ĐỀ CƯƠNG ÔN THI HỌC PHẦN TÂM LÝ HỌC DÂN TỘC
1. Nguyên nhân của định kiến dân tộc. Đề xuất những phương thức
giảm thiểu tính định kiến dân tộc?
Trong đời sống tâm lý của một nhóm, của một cộng đồng người của chúng
ta có thể quán sát và chứng kiến những biểu hiện khác nhau trong giao tiếp, trong
ứng xử, mà một trong số đó là hiện tượng định kiến.
Chaplin J.P cho rằng định kiến là thái độ hoặc tích cực hoặc tiểu cực hình
thành trên cơ sở cảm xúc, là lòng tin hoặc cách nhìn không thiện cảm, thậm chí ác
cảm thể hiện trong ứng xử với người khác, trong suy nghĩ về người khác.
A.L.LPORT G.W định kiến là thái độ không thiện chí thù địch đối với thành
viên của nhóm mình hoặc nhóm khác.
Căn cứ từ tính chất duy cảm hơn duy lý thể hiện trong quan hệ giữa các
nhóm tộc người, HERBERT BLUMER nêu lên 4 loại cảm giác của định kiến
thường thấy thuộc tầng lớp thống trị, cảm giác tự cho mình là thuộc nhóm có thứ
bậc cao, cảm giác cho rằng nhóm thiếu số là cách biệt và xa lạ, cảm giác cho rằng
mình là người có đặc quyền đặc lời, cảm giác cho rằng người thiểu số có mưu toan
chiếm đoạt quyền lực, luôn luôn lo sợ và hoài nghi rằng họ có chủ đoạn lật đổ để
chiếm quyền.
Theo ông định kiến của các nhóm chủng tộc cần được các nhà nghiên cứu
quan tâm.trong đó nhóm thống trị luôn tự cho rằng mình có ưu thế, có nhiều quyền
lực về sở hữu nghề nghiệp, quyền sử dụng các thiết chế văn hóa như: trường học
nhà thờ khu vực vui trơi giải trí.
KRAMER MANN lại đưa ra những nhận định khác hơn so với hai tác giá
nêu trên. Định kiến là một thành tố của nhận thức vì có lẽ người ta thường có
những hiểu biết nào đó về đối tượng tiếp xúc nhờ có những tưởng tượng nào đó.
1
Có thể nêu lên một số dấu hiệu đặc trưng của định kiến xã hội như sau: dựa
trên những hiểu biết và nguyên nhân không có căn cứ khoa học và logic thành viên
trong nhóm hoặc các nhóm thừa nhận, dựa trên niềm tin thông tin không chính xác.
Dựa trên thái độ thiếu khách quan của thủ lĩnh của người lãnh đạo. Vấn đề định
kiến dân tộc cũng được nhiều nhà tâm lý học tìm hiểu phân tích và nghiên cứu.
Định kiến có thể nhất trí với định nghĩa cho rằng định kiến dân tộc là thái độ ứng
xử mang tính tiểu cực của thành viên thuộc nhóm này đối với thành viên của nhóm
khác. Trong giao tiếp, người ta thường muốn biết những nét chung nhất về người
đang đối thoại, đang có quan hệ với mình, đặc biệt người đó tuộc về một tộc người
khác.khi định khuôn trở thành định kiến thi hành vi ứng xử của người ta thường
thiện lệnh, thậm chí sai lệch trong nhìn nhận đánh giá và biểu cảm.
Nguyên nhân của định kiến dân tộc?
+ Sự cạnh tranh về kinh tế,về chính trị giữa các tộc người, giữa các dân tộc
diễn ra trong một khu vực, một châu lục hoặc trên phạm vi thế giới.định kiến dân
tộc cũng bắt nguồn tù sự thành bại trong chiến tranh,trong thương mại,tranh chấp
về lãnh thổ về vị thế ảnh hưởng,từ những lo sợ về vị thế có thể bị giảm sút hoặc
mất đi trong tương lai.
+ Nhận thức sai lệch về dân tộc khác.quan niệm hiểu biết không đầy
đủ,không chính xác, không đúng đắn về dân tộc khác,tộc người khác thường dẫn
đến những định kiến sâu sắc trong quan hệ giữa các cộng đồng người, giữa các
nhóm người. Nhận thức sai lệch cũng có thể bắt nguồn từ những niệm tin và giá trị
khác nhau.
+ Sự tuân theo các chuẩn mực xã hội. Ở miền nam nước mỹ các chuổn mực
trong cộng đồng người da trắng thường gây ra thái độ thù địch và có những tác
động tai hại đến người da đen.
+ Các yếu tố xã hội. Thái độ với các nhóm khác thông thường sẽ có ảnh
hưởng đến nhận thức và hành vi của con người trước hết là trẻ em.
2
Trái lại nói đến người da đen là người ta liên tưởng ngay bệnh hoạn, tàn bạo,
ác độc và chết chóc. Quan điểm này không phải tự nhiên hình thành ở trẻ,mà do
yếu tố xã hội tắc động bằng nhiều cách thức khác nhau.
Những cản trợ xã hội dù lớn hoặc nhỏ đều có ảnh hưởng đến những tiến bộ về kinh
tế xã hội.những cản trợ này trở thành những biểu hiển của chủ nghĩa phân biệt chủ
tộc một cách có chủ định và có tổ chức. Trẻ em thuộc nhóm tộc người đa số đã
thấy đượcnhững trở ngại đó đã trở thành những kẻ muốn duy trì những vật cản đó.
