
tình yêu tiếng Việt và trau dồi chữ viết tiếng Việt.
1.4.3.4 Nội dung dạy học trong phân môn chính tả lớp 5
1.4.3.4.1. Chính tả đoạn bài
- Nội dung: Bài chính tả lớp 5 được trích từ bài tập đọc trước đó., hoặc là nội
dung tóm tắt của bài tập đọc hoặc các văn bản khác có nội dung phù hợp với chủ
điểm đang học tập trong tuần (độ dài khoảng 100 – 120 chữ). Yêu cầu chung là
học sinh cần viết đúng mẫu chữ, đúng chính tả, không mắc quá 5 lỗi/bài, tốc độ
quy định theo chuẩn.
- Hình thức: Có 2 hình thức chính tả được sử dụng ở lớp 5 là: chính tả nhớ viết và chính tả nghe – viết. Độ dài mỗi bài khoảng 100 – 120 tiếng (chữ). Ở học
kì I, số bài chính tả ở hai hình thức chiếm tỉ lệ ngang nhau; ở học kì II, hình thức
chính tả nghe – viết chiếm tỉ lệ nhiều hơn – khoảng 60%).
1.4.3.4.2. Chính tả âm, vần
- Nội dung các bài tập chính tả âm, vần là ôn lại quy tắc một số chữ như: c/k,
g/gh, ng/ngh và tiếp tục luyện viết các từ có âm, vần, thanh dễ lẫn. Dạng bài tập
này được dạy sau bài tập chính tả nghe – viết, nhớ - viết.
- Trong nội dung bài tập có phần bắt buộc dạy cho tất cả học sinh ở các vùng
miền trong cả nước, có những nội dung cho phép các trường, lớp ở từng địa
phương lựa chọn để dạy cho phù hợp với đặc điểm của học sinh địa phương (ví
dụ: BT3 tuần 16: Điền vào ô trống tiếng bắt đầu bằng r/gi; v/d. Có thể thay bài
tập khác đưa ra một đoạn văn (thơ) yêu cầu học sinh điền vào ô trống tiếng bắt

đầu bằng d/gi…).
- Trong phần nội dung tự chọn là phần viết đúng các từ mà phát âm của tiếng
địa phương lệch so với chuẩn trong mỗi bài học. Có trường hợp bài tập trong
GVHD: Mai Thị Liên Giang

14

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
sách giáo khoa không phù hợp thì giáo viên cũng có thể thay thế để phù hợp lỗi
chính tả địa phương (ví dụ: BT 2b không phù hợp vì các cặp từ báo/ báu, lao/
lau,… học sinh không sai từ (tiếng) có vần ao, có thể đổi thành: Tìm những từ
chứa tiếng: Béo/ báu, leo/ lau,…)
1.4.3.4.3. Chính tả viết hoa
- Ôn luyện cách viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam và tên địa lí nước ngoài.
- Bước đầu rèn luyện để có ý thức về cách viết hoa tên riêng tổ chức, danh hiệu,
giải thưởng, huy chương.
1.4.3.5 Phương pháp dạy viết đúng chính tả lớp 5
Có thể sử dụng các phương pháp như:
Phương pháp trực quan: Thực hiện phương pháp này giáo viên cần đọc mẫu
thông thả, rõ ràng, phát âm chính xác các tiếng có âm, vần, thanh mà học sinh
thường mắc lỗi. Yêu cầu học sinh phân tích tiếng mắc lỗi thành âm đầu, âm
đệm, âm chính, âm cuối, thanh điệu. Từ đó học sinh nhớ cách ghi các bộ phận
của tiếng để viết đúng, sau đó giáo viên phải cho học sinh viết, phát âm lại cho
đúng các tiếng (từ) đó.
Phương pháp thực hành giao tiếp: Thực hiện phương pháp này giáo viên cần
cho học sinh đọc toàn bộ đoạn văn sẽ viết, nắm được hoặc nhớ được nội dung
đoạn, bài cần viết, viết trước một số từ khó học sinh dễ viết sai. Giáo viên thực

