Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn THI học PHẦN tâm lý học xã hội CHUYÊN NGÀNH tâm lý học SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.23 KB, 49 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP PHẦN TLHXH
1. Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học xã hội
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học, tâm lý học, y học,
luật học, xã hội học, v.v... Trong tâm lý học không chỉ có tâm lý học đại cương
nghiên cứu nhân cách mà tâm lý học xã hội cũng nghiên cứu nhân cách.
- Nhân cách là những phẩm giá cá nhân thể hiện mức độ phát triển cao về mặt XH.
- Trong quá trình xã hội hóa cá nhân con người trở thành nhân cách, nhân
cách được hình thành trong quá trình phát triển cá thể của xã hội. Vì vậy có khái
- Nhân cách cũng là đối tượng nghiên cứu của TLHXH bởi vì: Một mặt, nhân
cách góp phần mình vào việc hình thành và phát triển nhóm, hình thành các đặc
điểm tâm lý của nhóm. Mặt khác, trong quá trình phát triển nhóm, nhân cách tự
điều chỉnh và hoàn thiện dưới tác động của nhóm và của mỗi thành viên trong
nhóm, sao cho phù hợp với chuẩn mực và hệ thống giá trị trong nhóm. TLHXH là
bộ môn giữa tâm lý học và xã hội học, song nếu như Xã hội học quan tâm đến kiểu
xã hội của nhân cách, tâm lý học đại cương nghiên cứu nhân cách quan tâm đến
các thuộc tính tâm lý bên trong, những quá trình tiếp nhận ảnh hưởng bên ngoài,
nghiên cứu các chức năng điều chỉnh hành vi của nhân cách như tính cách, khí
chất, năng khiếu, năng lực, động cơ thì tâm lý học xã hội nghiên cứu nhân cách
quan tâm đến tính chất lịch sử cụ thể những thuộc tính tâm lý, cấu trúc bên trong
của nhân cách như là chủ thể của mối quan hệ xã hội.
=> Đối tượng của tâm lý học xã hội nhân cách nghiên cứu kiểu chủ thể, sự
điển hình hóa chủ thể xã hội, với tính cách là cá nhân, nghiên cứu các kiểu hoạt
động xã hội, gắn liền với mức độ cấu trúc tâm lý bên trong: động cơ, định hướng
giá trị, tâm thế xã hội, và các cơ cấu vị thế khác của nhân cách.
1.1. Khái niệm nhân cách trong TLHXH.
* Thuật ngữ nhân cách: Muốn hiểu được khái niệm nhân cách trước hết cần
nói tới thuật ngữ "nhân cách".
Khi tách chữ "nhân" và chữ "cách" ra khỏi chữ "nhân cách " để phân tích hai
từ đó trong mối quan hệ của từ này. Chữ "nhân" vừa có nghĩa chỉ con người với tư
cách đại diện cho lời người đối lập với loài vật, vừa có nghĩa chỉ con người cụ thể
(cá nhân) – chữ "cách" có nghĩa là phẩm cách, chỉ phẩm chất và giá trị xã hội của


con người. Tuy nhiên ở ta thuật ngữ "nhân cách" thiên về mặt đức hơn ra mặt tài
của con người. Một con người được gọi là có tài phải dùng cái tài đó phục vụ cho
xã hội, giai cấp, một tập đoàn người, một cộng đồng người thì mới gọi là người có
nhân cách.
* Khái niệm: Để có một định nghĩa hợp lý về nhân cách định nghĩa đó phải
nêu được mối quan hệ cá nhân và xã hội, và bản chất tích cực xã hội của nhân cách.
Quá trình phát triển cá nhân và hình thành cá nhân với tư cách là quá trình xã
hội hóa, không thể tiến hành ngoài xã hội, xã hội cũng không nằm ngoài nhân cách
mà là bản chất của nhân cách. Các Mác viết "Bản chất của cá nhân không phải là
râu, không phải là tóc, không phải là tính chất vật lý trừu tượng của cá nhân đó, mà
là chất xã hội của cá nhân đó".
Quan niệm của Các Mác về bản chất xã hội của cá nhân là tiền đề phương
pháp luận của việc hiểu khái niệm nhân cách.


Nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân, thể hiện mối
quan hệ xã hội (cá nhân - cá nhân, cá nhân - nhóm - tập thể, cá nhân - cộng
đồng xã hội), trong quá trình hoạt động và giao tiếp của cá nhân đó.
Bằng hoạt động và giao tiếp con người ý thức được phẩm chất và giá trị của
mình trong hệ thống mối quan hệ xã hội. Điều đó có nghĩa là con người đã trở
thành chủ thể của mối quan hệ xã hội. Nhân cách chỉ được hình thành khi nào con
người ý thức được mình, ý thức được mối quan hệ của mình đối với người khác,
đối với xã hội
Cách hiểu nhân cách như vậy không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn
góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn trong việc hình thành và phát triển con
người mới xã hội chủ nghĩa và trong đó giá trị xã hội, tính tích cực xã hội là thước
đo nhân cách.
1.2. Đặc điểm tâm lý của nhân cách và điều kiện tiền đề xã hội của nó.
Để hiểu đặc điểm tâm lý của nhân cách và điều kiện xã hội của nó cần phải
hướng đến tâm lý học đại cương, những quy luật và cơ chế chung của tâm lý học.