Sự phân biệt chủng tộc đã được duy trì một cách có tổ chức và thành công
này diễn ra bằng sự đáp án và kiểm soát dựa trên những nguồn thông tin và giá trị
nhất định, được cộng đồng quảng bá và thể hiện trong quan hệ với dân tộc khác, sự
phân biệt chủng tộc cũng được thực hiện từ phía xã hội và từ phía cá nhân.
Các báo cáo nghiên cứu gần đây như báo cáo “Phân tích xã hội quốc gia –
Dân tộc và phát triển ở Việt Nam” đã chỉ ra rằng đang có sự kì thị và định kiến đối
với người dân tộc thiểu số từ phía chính quyền địa phương và từ cộng đồng dân tộc
đa số. Những kì thị và định kiến này thường không dễ mô tả và trong nhiều trường
hợp là không chủ ý. Tuy nhiên, có rất ít các nghiên cứu sâu về kì thị và định kiến
đối với người dân tộc thiểu số và tác động của chúng tới việc xây dựng chính sách,
cách thức thực hiện các chương trình, sinh kế và văn hoá của người dân tộc thiểu
số. Không có nghiên cứu nào đưa ra các công cụ đo lường mức độ kì thị và định
kiến với người dân tộc thiểu số cũng như nguyên nhân của sự kì thị với người dân
tộc thiểu số tại Việt Nam.
Do vậy, để giải quyết tình trạng kì thị và định kiến đối với người dân tộc
thiểu số thì cần thiết phải thực hiện nghiên cứu về vấn đề này nhằm đưa ra những
bằng chứng và giải pháp giúp chính phủ cũng như các tổ chức phát triển.
Kết quả đầu tiên của nghiên cứu này sẽ là một tập hợp các khái niệm, công cụ và
thang đo về kì thị và định kiến sẽ được phát triển để chính quyền, cộng đồng
những người làm công tác phát triển, các cơ quan nghiên cứu và những người có
quan tâm đến kì thị và đinh kiến đối với người dân tộc thiểu số sử dụng.
3
Nghiên cứu này sẽ quan tâm trả lời hai câu hỏi: (i) Làm thế nào để đo lường được
mức độ kì thị và định kiến đối với người dân tộc thiểu số trong xã hội Việt Nam?
và (ii) Làm thế nào để đo lường được sự tự kì thị của người dân tộc thiểu số tại
Việt Nam? Để trả lời cho hai câu hỏi này, các nghiên cứu viên của iSEE sẽ xem
xét các tài liệu chính về kì thị và định kiến với người dân tộc thiểu số; gặp gỡ với
những chuyên gia và những nhà nghiên cứu khác có quan tâm và kinh nghiệm về
chủ đề này. Kết quả của hoạt động này là một tóm tắt các công trình nghiên cứu
tương tự trên thế giới và ở Việt Nam. Nối tiếp hoạt động nghiên cứu các tài liệu
sẵn có và gặp gỡ các chuyên gia, iSEE sẽ phát triển khái niệm, phương pháp và
thang đo mức độ kì thị và định kiến đối với người dân tộc thiểu số tại Việt Nam.
Các khái niệm, và thang đo này sẽ được phát triển thông qua việc tham vấn một
cách rộng rãi giữa các nhà nghiên cứu và được kiểm tra độ tin cậy tại thực địa.
Các kết quả của dự án này có ý nghĩa quan trọng vì nó sẽ được nhiều tổ chức khác
nhau sử dụng trong công việc của họ. Đối với iSEE, nó sẽ được sử dụng cho các
nghiên cứu về kì thị và định kiến với người dân tộc thiểu số của chính quyền địa
phương nơi người dân tộc thiểu số sinh sống. Nó đồng thời cũng được sử dụng cho
nghiên cứu về sự tự kì thị của chính người dân tộc thiểu số. Kết quả của nghiên
cứu này cũng sẽ được sử dụng để nâng cao nhận thức về kì thị, định kiến và hậu
quả cho công chúng cũng như những nhà lập chính sách và chính quyền địa
phương ở các cấp và có thể trợ giúp để thiết kế những chính sách và chương trình
tốt, trong đó đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, trao quyền và quyền văn hoá của
người dân tộc thiểu số.
- Những phương thức giảm thiểu định kiến dân tộc?
+ Thay đổi thái độ.tiến hành các chiến dịch dung hòa thái độ của đa số,thái
độ của con người có thể được thay đổi bằng những giao tiếp thích hợp thông qua
các phương tiện đại chúng có thể tổ chức các chiến dịch làm giảm thiểu sự thù hằn
và các định kiến dân tộc
4
+ Thay đổi cách thức giáo dục trẻ em. Hành vi của cha mẹ có dẫn đến chủ
nghĩa độc đoán và từ đó hình thành định kiến dân tộc ở trẻ.
+ Thay đổi hành vi. Nhiều nhà tâm lý học mỹ khẳng định rằng thay đổi hành
vi sẽ dẫn đến thay đổi định kiến. Đây là một kết luận có căn cứ,vì thay đổi thái độ
sẽ dẫn đến thay đổi hành vi.