hiện đọc bài cho học sinh viết hoặc học sinh tự nhớ viết. Cho học sinh tự soát
lỗi; giáo viên chấm bài, chỉ ra các lỗi trong bài, cách sửa lỗi.
Phương pháp trò chơi học tập: Thực hiện phương pháp này giáo viên cần xác
định được mục đích trò chơi, sau đó lựa chọn trò chơi phù hợp với mục đích.
Giáo viên nên lựa chọn các trò chơi có luật chơi đơn giản, có thể dạy học nhiều
hiện tượng chính tả, dễ thực hiện trong khoảng thời gian ngắn mà vẫn kích thích
sự phấn khởi của học sinh.
Một số biện pháp cần thực hiện để dạy chính tả là tổ chức cho học sinh thành
lập nhóm học tập theo mô hình VNEN, các nhóm sẽ giúp đỡ nhau trong việc ôn
các quy tắc chính tả, sửa phát âm sai dẫn đến viết sai chính tả, các nhóm lập sổ
GVHD: Mai Thị Liên Giang

15

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
tay chính tả của nhóm. Giáo viên hướng dẫn cách ghi các lỗi chính tả mà nhóm
hay mắc phải trong bài viết và cách viết đúng các từ đó. Sau khi ghi các từ mắc
lỗi các em cần ghi thêm các từ tương tự có âm đầu, vần, thanh, tên riêng…tương
tự để giúp các em viết đúng nhiều từ (ví dụ: nhóm học sinh viết sai tiếng có vần
au màu xanh/ mèo xanh, cho học sinh viết thêm sáu/séo, tàu/tèo…)
Với học sinh viết sai quá nhiều lỗi chính tả, ngoài việc cho các em luyện viết
chính tả trong nhóm, giáo viên cần yêu cầu các em có sổ riêng, ghi lại nhiều lần
tiếng, từ hay viết sai để các em nhớ mặt chữ và sẽ không viết sai những chữ đó ở
lần sau.
Lưu ý khi sử dụng các phương pháp trên:
- Động viên, góp ý nhẹ nhàng khi học sinh phát âm, phân tích, viết sai…, không
chê trách hay tỏ ra bất mãn với những sai sót của học sinh.

- Giúp học sinh sửa chữa kịp thời những lỗi sai chính tả mà các em thường mắc
phải.
- Xây dựng một số mẹo chính tả để giúp học sinh sửa chữa được những lỗi sai
phổ biến.
- Kết hợp được nhiều phương pháp (kết hợp cả phương pháp tích cực và
phương pháp tiêu cực: xây dựng cái đúng, loại bỏ cái sai) hình thức tổ chức dạy
học để giờ chính tả không trở thành giờ học khô khan, cứng nhắc.
1.4.3.6 Hình thức tổ chức dạy học phân môn chính tả cho học sinh lớp 5:
Hình thức dạy học nhóm:
Dạy học nhóm là hình thức tổ chức tổ chức dạy học mới được sử dụng trong tất
cả các môn học ở Tiểu học nói chung và phân môn tiếng Việt nói riêng. Đây là
phương pháp vận dụng mô hình dạy học mới vào dạy học ở Tiểu học, viết tắt là
VNEN, nhằm giúp học sinh phát huy tính tự giác tích cực vào học tập, học sinh
tự tìm ra kiến thức của mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Học nhóm là hình thức tổ chức học tập của học sinh theo nhóm nhỏ trên lớp
dưới sự điều khiển của nhóm trưởng, trong đó nhấn mạnh đến các kỹ năng hợp