Song cũng không nên mô tả nhân cách như là sự liệt kê đơn giản những thuộc tính
tâm lý vì Nhân cách không đồng nghĩa với tất cả đời sống tâm lý con người mà chỉ
ở cấp bậc cao của đời sống tâm lý của con người.
- Quan hệ bên trong chủ thể: tức là những cấu trúc tâm lý bên trong con người
Ví dụ như thành phần tổng hợp tâm lý bậc cao, tính chất trọn vẹn bậc cao, sự
thống nhất mặt cơ bản và phẩm chất tâm lý (nhận thức và xúc cảm).
- Quan hệ chủ thể - khách thể: Điều này thể hiện tính độc lập và tính bền
vững của nhân cách trước tác động của môi trường. Chủ thể phải điều khiển bản
thân mình, hành động và hành vi của mình cho phù hợp với khách thể.
- Quan hệ chủ thể - chủ thể: mối quan hệ giữa các cá nhân. Ở mặt này chúng
ta nghiên cứu ảnh hưởng của người này đối với người khác. Vì vậy, nhân cách
không chỉ ở bản thân cá nhân mà còn ở sự đánh giá của người khác có quan hệ với
cá nhân. Điều này thể hiện tiềm năng xã hội của con người được đánh giá qua mức
độ phát triển của người khác.
1.3. Tính quy luật về sự phát triển ý thức đạo đức của nhân cách
Trong các tài liệu tâm lý học, tiêu biểu là quan điểm của nhà tâm lý học Mỹ
L.Kohlberg người ta phân chia 3 giai đoạn chính của việc phát triển ý thức đạo đức
của nhân cách.
- Giai đoạn đầu tiên là tiền đạo đức (giai đoạn trước khi có đạo đức): tức là
khi đứa trẻ còn chịu sự thúc đẩy vị kỷ riêng của mình
- Giai đoạn thứ 2 là: đạo đức quy ước: hướng đến một tiêu chuẩn hay một yêu
cầu nhất định
- Giai đoạn thứ 3 là đạo đức: có nghĩa là hướng đến hệ thống những nguyên tắc
bên trong có tính chất phổ biến, chuyển biến những vấn đề bên trong của nhân cách.
=> Môi quan hệ: khẳng định tính quy luật bền vững của mối quan hệ có quy
luật giữa mức độ ý thức đạo đức cá nhân với sự phát triển trí tuệ và hành vi.
1.4. Tâm thế của nhân cách
Hiện nay ở Liên Xô hiểu vấn đề tâm thế theo các khái niệm khác nhau.



- Uznadze: Tâm thế được ông coi như là sự thực hiện những nhu cầu tâm sinh
lý giản đơn ở con người và ngay cả những hiện tượng vô thức. Không thể áp dụng
trong tâm lý học xã hội.
- Miaxisev: tâm thế nhân cách như là thái độ của con người.
- Bogiovich coi tâm thế nhân cách như là xu hướng của nhân cách.
- A. N. Leonchiev: tâm thế nhân cách như là ý nghĩa nhân cách. Trong lý luận
về nhân cách ông nhấn mạnh đến tính chất nhận biết của nhân cách đối với hoàn
cảnh hoạt động khách quan bên ngoài có ý nghĩa. Vì vậy, khi có sự phù hợp ý
nghĩa nhân cách với hoàn cảnh khách quan tạo thành xu hướng hành vi chờ đợi.
2. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học xã hội?
1. Sự cần thiết phải xác định đối tượng của tâm lý học xã hội
Xác định đối tượng nghiên cứu là vấn đề được đặt ra đầu tiên cho bất cứ một
khoa học nào, bởi vì nó trả lời câu hỏi: nghiên cứu cái gì? và vấn đề đó đã có khoa
học nào nghiên cứu chưa? đây là một tiêu chuẩn để khẳng định sự tồn tại và tính
độc lập của một khoa học.
Điều này thoạt tiên tưởng chừng như đơn giản, nhưng ở bất cứ một khoa học
nào cũng đã từng có những quan điểm khác nhau. Tâm lý học xã hội cũng không
phải là một ngoại lệ. Ngoài những ý kiến cố tình phủ nhận sự tồn tại của nó bằng
cách hoà nó vào với những khoa học khác thậm chí không phải là tâm lý học. Ở
đây phải kể đến sự lẫn lộn giữa đối tượng của tâm lý học xã hội với tâm lý học đại
cương hay tâm lý học cá nhân mà cuối cùng sẽ dẫn đến sự phủ nhận sự có mặt của
khoa học này trong hệ thống các khoa học.
Nếu đối tượng của một khoa học nằm ở bản chất của các hiện tượng mà
khoa học ấy coi là khách thể nghiên cứu thì việc làm tốt nhất là hãy đi tìm bản chất
của các hiện tượng ấy.
2. Những hiện tượng tâm lý xã hội
Cũng như những hiện tượng tâm lý diễn ra thường xuyên trong mỗi con
người, những hiện tượng tâm lý xã hội cũng diễn ra thường xuyên và ở mọi nơi
trong xã hội: trong gia đình, giữa bạn bè, trên lớp học, nơi hội hè ngoài đường
phố… Ở đâu có đời.