+ Tiếp xúc trên cơ sở bình đẳng về vị thế. Sự giao tiếp giữa người da đen và
da trăng trở nên thân thiện hơn,dễ thông cảm với nhau hơn,hai bền đều có nguyện
vọng hợp nhất ắc sẽ tiến tới chỗ phát triển thành sự thống nhất chủng tộc.
Để thay đổi thái độ một cách tích cực cần tạo ra các điều kiện:
. Khuyến khích các cuộc tiếp xúc của hai nhóm có vị thế bình đằng như
nhau ,không ai có địa vị cao hơn ai.
. Khuyến khích hợp tác để đạt được hiệu quả nếu hai bền phải phụ thuộc lẫn
nhau phải dựa vào sự hỗ trợ của nhau.
. Các chuẩn mực xã hội phải có tác dụng khuyến khích sụ liên kết mang tính
tương tác và thống nhất của các hai bên.
. Tình huống tiếp xúc phải thúc đẩy hành thành các quan hệ cá nhân tạo lập
nên tình bạn thân ai tham gia vào các cuộc tiếp xúc mỗi bên phải phủ định các kiểu
định kuôn tiêu cực thể hiện trong thái độ đối với nhau.
. Tính huống tiếp xúc có tác dụng đề cao và quảng bá những thái độ đã biến
đổi thay cho các tình huống khác đã xảy ra trong quá khứ.
Các nhà tâm lý học đã tạo ra được các tình huống tiếp xúc trong đó cả 6 điều
kiện trên đay đều phát huy tác dung tốt và thái độ chủng tộc đã được khắc phục sau
khi cuộc thí nghiệm kết thúc.
Với mục tiêu thúc đẩy sự bình đẳng và giảm định kiến với người dân tộc
thiểu số, ông Lê Quang Bình, Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế- Xã hội và
5
Môi trường đã đưa ra kết quả nghiên cứu, phân tích từ những chính sách và truyền
thông. Theo đó, các thách thức và những điều không mong đợi từ các chương trình
phát triển cần được giải quyết thông qua giảm thiểu những cách nhìn sai lệch mang
tính định kiến về người dân tộc thiểu số, đề cao đa dạng văn hóa, nâng cao tính
nhạy cảm văn hóa trong các chương trình và chính sách phát triển. Ông Bình cũng
khẳng định: Quan niệm mô hình kinh tế thị trường, hiện đại hóa là con đường duy
nhất để xóa đói giảm nghèo và phát triển đã dẫn đến sự phủ nhận kiến thức bản
địa, áp đặt cách thức làm ăn và những hệ quả xa hơn là tâm lý thụ động, mất tự tin
vào bản thân của người dân tộc thiểu số. Thực trạng này đang làm giảm hiệu quả
của các chính sách phát triển vốn được thiết kế để mang lại lợi ích cao nhất cho
đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
2. Vấn đề xung đột dân tộc. Liên hệ thực tiễn ở việt nam hiện nay?
Xung đột giữa các dân tộc là một vấn đề lịch sử và đã xuất hiện từ rất sớm
trong lịch sử nhân loại. Ngay cả thời kỳ của các bộ tộc nguyên thuỷ đã xảy ra
những cuộc xung đột và chiến tranh giữa các bộ tộc và lợi ích của mình. Càng về
sau này các cuộc xung đột dân tộc diễn ra ngày càng lớn hơn và để lại hậu quả
nghiêm trọng hơn. Ngày nay, xu hướng xung đột và hợp tác là hai xu hướng cơ
bản của các dân tộc. Trong quá trình giao lưu và hợp tác với có thể dẫn đến xung
đột về lợi ích, văn hoá và trong quá trình xung đột các dân tộc lại tìm cách để hoà
giải và hợp tác với nhau. Trên thế giới, nhiều quốc gia buộc phải dùng đến biện
pháp “cực chẳng đã” để giải quyết những xung đột tôn giáo, sắc tộc. Trong nhiều
trường hợp, người ta đã không lường trước được mức độ nguy hiểm của âm mưu
tạo cớ gây xung đột tôn giáo, sắc tộc của các thế lực thù địch thông qua các vụ việc
cụ thể. Khi tình hình đã khó kiểm soát, hiệu quả của các “biện pháp mạnh” rất dễ
gây phương hại không đáng có trong các mối quan hệ đa phương quốc tế, ảnh
hưởng đến tiến trình bảo vệ và phát triển của một quốc gia.
Xung đột dân tộc là vấn đề đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu từ các nghành khoa học khác nhau, trong đó có khoa học tâm lý.
6
- Xung đột giữa các quốc gia: Là xung đột trong quan hệ quốc tế, là sự
tương tác có tính cưỡng bức, được thể hiện rõ giữa các quốc gia, các cộng đồng đối
kháng với nhau. Đó là quá trình các bên xung đột tìm cách làm tổn hại, gián đoạn
hoạt động hoặc tiêu diệt lẫn nhau. Xung đột quốc tế mang tính rất đa dạng, được
biểu hiện ở nhiều hình thức khác nhau như: Chiến tranh thế giới, chiến tranh khu
vực, chiến tranh giữa hai quốc gia hoặc trong lòng một quốc gia có sự can thiệp,
hậu thuẫn của các lực lượng bên ngoài, hoặc cũng có thể là những cuộc bạo động,
chính biến, những cuộc khủng hoảng chính trị, ngoại giao, quân sự, tranh chấp
biên giới, lãnh thổ, những bất đồng quan điểm, các cuộc chạy đua tranh giành ảnh
hưởng...