GVHD: Mai Thị Liên Giang

16

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
tác mang tính xã hội mà học sinh cần có, để đảm bảo sự hợp tác trong học tạp
của học sinh.
Học nhóm có ý nghĩa đối với việc dạy học phân môn chính tả. Phương pháp
này tạo điều kiện cho học sinh trung bình được tham gia vào các hoạt động học
tập một cách tích cực, tạo cơ hội cho các em có thể trình bày ý kiến của mình,

rèn luyện một số kỹ năng sống, kỹ năng xã hội, quan hệ bạn bè, tính mạnh dạn,
ý thức trách nhiệm trong tập thể nhóm, chia sẻ kinh nghiệm với nhau. Trong
nhóm cùng hỗ trợ nhau để tìm ra lỗi sai và sửa chữa lỗi sai đó. Như vậy, học
sinh sẽ ghi nhớ và khắc phục được lỗi chính tả mà các em thường mắc phải.
Tuy nhiên cần lưu ý một số hạn chế của mô hình mới này là khi tổ chức hình
thức dạy học này, học sinh dễ gây mất trật tự, không hợp tác vào việc thực hiện
nhiệm vụ của nhóm, có thể do nhiệm vụ giáo viên đưa ra quá dễ hoặc quá khó
khiến học sinh không hứng thú tham gia vào hoạt động nhóm, do giáo viên chưa
bao quát, quản lý lớp được… Vì vậy, trong nhóm, nhóm trưởng điều khiển
nhóm mình sao cho từng thành viên trong nhóm không thể trốn tránh công việc,
hoặc trách nhiệm học tập. Mọi thành viên đều phải học, đóng góp phần mình
vào công việc chung và thành công của nhóm. Mỗi thành viên thực hiện một vai
trò nhất định, các vai trò ấy được luân phiên thường xuyên trong các nội dung
hoạt động khác nhau. Mỗi thành viên trong nhóm đều hiểu rằng không thể dựa
vào công việc của người khác, giáo viên có trách nhiệm phải nhắc nhở học sinh,
phải phân công công việc một cách cụ thể cho nhóm trưởng, để nhóm trưởng
điều khiển nhóm phân công công việc cụ thể cho các thành viên trong nhóm
mình, và nhiệm vụ giáo viên đưa ra phải vừa sức với học sinh, không quá khó
cũng như không quá dễ.
Tóm lại, dạy học theo mô hình dạy học mới (VNEN), giáo viên tổ chức cho học
sinh học nhóm, trong nhóm cùng trao đổi, chia sẻ, tự tìm tòi những kinh nghiệm,
kiến thức mới hay giải quyết những nhiệm vụ học tập được giao, thành viên
trong nhóm có thể đổi chéo bài để kiểm tra kết quả của nhau, nhằm tìm ra các
lỗi sai và sửa chữa cho nhau, như vậy thì học sinh dễ khắc sâu kiến thức bài học.
GVHD: Mai Thị Liên Giang

17

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng



Khóa luận tốt nghiệp
Trong khi đó, giáo viên phải bao quát, theo dõi hoạt động của học sinh và sẵn
sàng làm cố vấn, trọng tài hay hỗ trợ các nhóm khi cần thiết.
Hình thức trò chơi học tập:
Trò chơi học tập bao gồm các trò chơi có mục đích học tập rõ rệt. Trong dạy
học chính tả ở Tiểu học, đặc biệt là ở lớp 5, trò chơi học tập có nhiều tác dụng
gây hứng thú học tập, góp phần làm cho tiết học trở nên sinh động, kích thích trí
tưởng tượng, trí nhớ, tính nhanh nhẹn, chính xác… của học sinh.
Hoạt động chủ yếu là tổ chức chơi theo từng nhóm trong lớp. Khi chơi, học sinh
phải sử dụng cùng một lúc nhiều kiến thức đã học.
Hình thức này được áp dụng khi giáo viên dạy chính tả về âm, vần như tổ chức
thi đua giữa các nhóm, các nhóm điền phụ âm đúng với vần đã có hoặc cho một
cụm từ, điền vần phù hợp với phụ âm đã cho để cụm từ có nghĩa…
Để phát huy được tác dụng tích cực của trò chơi học tập trong môn Chính tả,
giáo viên cần chuẩn bị nội dung trò chơi theo phiếu để mọi học sinh đều có thể
tham gia trò chơi. Tùy theo yêu cầu, nội dung từng tiết học mà chọn thời điểm tổ
chức trò chơi, nên phối hợp giữa hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm và hoạt
động của cả lớp khi tổ chức trò chơi học tập.
Thực tế cho thấy việc vận dụng hình thức trò chơi giúp học sinh trung bình dễ
tiếp thu hơn và nhớ lâu hơn kiến thức được học.
1.4.3.7 Những yêu cầu về kỹ năng viết chính tả trong phân môn chính tả lớp
5:
Rèn kỹ năng viết chính tả và kỹ năng nghe
* Nhớ - viết là kiểu bài yêu cầu học sinh nhớ và viết lại chính xác tất cả các từ,
câu trong một đoạn của một bài thơ đã học. Kiểu bài này có tác dụng giúp học
sinh nhớ lại kiến thức đã học, nhớ mặt chữ các từ trong câu, đoạn.
Yêu cầu đặt ra trong kiểu bài nhớ - viết là học sinh phải học thuộc lòng bài thơ
đã học, và nhớ để viết lại một cách chính xác.
* Kiểu bài chính tả nghe – viết: Yêu cầu học sinh nghe từng từ, từng câu do