Chúng ta, ai đã chẳng từng chứng kiến cảnh một đám đông đang tụ tập trên
đường phố. Họ đang tỏ thái độ của mình trước một sự việc chướng tai gai mắt hoặc
bất công vô lý nào đó vừa xẩy ra ở đây. Người cao giọng phê phán, người lớn tiếng
xỉ vả, người đỏ mặt đòi có biện pháp xử lý... Bằng những cử chỉ, hành vi không
giống nhau, ở những mức độ khác nhau, mọi người đang biểu lộ một thái độ chung
là bất bình. Và nếu ai đã từng có lần hoà mình vào cái đám đông khán giả, hàng
ngàn hàng vạn người trên sân bóng đá để cùng sôi nổi bình luận, khản cổ hò reo,
nhảy lên vui sướng hoặc vỗ đùi tiếc rẻ trước những pha gay cấn, bất ngờ của trận
đấu thì sẽ thấy được sự tác động lẫn nhau giữa những người trong đám đông ấy
mạnh mẽ biết nhừng nào. Nó có thể lôi cuốn cả những con người vốn có tính khí
trầm lặng, cả những người đang mang những tâm tư buồn phiền vào cá không khí
sôi động, cái tâm trạng phấn khích chung ấy.


Và nữa, trong sinh hoạt đời thường, mọi người cũng luôn luôn đề cập đến
những hiện tượng tâm lý xã hội. Thanh niên bàn tán đến những gì đã trở thành thời
thượng trong ăn mặc vui chơi, học hành...; bậc cha mẹ phàn nàn về con cái đua đòi
bạn bè hư hỏng; công nhân, viên chức bình luận về khí hậu tâm lý trong cơ quan,
xí nghiệp, đến uy tín của người lãnh đạo người ta đã nhận định về đặc điểm tâm lý
các vùng, các giai cấp; quần chúng thỉnh thoảng lại xôn xao, đồn đại chuyện nọ,
chuyện kia, vui mừng hay lo lắng trước một sự kiện quan trọng nào đó vừa xẩy ra
trong nước hay trên thế giới...
Những hiện tượng kể trên đều là những hiện tượng tâm lý xã hội. Vậy thì
bản chất của chúng là gì?
3. Bản chất của những hiện tượng tâm lý xã hội
Như chúng ta đã biết, tâm lý là sự phản ánh của chủ thể mỗi người đối với
những tác động của hiện thực khách quan. Những hiện tượng tâm lý bao giờ cũng
diễn ra trong một con người cụ thể. Tuy nhiên, là một thực thể xã hội, con người
luôn luôn sống và hoạt động trong những tập hợp người lớn và nhỏ khác nhau với
những mối quan hệ cụ thể khác nhau. Còn nhỏ, trong gia đình chú bé khăng khít