Những năm gần đây, chỉ trong khu vực châu Á đã xảy ra hàng loạt các
cuộc xung đột quốc tế với quy mô, mức độ và tính chất khác nhau như:
khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên; tranh chấp về chủ quyền các
hòn đảo giữa Nhật Bản và Hàn Quốc, giữa Nhật Bản và Trung Quốc, giữa
Nhật Bản và Nga, căng thẳng giữa Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản xoay
quanh cuốn sách giáo khoa lịch sử của Nhật Bản, căng thẳng giữa Trung
Quốc và Đài Loan về việc tuyên bố độc lập của Đài Loan, tranh chấp về
lãnh thổ ở Biển Đông giữa các nước trong khu vực, cuộc chiến với phiến
quân Hồi giáo ở các đảo miền Nam Phi-lip-pin, tranh chấp vùng biển giữa
In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a, tranh chấp giữa Ma-lai-xi-a và Thái Lan, giữa
Thái Lan và Cam-pu-chia. Ngoài ra, còn xảy ra rất nhiều cuộc xung đột,
khủng hoảng khác ở Trung Đông và Bắc Phi được ví như hiện tượng “Mùa
xuân Ảrập” ở các quốc gia như Ai Cập, LiBi, Xyri, Yêmen.... và trên thế
giới. Các cuộc xung đột quốc tế rất đa dạng về hình thức, mức độ, quy mô,
tính chất và đối tượng tham gia.
Nguyên nhân của xung đột dân tộc:
Các nhà xã hội học, chính trị học và tâm lý học đều quan tâm đến việc tìm ra
nguyên nhân của xung đột dân tộc.
7
Theo hướng tiếp cận xã hội học và chính trị học:
* Xã hội học: tìm nguyên nhân của xung đột dân tộc bằng việc phân tích mối
liên hệ giữa sự phân tầng xã hội với thuộc tính dân tộc của người dân.
* Chính trị học: giải thích nguyên nhân của xung đột dân tộc là vai trò của
giới thượng lưu, mà trước hết là đội ngũ tri thức và đội ngũ chính trị trong việc huy
động tình cảm dân tộc và trong việc leo thang của căng thẳng dân tộc tới mức xung
đột công khai.
Theo các nhà chính trị học, xung đột dân tộc bao gồm những nguyên nhân
khách quan và những nguyên nhân chủ quan.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Sự tranh chấp biên giới, xâm chiếm lãnh thổ;
+ Phân biệt tín ngưỡng, ngược đãi tín ngưỡng, va chạm các giá trị tôn giáo;
+ Phong toả hàng hoá, thiết lập hàng rào giá cao, tuyên bố độc quyền thương
mại, cấm vận thương mại;
+ Khói mù, mưa acid, ô nhiễm nguồn nước, tiêu chuẩn môi trường;
+ Khai thác khoáng sản tự nhiên, tranh chấp nguồn tài nguyên;
+ Hệ tư tưởng, nhân quyền, dân chủ, nhóm đối lập;
Ngoài ra, còn có các nguyên nhân: xuyên tạc lẫn nhau; vấn đề hạt nhân;
xung đột văn hoá; sách giáo khoa lịch sử...
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Những nhóm dân tộc có sự phân chia danh giới hành chính tương đối rõ
ràng. Tổ chức nhà nước dựa vào nguyên tắc lãnh thổ dân tộc.
+ Sự tương đối khác nhau ở địa phương kết hợp với sự tập trung cao ở trung
ương (các vùng khác nhau về kinh tế, tín ngưỡng, văn hoá, dân tộc).
8
+ Có sự thay đổi kinh tế, xã hội, chính trị lớn trong quốc gia.
+ Sự yếu kém của các cơ quan chính quyền có vai trò đảm bảo sự điều phối
và giải quyết các tình huống xung đột trong nước.
+ Văn hoá hoà giải, thoả thuận kém phát triển trong xã hội.
Theo hướng tiếp cận của tâm lý học:
Từ góc độ tâm lý học, có thể thấy một số nguyên nhân dẫn đến sự hình
thành xung đột dân tộc:
. Xung đột giữa các dân tộc là kết quả của những đặc điểm tâm lý tổng hợp
Nhiều nhà nghiên cứu đã lý giải sự xung đột xã hội như là một hình thức mà
một số dân tộc có nhu cầu xâm kích hay có nhu cầu kích động con người.
Tác giả của của một trong những quan điểm tâm lý xã hội đầu tiên là
U.MacDaugan (1871 – 1935). Tác giả đã gán cho các cuộc đấu tranh tập thể “bản
năng đánh nhau”. Hướng tiếp cận này gọi là mô hình thuỷ lực, bởi vì xâm kích
theo quan điểm của ông không phải là phản ứng với sự tức giận, mà là hành động
mang tính bản năng của con người. Hay nói cách khác, nó mang nhiều tính chất vô
thức hơn là có ý thức.Mô hình thuỷ lực cũng là nền tảng trong tư tưởng của S.