giáo viên đọc, vừa nghe vừa tái hiện lại dưới hình thức chữ viết các từ, câu ấy.
GVHD: Mai Thị Liên Giang

18

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
Nói cách khác, học sinh phải có năng lực chuyển hóa ngôn ngữ âm thanh thành
ngôn ngữ viết.
Yêu cầu đặt ra là học sinh phải viết đủ số âm tiết đã nghe, viết đúng và nhanh
theo tốc độ quy định (học sinh phải biết phối hợp nghe , nhớ để viết).
* Các chỉ tiêu cần đạt:
- Viết đúng mẫu, đúng chính tả, không mắc quá 5 lỗi/ 1 bài trên dưới 100 chữ.
- Đạt tốc độ viết tối đa khoảng 100 chữ/ 15 phút.
* Kết hợp luyện tập chính tả với việc rèn luyện cách phát âm, củng cố nghĩa của
từ, trau dồi về ngữ pháp tiếng Việt, góp phần phát triển một số thao tác tư duy
(nhận xét, so sánh, liên tưởng, ghi nhớ, tái hiện…)
* Bồi dưỡng một số đức tính và thái độ cần thiết trong công việc như: cẩn thận,
chính xác, có óc thẩm mỹ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm cao,…
Trên đây chỉ là những tiêu chí, yêu cầu chung mà học sinh cần đạt. Nhưng khi
thiết kế tiết dạy (soạn giáo án), giáo viên cần xác định mục tiêu bài học sao cho
phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Trong lớp học, mức độ lĩnh hội các
kiến thức ở mỗi học sinh rất khác nhau, nếu học sinh học giỏi mà học như mọi
học sinh khác sẽ không phải động não, sinh ra chủ quan, học sinh nhận thức kém
thì không lĩnh hội được kiến thức dẫn đến chán nản, không tập trung, làm việc
riêng…Vì vậy giáo viên cần điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với
từng loại đối tượng học sinh, để học sinh có thể khắc phục được lỗi chính tả và
có kỹ năng viết đúng chính tả.

1.4.3.8 Trình tự lên lớp của tiết chính tả lớp 5:
A. Ôn lại bài cũ: (2-3 phút)
Giáo viên cho học sinh nghe – viết một số từ ngữ đã được luyện tập hoặc học
sinh viết sai ở tiết học trước…
B. Dạy bài mới:
1. Giới thiệu bài: Nêu yêu cầu của bài tập chính tả.
2. Hướng dẫn học sinh viết chính tả:
Chính tả nghe – viết:
GVHD: Mai Thị Liên Giang