với mẹ, với cha, anh chị em và ông bà... Đi học, ở trường, ở lớp cậu học sinh học
thầy, học cô, vui chơi cùng bè bạn. Trưởng thành, anh thanh niên lập gia đình
riêng, bìu ríu vào vợ nào con; đi làm có bạn bè đồng nghiệp, cấp trên cấp dưới...
Càng hoạt động nhiều mặt, càng tham gia vào nhiều tập hợp khác nhau, người ta
càng có nhiều mối quan hệ. Chúng chồng chéo lên nhau phong phú và phức tạp.
Tập hợp dù lớn hay nhỏ, dù được tạo lập như thế nào đều được tâm lý học xã hội
gọi chung là nhóm: có nhóm lớn, nhóm nhỏ, nhóm chính thức, nhóm không chính
thức và nhóm đặc biệt là đám đông...
Ở trong nhóm, mỗi cá nhân đều tác động tới tâm lý của cá nhân khác và toàn
nhóm, trước hết bằng ngay sự có mặt của mình. Ngược lại tâm lý của nó cũng chịu sự
tác động mạnh mẽ của cá nhân khác và của toàn nhóm. Sự tác động qua lại diễn ra
trong nhóm ấy chi phối, điều chỉnh thái độ, hành vi... và tâm lý nói chung của mỗi cá
nhân, thành viên của nhóm dẫn đến một kết quả kép là tạo nên quá trình xã hội hoá cá
nhân và hình thành nên những hiện tượng tâm lý chung năng đặc trưng của nhóm.
Thông qua sự phân tích ở trên chúng ta kết luận rằng: tâm lý xã hội bao gồm
những hiện tượng tâm lý chung của một nhóm xã hội cụ thể, nẩy sinh từ sự tác
động qua lại trong hoạt động và giao tiếp giữa các cá nhân trong nhóm; chi phối
thái độ, hành vi của họ khi ở trong nhóm.
4. Đối tượng của tâm lý học xã hội
Đối tượng của tâm lý học xã hội nằm ở bản chất các hiện tượng tâm lý xã
hội đã được phân tích ở trên. Đó là cái tâm lý của những nhóm xã hội cụ thể bao
gồm những nét tâm lý chung nhất, đặc trưng nhất của nhóm được tạo nên từ sự tác
động qua lại giữa các cá nhân trong nhóm. Nó không phải là cái tâm lý như là sản
phẩm hoạt động của chủ thể mỗi người dưới những tác động của hiện thực khách
quan. Nó cũng không phải là cái tổng số đơn giản những đặc điểm tâm lý của tất cả
những cá nhân trong nhóm hợp thành.
Có thể đồng ý với những quan điểm cho rằng tâm lý học xã hội là một phân
ngành của khoa học tâm lý nghiên cứu qui luật hình thành, phát triển, biểu hiện của



các hiện tượng tâm lý xã hội của nhóm lớn và nhóm nhỏ, mối liên hệ giữa các
nhóm và con người trong nhóm.
Xác định được đối tượng nghiên cứu, phân biệt được nó với đối tượng
nghiên cứu của tâm lý học đại cương và tâm lý học cá nhân một cách rõ ràng, tâm
lý học xã hội đã khẳng định được sự tồn tại của nó như một khoa học độc lập.
Tuy nhiên, là một ngành của khoa học nghiên cứu về tâm lý con người nói
chung, tâm lý học xã hội không thể không có mối liên quan hữu cơ, tất yếu với tâm
lý học đại cương - cái khoa học gốc mà từ đó nó tách ra, cũng như không thể
không có những mối quan hệ tương hỗ với các ngành tâm lý học khác. Mối quan
hệ qua lại giữa các khoa học không hề mảy may ảnh hưởng đến tính độc lập của
khoa học nào.
Đến đây cũng cần phải nói thêm rằng trong một số tài liệu, sau khi đã xác định
đối tượng nghiên cứu của tâm lý học xã hội là tâm lý nhóm thì ở chỗ khác một số tác
giả lại cho rằng đối tượng của nó không chỉ là tâm lý nhóm mà còn là sự tương tác
trong nhóm. Thật ra chỉ có thể quan niệm được rằng: trong các yếu tố cấu thành bản
chất các hiện tượng tâm lý xã hội thì nhóm chủ thể mang các hiện tượng này và tác
động qua lại là nguyên nhân nẩy sinh, về mặt nhận thức chúng không tách khỏi đối
tượng nghiên cứu. Cũng tính từ quan niệm như vậy, chúng tôi trình bày vấn đề nhóm
và vấn đề tác động qua lại như những phần chủ yếu của cuốn sách này.
(Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu TLHXH của Đặng Quốc Thành)
1. Các quan điểm về đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội
Giống như mọi khoa học. Tâm lý học xã hội cần phải xác định rõ đối tượng
nghiên cứu của mình. Cũng không phải là ngoại lệ, khi trong lịch sử phát triển của
Tâm lý học xã hội, vấn đề đối tượng của khoa học này đã là vấn đề của nhiều cuộc
tranh luận. Vấn đề xác định đối tượng của Tâm lý học xã hội lại càng trở nên khó
khăn hơn bởi tính chất giao thoa và sự đa dạng của các vấn đề mà nó nghiên cứu.
Có thể điểm qua những quan điểm khác nhau về đối tượng của Tâm lý học xã hội
như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu các hiện
tượng tâm lý đám đông như tâm lý tầng lớp, cộng đồng xã hội, bao gồm: truyền

thống đạo đức, tập quán; nghiên cứu các tập thể, các quan điểm xã hội. Những
nghiên cứu sớm trong lịch sử Tâm lý học xã hội đều tập trung vào đối tượng đám
đông. Các tác phẩm của G.Tard về tâm lý dân tộc, của G.Lebon về tâm lý đám
đông là minh họa cho quan điểm này.
Quan điểm thứ hai cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu nhân cách:
đặc điểm loại hình, vị trí, các mối quan hệ liên nhân cách trong đời sống xã hội.
Quan điểm này xuất phát từ nghiên cứu nhân cách, đặt các nhân cách trong mối
quan hệ liên nhân cách. Cơ sở lý luận của nó chính là bản chất xã hội và giá trị xã
hội của nhân cách.
Quan điểm thứ ba: nghiên cứu cả các quá trình tâm lý đại chúng, cả vị trí của
cá nhân trong nhóm; những thay đổi hoạt động tâm lý của cá nhân trong nhóm do
ảnh hưởng của sự tác động qua lại, các đặc điểm nhóm, các khía cạnh tâm lý của
các quá trình xã hội. Các nhà tâm lý học xã hội theo quan điểm này tập trung vào
việc nghiên cứu suy nghĩ, hành vi xã hội của cá nhân, tri giác xã hội, sự ảnh hưởng
xã hội đối với các cá nhân.


2. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội
Các quan điểm nêu trên cho thấy: đối tượng của Tâm lý học xã hội là rất
rộng và phải xác định từ hai phía - cá nhân và nhóm xã hội. Từ đó, ngày nay một
cách phổ biến, đối tượng của Tâm lý học xã hội được xác định như sau:
- Các hiện tượng tâm lý chung của nhóm xã hội cụ thể nảy sinh trong quá
trình giao tiếp và tác động qua lại giữa các cá nhân.
- Cái chung, đặc trưng, cái bản chất trong tâm lý nhiều người trong các
nhóm xã hội nhất định.
- Những đặc trưng tâm lý cơ bản của các loại nhóm xã hội được tạo nên từ
sự tác động qua lại.
- Các quy luật nảy sinh hình thành, vận động và phát triển của các hiện
tượng tâm lý xã hội và sự tác động qua lại.
Cách xác định như vậy cho phép bao quát một diện rộng các vấn đề mà Tâm

lý học xã hội cần giải quyết. Đồng thời nó định hướng cho việc nghiên cứu các
hiện tượng tâm lý không phải đơn thuần của cá nhân mà là các hiện tượng tâm lý
nảy sinh trong đời sống xã hội của con người.
Từ cách xác định như vậy, trong quá trình phát triển của Tâm lý học xã hội,
hàng loạt các phân ngành ra đời và tập trung sâu hơn vào các vấn đề trong từng
lĩnh vực cụ thể như tâm lý học tôn giáo, tâm lý học dân tộc, tâm lý học giới tính...
3. Nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội
* Nghiên cứu lý luận: Với tư cách là một bộ môn khoa học giao thoa, sử
dụng nhiều tri thức khoa học từ các ngành khoa học liên quan, đồng thời tập trung
vào việc nghiên cứu các hiện tượng rất phức tạp, Tâm lý học xã hội muốn khẳng
định được vị trí của nó trong hệ thống các khoa học thì không thể coi nhẹ việc
nghiên cứu lý luận. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận tập trung vào các nội chính như
sau:
- Xác lập hệ thống các khái niệm khoa học riêng của Tâm lý học xã hội, đặc
biệt thống nhất nội hàm của các khái niệm dùng trong lĩnh vực này giữa các nhà
khoa học và phân biệt các khái niệm đó với các khái niệm gần hoặc có liên quan
trong các lĩnh vực khác. Việc sử dụng các khái niệm của các khoa học giao thoa
với nội hàm không xác định làm đánh mất bản chất tâm lý xã hội của khái niệm
cũng như tạo ra sự lẫn lộn trong việc trao đổi và phản biện khoa học. Điều đó làm
giảm giá trị khoa học của các nghiên cứu.
- Phát hiện các quy luật của sự nảy sinh, hình thành và phát triển của các
hiện tượng tâm lý xã hội, các quy luật của sự tác động qua lại giữa người với người
trong các nhóm, các quan hệ xã hội. Cụ thể: phát hiện những điều kiện chủ quan,
khách quan của sự hình thành các hiện tượng tâm lý xã hội, những hình thái biến
động, các cơ chế diễn ra các hiện tượng đó. Đóng góp của Tâm lý học xã hội đối
với khoa học khác và đối với đời sống xã hội chính là ở nội dung này. Trên cơ sở
các quy luật được phát hiện, Tâm lý học xã hội có thể góp phần lý giải các hiện
tượng lâm lý xã hội nảy sinh, dự báo xu hướng của các hiện tượng đó và chỉ ra
cách thức tác động đến các hiện tượng tâm lý xã hội.
- Xây dựng, thiết kế các phương pháp nghiên cứu đặc thù để nghiên cứu các

hiện tượng tâm lý xã hội. Trong các phương pháp đã có, Tâm lý học xã hội khá
mạnh với việc sử dụng các phương pháp thực nghiệm để làm bộc lộ các quy luật