Freud về nguyên nhân chiến tranh trong lịch sử nhân loại. S. Freud cho rằng sự thù
địch giữa các nhóm là tất yếu và luôn luôn tồn tại về xung đột lợi ích trong quan hệ
giữa con người và xung đột này chỉ có thể giải quyết bằng bạo lực. Theo ông, con
người có một ham muốn vô lý, đó là ham muốn chết. Lúc đầu, ham muốn này
hướng vào bên trong, nhưng sau đó lại hướng ra thế giới bên ngoài, bởi vì điều này
tốt hơn cho con người. Sự thù địch này cũng có lợi cho nhóm bởi vì nó làm nhóm
ổn định, hình thành nên tình cảm chung ở các thành viên nhóm.
Liên hệ thực tiễn:
Ở nước ta, cũng từng xảy ra khi bọn phản động lưu vong bịa đặt ra cái gọi
là Nhà nước Đề-ga độc lập và Tin Lành Đề-ga ở Tây Nguyên nhằm tuyên
9
truyền, kích động, gây xung đột sắc tộc, tạo tiền đề cho sự chia rẽ, li khai, gây
mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Gần đây, lợi dụng chính
sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, một số phần tử phản
động nhân danh những người Công giáo chân chính đã tìm cách tạo ra sự hiềm
khích lương - giáo, giữa đa số người dân không theo đạo với giáo dân ở một số
khu vực, vùng miền. Chúng thường dùng chiêu bài đòi lại đất cũ của nhà thờ
hay cố tình tạo ra biến cố xung đột với chính quyền địa phương bằng những
hành động vi phạm pháp luật, qui định nơi công cộng.... Sở dĩ một số kẻ cố tình
gây rối, bất chấp pháp luật như vậy vì chúng tin rằng, có thể thông qua việc tạo
ra những xung đột tôn giáo, sắc tộc để những thế lực đứng đằng sau mượn cớ
“tự do, nhân quyền” lên án cái gọi là “đàn áp tôn giáo, sắc tộc” của Nhà nước ta.
Bất chấp đạo lý, bất chấp pháp luật, cố tình tạo xung đột với chính quyền địa
phương một số kẻ ngang nhiên dựng nhà trái phép trên khu bảo tồn chứng tích
tội ác chiến tranh khu tháp chuông nhà thờ Tam Tòa (Đồng Hới – Quảng Bình);
tụ tập trái phép gây mất trật tự công cộng và đập phá tài sản một số cơ quan ở
khu vực 42 Nhà Chung, phá hoại tài sản của Công ty may Chiến Thắng ở Thái
Hà (Hà Nội); hay gần đây nhất là vụ xây dựng trái phép cây thánh giá bằng bê
tông trên đỉnh núi Chẽ (còn gọi là núi Thờ) thuộc huyện Mỹ Đức (Hà Nội)…
Đây là những hành động không phù hợp với tôn chỉ của bất cứ tôn giáo nào, đặc
biệt là của những người Công giáo chân chính với mong ước “sống phúc âm
trong lòng dân tộc”, cùng với cộng đồng xã hội xây dựng một cuộc sống “tốt
đời, đẹp đạo”. Đó chỉ là hành vi của một số phần tử phản động, cố tình làm theo
sự giật dây của các thế lực thù địch, nhằm tạo ra những bất ổn xã hội.
Như vậy, xung đột dân tộc là vấn đề xã hội lớn có tính thời sự của nhiều quốc gia
và toàn cầu hiện nay. Có rất nhiều nhà nghiên cứu từ các nghành khoa học khác
nhau, mỗi ngành khoa học có cách tiếp cận riêng theo phạm vi nghiên cứu của
mình để tìm ra những nguyên nhân xung đột dân tộc, những biện pháp để hoà giải
xung đột dân tộc... Với cách tiếp cận tâm lý học, chúng ta có thể thấy các giai đoạn
10
phát triển, các nguyên nhân tâm lý và các biện pháp tâm lý trong giải quyết xung
đột dân tộc.
Trong xu thế quốc tế hiện nay, với sự tham gia của nhiều chủ thể mới, nhiều
mối quan hệ mới nảy sinh và phát triển làm cho xung đột dân tộc cũng xuất hiện
nhiều hơn, khó giải quyết hơn. Để giải quyết tốt vấn đề xung đột dân tộc, đòi hỏi
mỗi quốc gia, dân tộc phải sử dụng tổng hợp các biện pháp, trong đó có các biện
pháp tâm lý.
Đối với nước ta, việc tìm ra những nguyên nhân tâm lý và những biện pháp
tâm lý trong hoà giải xung đột dân tộc giúp cho Đảng và Nhà nước có những chủ
trương, chính sách đúng đắn trong công tác dân tộc, góp phần xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc, phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
3. Đặc điểm tâm lý học dân tộc Việt Nam rút ra ý nghĩa thực tiễn?
Tính dân tộc có thể được hiểu là những đặc điểm nổi bật của cộng đồng
người có chung lãnh thổ, ngôn ngữ, phương thức và chế độ chính trị trải qua một
thời kì lịch sử lâu dài. Tính dân tộc không bộc lộ một cách rõ ràng, cụ thể thành
yếu tố hữu hình mà nó thấm vào trong cảm xúc, trong cách nhìn và phương thức
thể hiện của tác phẩm. Nhà văn không phải cứ chăm chú miêu tả về cảnh sắc thiên
nhiên hay kể về những tên đất, tên làng gắn liền với dân tộc mình đang sinh sống
thì tác phẩm mới có tính dân tộc. Đọc tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
chúng ta thấy trong tác phẩm xuất hiện nhiều địa danh, nhân vật, kể cả cốt truyện
đều có nguồn gốc từ đất nước Trung Hoa, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được
tâm hồn dân tộc thấm đẫm trong những trang Kiều.