19

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
a. Hướng dẫn chính tả (8 – 10 phút)
- Giáo viên đọc toàn bài một lượt cho học sinh nghe trước khi học sinh viết. Khi
đọc giáo viên cần phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải, tạo điều kiện cho học sinh
chú ý đến những hiện tượng chính tả cần chú ý.
- Giúp học sinh hiểu nội dung bài chính tả.
- Hướng dẫn học sinh nhận xét về các hiện tượng chính tả cần chú ý trong bài.
- Tổ chức cho học sinh viết trước (giấy nháp, bảng con) những từ ngữ dễ viết
sai chính tả (bước phát hiện và luyện viết chữ khó viết, dễ sai chính tả rất quan
trọng giúp học sinh không mắc vào lỗi chính tả).
b. Học sinh viết bài (13 – 15 phút)
- Đọc cho học sinh viết từng câu hay từng cụm từ. Mỗi câu hoặc cụm từ đọc 2
lần: đọc lượt đầu chậm rãi cho học sinh nghe, đọc nhắc lại một lần cho học sinh
kịp viết theo tốc độ viết ở quy định lớp 5.
- Đọc toàn bài lần cuối cho học sinh soát lại (dò bài).

Chính tả nhớ - viết: Tiến hành các bước giống chính tả nghe – viết.
- Tổ chức cho học sinh ôn lại đoạn, bài cần viết trước khi viết: một, hai học sinh
đọc thuộc lòng trước lớp, các học sinh khác nhẩm theo.
- Hướng dẫn học sinh nhận xét về các hiện tượng chính tả cần chú ý trong bài.
- Tổ chức học sinh tập viết trước (vào giấy nháp) những từ dễ viết sai chính tả.
- Tổ chức cho học sinh viết theo tốc độ quy định của học sinh lớp 5 (được cụ
thể trong từng giai đoạn).
3. Chấm và chữa bài chính tả: (4 – 5 phút).
- Mỗi giờ chính tả, giáo viên chọn chấm một số bài của học sinh. Đối tượng
được chọn chấm bài ở mỗi giờ là:
+ Những học sinh đến lượt được chấm bài.
+ Những học sinh hay mắc lỗi, cần được chú ý rèn luyện thường xuyên.
Qua chấm bài, giáo viên có điều kiện rút ra nhận xét và nêu hướng khắc phục
lỗi chính tả cho cả lớp.
4. Hướng dẫn học sinh làm bài tập chính tả (6 – 8 phút)
GVHD: Mai Thị Liên Giang

20

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
Đây là bước giáo viên cần lưu ý giúp học sinh rèn luyện kỹ năng chính tả.
Thường có các loại bài tập bổ trợ như sau:
- Bài tập bắt buộc (chung cho các vùng phương ngữ)
- Bài tập lựa chọn cho từng vùng phương ngữ.
+ Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập.
+ Giúp học sinh chữa một phần của bài tập làm mẫu.
+ Tổ chức học sinh làm bài và báo cáo kết quả.

+ Chữa bài.
C. Củng cố, dặn dò: ( 1 – 2 phút)
Giáo viên nhận xét tiết học, lưu ý trường hợp dễ viết sai trong bài chính tả, yêu
cầu về nhà.
1.5 Một số định hướng trong việc rèn kỹ năng viết chính tả cho học sinh lớp
5:
1.5.1 Cơ sở khoa học của việc dạy chính tả ở Tiểu học:
Cơ sở tâm lý học:
Muốn viết đúng chính tả phải kết hợp rèn luyện chính tả bằng con đường có ý
thức và không có ý thức. Con đường có ý thức là dạy chính tả cho học sinh nắm
vững các quy tắc chính tả và mẹo chính tả để viết đúng. Đó là con đường ngắn
nhất (tiết kiệm được thời gian và công sức) và có hiệu quả cao. Đối với loại
chính tả không có quy tắc thì yêu cầu học sinh phải ghi nhớ cách viết đúng từ
trong trường hợp cụ thể. Theo cách này yêu cầu học sinh ghi nhớ từng mặt chữ,
từng từ. Chẳng hạn, sẽ viết là d trong da thịt, da dẻ, da diết,… sẽ viết là gi trong
quốc gia, gia đình, gia tộc, gia vị,… Con đường không có ý thức có thể áp dụng
cho học sinh Tiểu học vì ở độ tuổi này, học sinh có khả năng ghi nhớ máy móc
khá tốt. Theo cách này, học sinh chỉ cần tập trung nhớ mặt chữ của từng từ viết
đúng. Khi dạy chính tả, cần kết hợp cả hai phương pháp này.
Cơ sở ngôn ngữ học
Muốn viết đúng chính tả cần nắm được đặc điểm của tiếng Việt. Về cơ bản,
chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm (mỗi âm vị được ghi bằng một con chữ),
GVHD: Mai Thị Liên Giang