và các cơ chế của các hiện tượng tâm lý xã hội tuy vậy trong xu hướng nghiên cứu
các hiện tượng tâm lý xã hội ở phạm vi rộng lớn như tâm lý tộc người, tôn giáo,
xuất hiện những khó khăn nhất định về phương pháp nghiên cứu.
* Nghiên cứu thực tiễn: Có thể nói những vấn đề thực tiễn ngày càng được
đặt ra hết sức đa dạng trước Tâm lý học xã hội và các chuyên ngành hẹp của nó.
Việc ứng dụng các quy luật chung của Tâm lý học xã hội vào các lĩnh vực hẹp hơn
trong đời sống xã hội liên tục làm nảy sinh các chuyên ngành mới với các vấn đề
nóng hổi và phức tạp. Tâm lý học dân tộc đang rất được chú ý trong quá trình hội
nhập và toàn cầu hóa với các vấn đề thực tiễn cần giải quyết: làm thế nào để gìn
giữ bản sắc dân tộc, sự đồng nhất về văn hóa và tâm lý dân tộc có vai trò thế nào
trong quá trình hội nhập? Tâm lý học tôn giáo với các vấn đề về niềm tin tôn giáo,
tình cảm tôn giáo trong thời kì có sự tác động qua lại mạnh mẽ của các tôn giáo
khác nhau sẽ như thế nào? Tâm lý học giới tính lại đối đầu với các vấn đề nóng
bỏng: đâu là nguyên nhân tâm lý xã hội của các hiện tượng đồng giới? Hệ quả của
các phong trào đồng giới đối với đời sống xã hội nói chung? Đặc trưng tâm lý xã
hội của các nhóm đồng giới?... Cũng như vậy, Tâm lý học quản lý, Tâm lý học tổ
chức và công nghiệp cũng đang đứng trước các vấn đề thực tiễn hết sức cấp bách.
Việc giải quyết các vấn đề thực tiễn vừa là một nhiệm vụ xã hội đặc ra với Tâm lý
học xã hội nói chung và các chuyên ngành của nó nói riêng vừa là nhiệm vụ bên
ngoài, vừa là sự thúc đẩy bên trong của chính Tâm lý học xã hội. Giải quyết được
các nhiệm vụ đó sẽ tạo ra sự phát triển cho chính Tâm lý học xã hội và khẳng định
vị trí của Tâm lý học xã hội trong hệ thống các khoa học và trong đời sống xã hội.
3. Đặc điểm tâm lý dân tộc? (là một trong các nhóm lớn).
Đặc điểm tâm lý dân tộc là toàn bộ các đặc điểm tâm lý đã hình thành và biểu
hiện trong hoạt động sống và sinh hoạt của dân tộc. Có những đặc điểm sau:
- Thuộc tính dân tộc: Là yếu tố khắc họa những đặc điểm nhất định của môi

trường xã hội rộng lớn.
Đặc điểm ở một mức độ được đúc kết trong kinh nghiệm lịch sử của mỗi dân
tộc… tiếp thu là nội dung trong xã hội hóa cá nhân.
- Tính cách dân tộc: là thành tố cơ bản của kết cấu tâm lý dân tộc, là sự định
hình của các nét tiêu biểu mang tính ổn định đặc trưng trong các mối quan hệ.
Biểu hiện trong các dạng hoạt động… phải nghiên cứu sản phẩm hoạt động:
phong tục, truyền thống, nghệ thuật, ngôn ngữ… đặc biệt là ngôn ngữ vì nó có
chức năng truyền lại tính cách dân tộc trong quá trình xã hội hóa.
(Đỗ Long tâm lý học dân tộc đã chỉ ra những phẩm chất con người Việt Nam.
Yêu lao động, cần cù chăm chỉ chịu khó Giản dị, chất phác
Tình yêu đất nước bất khuất kiên cường, không chịu khất phục, dũng cảm mư
tri anh hùng.
Tiêu cực:
Tính thiển cận do giao lưu hạn chế nên thiếu sự nhìn xa trông rộng, chỉ nhìn
thấy cái lợi trước mắt mà khong htaay lợi lâu dài, chỉ thấy cục bộ.
Địa phương chủ nghĩa, cục bộ, bản vị, khép kín.


Tùy tiện, thiếu kỉ luật, thiếu tổ chức, được chăng hay chớ, đánh trống bỏ dùi,
bình quân chủ nghia, hòa tan vào cộng đồng, ít biểu hiện cá tính, xấu đều hơn tốt
lỏi, thiếu trách nhiệm cá nhân).
- Khí chất, khả năng của dân tộc: là những vấn đề liên quan tới sự bình đẳng
giữa các dân tộc
- Ý thức dân tộc: thường được hình thành và biểu hiện thông qua ý thức
thường ngày của tâm lý dân tộc.
+ Ý thức thường ngày nảy sinh trong quá trình tri giác lẫn nhau giữa các đại
diện tâm lý dân tộc.
Cơ chế khái quát hóa thường áp dụng triệt để trong việc tạo ra hình ảnh tâm
lý về đặc điểm dân tộc, đó là quan hệ cá nhân với nhau, đặc điểm cá nhân của một
thành viên dân tộc đó.