Rõ ràng, một tác phẩm có tính dân tộc là tác phẩm thể hiện được “tính cách
dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời” (1, 103).Tính cách dân tộc là “những
nét phẩm chất lặp đi lặp lại tạo thành bộ mặt tinh thần của dân tộc” (1, 104). Chẳng
hạn, người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay đều có chung một nét tính cách phổ
biến là chịu thương, chịu khó, giàu đức hi sinh, giàu lòng yêu thương và thủy
11
chung, son sắt. Tính cách đó đã hình thành từ thời xa xưa, được lưu giữ qua truyền
thuyết, truyền tụng trong nhiều bài ca dao và truyện kể khác.
Đến thời kì văn học trung đại ta bắt gặp tính cách ấy trong hình tượng nàng
Kiều – một người con gái rất mực xinh đẹp, tài hoa. Mặc dù đang sống trong cảnh
“êm đềm trướng rũ màn che” nhưng khi gia đình gặp cơn nguy biến, Kiều sẵn lòng
hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ của mình với Kim Trọng, hi sinh cả bản thân mình để
bán mình cứu cha “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Mười lăm năm lưu lạc
với biết bao đau đớn, ê chề, tủi nhục cũng không làm phai nhạt đi những nét tính
cách, phẩm chất đáng quí của nàng mà ngược lại chính hoàn cảnh éo le càng làm
nổi bật thêm vẻ đẹp tâm hồn đó . Tác giả khắc hoạ một nàng Kiều đầy đủ nhất với
tấm lòng trong trắng, thủy chung, giàu đức hi sinh và luôn dành hết nỗi lo lắng,
nhớ thương cho những người mà Kiều thương yêu:
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc thống nhất gồm 54 dân tộc. Dân tộc
Kinh chiếm 87% dân số; 53 dân tộc còn lại chiếm 13% dân số, phân bố rải rác trên
địa bàn cả nước. 10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người là: Tày,
Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê; 20 dân tộc có số
dân dưới 100 ngàn người; 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn
người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người Cống, Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Ơ
Đu, Brâu). Đặc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta là sự cố kết
dân tộc, hoà hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành truyền
thống, thành sức mạnh và đã được thử thách trong các cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử
cho đến ngày nay. Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết
cấu công xã nông thôn bền chặt sớm xuất hiện. Trải qua lịch sử liên tục chống
ngoại xâm, dân tộc ta đã hình thành rất sớm và trở thành một quốc gia dân tộc
thống nhất ngay dưới chế độ phong kiến. Đoàn kết là xu hướng khách quan cố kết
các dân tộc trên cơ sở có chung lợi ích, có chung vận mệnh lịch sử, chung một
tương lai, tiền đồ. Tuy nhiên, bên cạnh mặt cố kết tạo nên tính cộng đồng chung,
có nơi có lúc vẫn xảy ra hiện tượng tiêu cực trong quan hệ dân tộc. Chủ nghĩa đế
12
quốc và các thế lực thù địch lại luôn luôn dùng mọi thủ đoạn chia rẽ dân
tộc và can thiệp vào nội bộ nước ta. Do đó, phát huy truyền thống đoàn kết, xoá bỏ
thành kiến, nghi kỵ dân tộc và kiên quyết đập tan mọi âm mưu chia rẽ dân tộc của
kẻ thù là nhiệm vụ trọng yếu của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày
càng tăng, tuy trong từng khu vực nhất định có những dân tộc sống tương đối tập
trung, nhưng không thành địa bàn riêng biệt. Do đó, các dân tộc ở nước ta không
có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng và sự thống nhất hữu cơ giữa dân tộc
và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng được củng cố.
Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột trong lịch
sử nên trình độ phát triển kinh tế, văn hoá... giữa các dân tộc còn khác biệt, chênh
lệch nhau. Tình trạng chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá... giữa các
dân tộc, giữa các vùng dân cư là một đặc trưng cần quan tâm nhằm từng bước khắc
phục sự chênh lệch đó để thực hiện bình đẳng, đoàn kết dân tộc ở nước ta. Nhiều
vùng dân tộc thiểu số canh tác còn ở trình độ rất thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tự
nhiên. Đời sống vật chất của bà con dân tộc thiểu số còn thiếu thốn, tình trạng
nghèo đói kéo dài, thuốc chữa bệnh khan hiếm, nạn mù chữ và tái mù chữ còn ở
nhiều nơi. Đường giao thông và phương tiện đi lại nhiều vùng rất khó khăn; điện,
nước phục vụ cho sản xuất đời sống nhiều vùng còn rất thiếu; thông tin, bưu điện
nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu của đời sống, nhất là ở vùng cao, vùng xa xôi hẻo
lánh... Cùng với nền văn hoá cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc
Việt Nam đều có đời sống văn hoá mang bản sắc riêng rất phong phú. Bởi vì, bất
cứ dân tộc nào, dù nhiều người hay ít người, đều có nền văn hoá riêng, phản ánh
truyền thống lịch sử, đời sống tinh thần, niềm tự hào của dân tộc bằng những bản
sắc độc đáo. Đặc trưng của sắc thái văn hoá dân tộc bao gồm: ngôn ngữ tiếng nói,
văn học, nghệ thuật, tình cảm dân tộc, y phục, phong tục tập quán, quan hệ gia
đình, dòng họ... Một số dân tộc có chữ viết riêng (Khơme, Chăm, Thái, Mông,
Giarai, Êđê ). Một số dân tộc thiểu số gắn với một vài tôn giáo truyền thống
(Khơme – với đạo Phật; Chăm – với Islam, Bàlamôn ); một vài dân tộc gắn với đạo
13
Tin Lành, đạo Thiên Chúa... Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng bản
sắc văn hoá riêng và tôn trọng tự do tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Sự phát triển đa
dạng mang bản sắc văn hoá của từng dân tộc càng làm phong phú thêm nền văn
hoá của cả cộng đồng. Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 13% dân số cả nước
nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh
tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế, đó là các vùng biên giới, vùng
rừng núi cao, hải đảo... Nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số trước đây là căn cứ
cách mạng và kháng chiến. Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc với các dân tộc ở
các nước láng giềng và khu vực. Xuất phát từ tình hình, đặc trưng cơ bản của dân
tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề chính sách dân
tộc xem xét nó như là vấn đề xã hội - chính trị rộng lớn, toàn diện gắn liền với các
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ý nghĩa thực tiễn:
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó,
người Kinh là dân tộc đa số. Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam chủ yếu sống tại
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới là địa bàn quan trọng, có vị trí chiến
lược trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng. Nhận thức rõ
tầm quan trọng của vùng các dân tộc thiểu số, trong những năm qua, Đảng và Nhà
nước đã ban hành và thực hiện nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã
hội. Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của các dân tộc ngày càng được nâng
cao; văn hóa các dân tộc luôn được coi trọng, giữ gìn, bảo tồn và phát huy; mối
quan hệ đoàn kết giữa các dân tộc ngày càng được tăng cường và củng cố…
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, đời sống của
một bộ phận không nhỏ các dân tộc thiểu số sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa
còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn cả về đời sống vật chất và tinh thần. Tình
trạng trên không những làm cho các dân tộc thiểu số khó vươn lên hòa nhập cùng
với sự phát triển chung của cả nước mà còn tạo ra khoảng cách phát triển giữa các
dân tộc, tiềm ẩn những yếu tố có thể gây mất ổn định chính trị - xã hội, nhất là khi
bị các thế lực thù địch lợi dụng.
14
GS. Lê Mậu Hãn nêu quan điểm, tên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hợp với
thực tiễn Việt Nam, ngay cả ở thời điểm hiện tại và giàu ý nghĩa đối với một dân
tộc có lịch sử ngàn năm văn hiến, có quá trình đấu tranh anh dũng suốt mấy chục
năm chống thực dân Pháp, lật đổ ách đô hộ đó để lập nên nhà nước độc lập. Chữ
“dân chủ” trong tên nước vì vậy được đặt đúng nghĩa là nhà nước của nhân dân.
“Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là sự công bố chính thức lần đầu tiên với toàn
thế giới và Tuyên ngôn độc lập Bác đọc khi đó khẳng định công lý, lẽ phải của
thực tiễn Việt Nam đã trở thành một nước tự do, độc lập. Điều đó buộc các nước
khác không thể không công nhận” – ông Hãn nêu bật ý nghĩa.
Chế độ Dân chủ Cộng hòa, nhà nước Dân chủ Cộng hòa, GS. Hãn khẳng
định, là kết quả do sự kiện lịch sử cách mạng tạo nên, phù hợp xu thế, phù hợp
nguyện vọng, mục tiêu của toàn dân tộc. Cụ thể, tư tưởng độc lập tự do là nội dung
cốt lõi của tinh thần dân tộc, qua sự thể hiện này. Và theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
tư tưởng độc lập tự do không chỉ là đấu tranh giải phóng dân tộc mà phải xác định
con đường phát triển theo hướng giải phóng con người khỏi bóc lột. Đó là lý do
Bác đã chọn con đường duy nhất phù hợp là tiến lên CNXH. Theo đó, cả nước đã
xác định 3 chặng đường chiến lược phải thực hiện là giải phóng dân tộc, hoàn
thành thể chế dân chủ, xây dựng thành công CNXH.
4. Vấn đề định hình dân tộc?
Định hình xã hội có vai trò quan trọng trong quan hệ liên nhóm. Trẻ em tiếp
nhận các định hình này tư tuổi ấu thơ,thường là từ các nguồn gián tiếp,chứ không
phải từ kinh nghiệm trực tiếp và được trẻ sử dụng rất lâu trước khi có các khái
niệm rõ rang về những nhóm mà chúng là thành viên
Theo LIPMAN thì kiểu định hình là một bức tranh thế giới được điều chỉnh,
được quyết định bởi một nền văn hóa đã hình thành và ổn định trong đầu con
người. Kiểu định hình này có tác dụng. Một là, giảm bớt khó khăn của con người
khi tri giác những đối tượng xã hội phức tạp. Hai là, bảo vệ những giá trị về vị thế
15
và quyền lời của nó. Nói cách khác, định hình sẽ đình hướng cho mỗi người giữa
biển cả thông tin giúp con người tự đánh giá, tự xác định một cách nhanh nhất.