21

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp

cách đọc và cách viết nhìn chung thống nhất, vì vậy đọc như thế nào thì viết như
thế ấy. Trong giờ học chính tả, học sinh sẽ xác nhận cách viết đúng bằng việc
tiếp nhận chính xác âm thanh của phát âm. Trước hết, giáo viên phải đọc đúng,
tạo cơ sở cho việc viết đúng của học sinh. Chẳng hạn, giáo viên phải đọc chuẩn
từng trường hợp chính tả: Suy nghĩ – nghỉ hè, áo cũ – củ khoai… Căn cứ vào
cách phát âm chuẩn của giáo viên, học sinh dễ dàng xác định được cách viết
đúng trong từng trường hợp chính tả.
Tuy nhiên tiếng Việt có một số điểm chưa hợp lý: một âm có nhiều cách ghi
Âm /k/ có 3 cách ghi, /z/ có 2 cách ghi…). Đối với loại chính tả có quy tắc, cần
cung cấp quy tắc chính tả ngay từ ban đầu, đối với loại chính tả không có quy
tắc, cần cho học sinh ghi nhớ từng trường hợp chính tả cụ thể, đặt vào một ngữ
cảnh cụ thể để xác định cách viết đúng. Đây là một đặc trưng quan trọng về
phương diện ngôn ngữ của chính tả tiếng Việt mà khi dạy chính tả giáo viên cần
lưu ý.
1.5.2 Nguyên tắc dạy chính tả ở Tiểu học:
Nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực
Dạy chính tả theo khu vực nghĩa là nội dung chính tả phải sát hợp với tình hình
thực tế mắc lỗi chính tả của học sinh từng khu vực, từng miền. Việc xác định nội
dung dạy chính tả không chỉ sát hợp với học sinh cả nước mà còn phải sát hợp
với học sinh từng khu vực để khắc phục lỗi chính tả do ảnh hưởng của phương
ngữ. Để thực hiện triệt để nguyên tắc này, sách giáo khoa tiếng Việt Tiểu học đã
xây dựng hai loại bài tập: bài tập bắt buộc và bài tập tự chọn. Loại bài tập bắt
buộc dành cho học sinh cả nước, bài tập tự chọn phù hợp với học sinh từng khu
vực.
Nguyên tắc kết hợp phương pháp tích cực với phương pháp tiêu cực (xây dựng
cái đúng, loại bỏ cái sai)
Bên cạnh phương pháp tích cực (để viết đúng, cần cung cấp quy tắc chính tả
ngay từ ban đầu, kết hợp hướng dẫn học sinh thực hành, luyện tập nhằm hình
thành kỹ năng về chính tả) cần sử dụng phương pháp tiêu cực: đưa ra những
GVHD: Mai Thị Liên Giang


22

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
hiện tượng chính tả sai, hướng dẫn học sinh sửa chữa rồi từ đó hướng dẫn học
sinh loại bỏ lỗi chính tả trong các bài viết.
Để hướng dẫn học sinh sửa chữa các lỗi chính tả theo hướng loại bỏ cái sai, xây
dựng cái đúng, đi từ cái sai đến cái đúng, giáo viên có thể đưa ra những đoạn
văn, đoạn thơ có nhiều lỗi chính tả, yêu cầu học sinh phát hiện ra lỗi sai, tìm
nguyên nhân sai và sửa lại cho đúng. Phương pháp tiêu cực giúp học sinh rèn
luyện óc phân tích, xét đoán đồng thời kiểm tra, củng cố lại kiến thức chính tả
của học sinh. Phương pháp tiêu cực được coi là thứ yếu, có tính chất bổ trợ cho
phương pháp tích cực. Trong quá trình dạy chính tả, giáo viên cần phối hợp một
cách hợp lý, hài hòa cả hai phương tiện.
1.5.3 Những yêu cầu nâng cao hiệu quả kỹ năng viết chính tả cho học sinh
lớp 5:
- Giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ càng trong việc thiết kế bài dạy: Có mục
tiêu, lựa chọn phương pháp, nội dung dạy học phù hợp với năng lực và trình độ
của học sinh.
- Luôn luôn theo dõi, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh để
có cách điều chỉnh, bổ sung kịp thời.
- Giáo viên cho học sinh luyện tập và nhắc đi nhắc lại nhiều lần những chỗ sai,
nhằm củng cố nhiều lần để hình thành kỹ năng viết chính tả cho học sinh.
- Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm, vì vậy muốn học sinh viết đúng, giáo
viên phải đọc đúng, tạo cơ sở cho việc viết đúng.
- Giáo viên cần nắm được các loại lỗi chính tả, nguyên nhân mắc lỗi, các quy
tắc.