Do sự tri giác chụp mũ, dập khuôn mà thường có định kiến và phân biệt đối
xử, nên có định kiến dân tộc.
Bàn tới ý thức dân tộc sẽ bàn tới vấn đề cốt lõi là tự ý thức dân tộc. Có thể
không khách quan và tuân theo 2 xu hướng độc lập khác nhau tùy thuộc vào vị trí,
địa vị và quan hệ với các dân tộc khác: Tự kỉ dân tộc và tự ti dân tộc.
+ Tự kỉ là sự đề cao có tính thiên vị, thổi phồng,cường điệu hóa, dễ bị lợi
dụng để coi thường dân tộc khác. Đường lối chính trị về dt không đúng đắn thì tự
kỷ dân tộc có thể Là nguyên nhân dẫn đến xung đôt và kì thị, thù hằn dân tộc.
+ Tự ti dân tộc: ngược lại. có thể dẫn tới làm nhụt ý chí tự lực tự cường, giảm
ý chí vươn lên của dân tộc.
=> Vì vậy, muốn ý thức tốt về dân tộc phải tránh cả 2 xu hướng trên.
- Nguồn gốc các đặc điểm tộc người: các đặc điểm này là kết quả của những
điều kiện lịch sử nhất định, là sự cố định một số đặc điểm trong nhiều thế hệ, tuy
nhiên có thể thay đổi trong quá trình lịch sử.
4. Các phương pháp nghiên cứu tâm lý học xã hội
Công tác nghiên cứu của tâm lý học xã hội được thực hiện bằng nhiều
phương pháp khác nhau. Những phương pháp này được xác định trên cơ sở tính
đặc thù của khoa học về tâm lý con người. Tuỳ từng nhiệm vụ cụ thể và hoàn cảnh
nghiên cứu, nhà khoa học phải lựa chọn phương pháp này hay phương pháp khác
cho thích hợp. Tuy nhiên, dù sử dụng phương pháp nào đi chăng nữa nhà khoa học
cũng phải thực hiện đầy đủ và nghiêm túc những yêu cầu có tính chất nguyên tắc
của công việc nghiên cứu.
1. Phải đảm bảo tính chất khách quan
Sự vật và hiện tượng bao giờ cũng tồn tại và phát triển theo những quy luật
của chính nó, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Bởi vậy, đảm
bảo tính chất khách quan là yêu cầu đầu tiên đối với công tác nghiên cứu khoa học.
Nó đòi hỏi các nhà khoa học phải xem xét sự vật và hiện tượng như chúng vốn có
trong hiện thực, ghi nhận mọi chi tiết, mọi biểu hiện của chúng. Nó không chấp
nhận thái độ hời hợt tắc trách. Nó lại càng không chấp nhận sự cố ý, thêm bớt,
nhào nặn các tài liệu thu thập được cốt sao cho phù hợp với những dự đoán, những

giả thuyết, những kết luận có sẵn trong khoa học. Tính khách quan trong nghiên
cứu không chỉ phụ thuộc vào ý thức và phẩm chất của nhà khoa học mà còn phụ
thuộc một phần vào phương pháp được sử dụng để nghiên cứu. Phương pháp nội


quan "suy bụng ta ra bụng người" trong nghiên cứu tâm lý học là một ví dụ. Càng
đảm bảo tính chất khách quan bao nhiêu, nhà khoa học càng tiến gần tới chân lý
bấy nhiêu.
2. Phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong các mối liên hệ của chúng
Sự vật và hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội hay trong tâm lý con người
đều liên quan và tác động lẫn nhau. Điều này đòi hỏi các nhà khoa học trong quá
trình nghiên cứu không được xem xét chúng một cách biệt lập mà phải đặt chúng
trong mối liên quan và quan hệ giữa chúng nhằm vạch ra được những ảnh hưởng
lẫn nhau, những quan hệ phụ thuộc nhân quả và những quy luật của sự tác động
qua lại giữa chúng. Nghiên cứu tâm lý xã hội càng cần phải thực hiện tốt yêu cầu
này, bởi vì chính moi hiện tượng tâm lý xã hội đều chịu ảnh hưởng của sự liên
quan và tác động của nhiều hiện tượng tâm lý khác.
3. Phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong sự phát triển
Mọi sự vật trong tự nhiên hay trong xã hội đều phát triển. Tâm lý của cá
nhân hay của xã hội không phải lúc nào cũng như lúc nào mà luôn luôn vận động
và phát triển, có sự biến đổi về chất. Điều này yêu cầu nhà khoa học phải xem xét
sự vật và hiện tượng trong một quá trình. Việc thực hiện yêu cầu này làm phong
phú thêm nguồn tài liệu, tăng thêm tính khách quan trong công tác nghiên cứu,
giúp cho nhà khoa học đi sâu vào bản chất sự vật và hiện tượng và phát hiện ra
những quy luật của chúng.
4. Phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong một chỉnh thể toàn vẹn
Mỗi sự vật và hiện tượng đều có một cấu trúc nhất định. Để phục vụ các
bước nghiên cứu khác nhau với những yêu cầu khác nhau, các nhà khoa học
thường tách sự vật và hiện tượng ra thành những bộ phận, những mặt, những yếu
tố để xem xét, xác định vị trí, chức năng, vai trò... của chúng trong cái cấu trúc ấy,