Đặc điểm định hình trong số nhũng thuộc tính dân tộc được định khuôn
quan trọng nhất là tính chất xúc cảm trong định giá. Từ giữa năm 50 của thế kỳ 20
do ảnh hưởng trực tiếp của chủ nghĩa nhận thức, các nhà nghiên cứu bắt đầu chú ý
nhiều hơn đến thành phần nhận thức.
Những trên thực tế, việc phân chia các kiểu định hình chỉ có trong lĩnh vực
nhận thức và việc phủ nhận sắc thái định giá xúc cảm của nó là cách làm sai lầm.
Một tính chất quan trọng khác của kiểu định khuôn dân tộc là,tính bền
vững,thậm chí cứng nhắc đối với thông tin mới.tính bền vững của các kiểu định
hình cũng chỉ là tươngđối. Khi quan hệ giữa các nhóm thay đổi hoặc khi có thông
tin mới thì nội dung,thậm chí là định hướng của chung cũng có thể thay đổi. Chỉ
những biểu tượng được xác định thông qua những ý kiến của đa số mới được coi là
các định khuôn xã hội, định khuôn dân tộc.
Tính chân lý của định khuôn dân tộc U.LIPMAN coi tính không chính xác,
thậm chí tính giả đối là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của các kiểu
định khuôn xã hội. Hiện nay không còn hoàn nghi các định khuôn xã hội vì đó
không phải là tổng thể các biểu tượng phi thực tế.
Định hình về nước VN:
Ở việt nam, nhà nước hình thành do sự đoàn kết tự nguyện của mọi người
để chống lũ lụt vì nước lên không phải chỉ có anh chết mà tôi cũng chết. Khi đất
nước là của toàn dân, không có triều đại nào dám lấy tên của mình đặt cho đất
nước. Chữ trung là trung với dòng họ cầm quyền, còn chữ trung việt nam là trung
với nước Việt Nam thống nhất và độc lập. Người Việt sống với những khái niệm
cụ thể đất nước, làng xóm. Hạnh phúc đối với anh ta là nước độc lập, gia đình hòa
thuận, lao động trong hòa bình,được mọi người quý mến. Những khái niệm siêu
hình học không lối cuốn anh ta thiên đường, niết bàn. Người Việt Nam lấy việc
16
trồng lúa nước làm phương thức kinh tế, bắt buộc phải quan hệ gắn bó nhường
nhịn nhau. Người dân chỉ có một trong hai con đường làm quan và đi cầy. Người
không tự mình xây dựng những truyền thống độc lập về tư tưởng, học thuật khoa
học, nghệ thuật.
Định hình qua đại từ nhân xưng ở người Việt:
Đằng sau những vị trí và vai trò mà đứa trẻ tự nói ra kia là những quy tắc,
quy phạm của hình vi ứng xử xã hội tương ứng.cái tôi gửi gắm,phó thác và tan
biến vào các quan hệ huyết thống,quan hệ xã hội nên bị che khuất và lu mờ đi.
Trong giao tiếp với nhau,người việt thường lấy danh từ chỉ quan hệ họ hang như
bố mẹ chú bác đẻ thay cho đại từ nhân xưng gần gũi. Cái tôi dường như đã lẫn vào
các quan hệ máu thịt của cộng đồng vào khối đòa kết của cả dân tộc cái tôi thiên
về tình cảm hơn là về lý trí thiên về phong tục tập quán hơn là về pháp luật, thiên
về tâm lý xã hội hơn là hệ tư tưởng.
Những phẩm chất là thộc định hình ở người VN trong lịch sử:
+ Tình yêu lao động cần cù chăm chỉ trong công việc đồng áng
+ Tình yêu thương con người quy trọng.
Những phẩm chất và thuộc tính mới đang định hình ở con người việt nam:
Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản VN sự nghiệp giai phóng con người
được xác định là đối tượng của cách mạng VN và chủ thể của cuộc cách mạng ấy
chính con người VN và ở đây văn hóa có vai trò đặc biệt trong việc xây dựng nước
VN mới, HCM từng khẳng định số phận dân ta ở trong tay ta văn hóa soi đường
cho quốc dân đi tới. Vai trò soi đường văn hóa là nói đến quá trình học văn hóa
con người.
Con người chiến sĩ những phẩm chất và thộc tính như những định khuôn
tiểu cực. Đó là: có lý tưởng mãnh liệt giành độc lập cho tổ quốc, tự do cho nhân
dân, xây dựng tương lai hạnh phúc cho tất cả mọi người.
17
Có niềm tin sâu sắc vào thắng lợi của sự nghiệp của độc lập dân tộc thống
nhất đất nước vào chủ nghĩa xã hội ở tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh
giữ nước.
Có đạo đức trong sáng vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân mà phục vụ,
đặt lợi ích của tổ quốc,của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân.
Có tình cảm yêu nước nồng nàn, hy sinh cho tổ quốc, cho dân tộc, thương
yêu đồng chí, qúy mến đồng bào, thân ái, hữu ích với các dân tộc anh em. Có ý chí
mãnh liệt, dũng cảm, ngoan cường, kiên trì quyết tâm, không lùi bước trước bất cứ
gian nan thử thách nào. Có tư chất thông minh, sáng tạo, mưu lược, nhanh nhạy
tiếp thu cái mới, ham hiểu cầu tiến bộ. Có lối sống kỷ luật lạc quan, giản dị cần
kiệm, chân thành, khiêm tốn, tinh thần tập thể cao, đồng cam cộng khổ, chia ngọt
sẻ bùi.
18