1.6 Tiểu kết:
Dạy học chính tả có ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học. Để dạy học chính tả ở Tiểu
học đạt hiệu quả, người giáo viên cần nắm nội dung và phương pháp tổ chức quá
trình dạy học. Nội dung và phương pháp dạy học đã được làm rõ khi tôi phân
tích nhiệm vụ, chương trình, tài liệu dạy học và các cơ sở khoa học của việc dạy
viết chính tả ở Tiểu học. Sự phân tích này sẽ giúp chúng ta trả lời câu hỏi dạy
GVHD: Mai Thị Liên Giang

23

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp
học chính tả ở Tiểu học thực chất là cái gì, và cần dựa trên những căn cứ nào để
tiến hành quá trình dạy học. Bên cạnh đó, chúng ta còn nhận thấy những khó
khăn, thuận lợi của học sinh nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng khi viết chính
tả

GVHD: Mai Thị Liên Giang

24

SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG KỸ NĂNG VIẾT CHÍNH TẢ CỦA HỌC SINH LỚP 5

TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 2 BẮC LÝ – TP.ĐỒNG HỚI – QUẢNG BÌNH
2.1 Khái quát quá trình khảo sát:
2.1.1 Địa bàn nghiên cứu:
Trường Tiểu học Số 2 Bắc Lý là ngôi trường nằm trên địa bàn phường Bắc Lý,
TP.Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Cụ thể:
I/ Tình hình đội ngũ:
- Tổng số CBGV, NV: 35 đồng chí. Biên chế: 31 đồng chí. Hợp đồng: 4 đ/c.
Trình độ: ĐH : 28 đồng chí; CĐ: 5 đồng chí; TC: 2 đồng chí (y tế và kế
toán). Đạt chuẩn cà trên chuẩn trên 100%.
- Đội ngũ đáp ứng với yêu cầu giáo dục hiện nay. Trình độ chuyên môn:
100% GV qua dự giờ đều đạt loại khá và tốt. Không có giáo viên yếu kém về
năng lực.
II/ Tình hình học sinh:
- Tổng số học sinh trong toàn trường: 563
- Khối 1: 136 em/4 lớp. Bình quân: 34 em/ lớp.
- Khối 2: 139 em/4 lớp. Bình quân: 34,8 em/lớp.
- Khối 3: 114 em/4 lớp. Bình quân: 28,5em/ lớp.
- Khối 4: 91 em/3 lớp. Bình quân: 30 em/ lớp.
- Khối 5: 83 em/ 3 lớp. Bình quân: 27,7 em/ lớp.
- Tăng so với năm trước là: 43 em.
Học sinh đa số ngoan, chăm học. Một số em có hoàn cảnh gia đình khó
khăn như: Hộ nghèo và cận nghèo: 10 em, nhiều em bố mẹ li hôn ở với ông bà:
21 em, phần đa là bố mẹ không có việc làm ổn định ảnh hưởng tới việc phối hợp
để giáo dục.
III. Tình hình triển khai nhiệm vụ năm học:

GVHD: Mai Thị Liên Giang

25


SVTH: Lê Thị Cẩm Hằng


×