cũng như mối quan hệ giữa chúng. Nghiên cứu có tính chất phân tích ấy là cần
thiếu nhưng nó lại có tính chất phiến diện nếu chỉ dừng lại ở đó, bởi vì trên thực tế
sự vật và hiện tượng bao giờ cũng xuất hiện như là một chính thể toàn vẹn với toàn
bộ hệ thống của chúng. Bởi vậy, một yêu cầu đặt ra với các nhà khoa học là phải
nghiên cứu sự vật và hiện tượng ấy với cả hệ thống các hành phần trong cấu trúc
của chúng cũng như thối liên hệ và quan hệ của các thành phần ấy.
Những yêu cầu trên đây phải được thực hiện trong suốt quá trình nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu, nói một cách đơn giản, là cách thức nhận thức
hiện thực mà nhà khoa học sử dụng trong quá trình nghiên cứu nhằm đạt được
những nhiệm vụ đề ra:
Đối tượng nhận thức của tâm lý học hay tâm lý học xã hội lại là cái trừu tượng,
không có những thuộc tính vật chất để có thể cân, đo, đong, đếm được cụ thể. Tuy
nhiên, nó được biểu hiện ra bên ngoài thông qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động của chủ
thể mang nó. Nó cũng để lại dấu ấn trong những sản phẩm hoạt động của chủ thể ấy.
Các phương pháp nghiên cứu tâm lý nói chung xuất phát từ những đặc điểm trên.
Chúng giúp các nhà khoa học thu thập tài liệu để trên cơ sở phân tích, tổng hợp, khái
quát, rút ra những kết luận cần thiết. Bởi thế, phương pháp dù tốt đến mấy cũng
không thể thay thế được vốn tri thức và phẩm chất trí tuệ của nhà khoa học.
Sau đây là một số phương pháp thường dùng.
1. Phương pháp quan sát.


Quan sát là phương pháp trong đó nhà khoa học tri giác một cách có chủ
định các khách thể nghiên cứu nhằm một mục đích nhất định. Đó là một quá trình
nhận thức có kế hoạch và có chọn lọc. Phương pháp quan sát được sử dụng rất phổ
biến trong quá trình nghiên cứu các hiện tượng tâm lý nói chung cũng như nghiên
cứu các hiện tượng tâm lý xã hội nói riêng như là một phương pháp độc lập hoặc
như là một biện pháp trong phương pháp thực nghiệm. Nó đặc biệt cần thiết và
chiếm ưu thế trong việc thu thập các biểu hiện của tâm lý xã hội, nẩy sinh như một
quá trình trong chốc lát rồi mất đi không để lại dấu vết, như: sự cuồng nhiệt của

khán giả trong một trận bóng đá quan trọng và quyết liệt, niềm hân hoan của quần
chúng khi nghe tin chiến tranh kết thúc được loan báo lần đầu tiên, thái độ của
người nghe trong một buổi nói chuyện...
Có thể quan sát tổng quát và cũng có thế quan sát từng khía cạnh, tuỳ theo
chủ định của người nghiên cứu. Ngày nay, với sự sử dụng các máy móc hiện đại
như máy ảnh, máy ghi âm, máy quay phim làm phương tiện, phương pháp quan sát
càng phát huy được tác dụng của nó trong nghiên cứu. Những hiện tượng tâm lý dù
chỉ biểu hiện ra trong khoảnh khắc cũng có thể được ghi lại đầy đủ, rõ ràng, đảm
bảo được tính khách quan và nhất là khi cần, người ta có thể quan sát nhiều lần.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm kể trên, phương pháp quan sát cũng có
những hạn chế nhất định. Thứ nhất, dùng phương pháp này, nhà khoa học dễ trở
nên bị động, mất thời gian vì những hiện tượng cần nghiên cứu không phải lúc nào
cũng xuất hiện, trong suốt thời gian quan sát. Thứ hai, với phương pháp này, người
nghiên cứu cũng chỉ thu thập được những tài liệu có tính chất cảm tính, trực quan.
Bởi thế, khi dùng phương pháp quan sát, nhà khoa học cần phải thu thập được
một khối lượng tài liệu đủ lớn để có thể lọc lựa được những tài liệu cần thiết: Ngoài ra,
cần đối chiếu chúng với những tài liệu đã thu thập được bằng các phương pháp khác.
2. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Sản phẩm hoạt động mà một tập hợp người nào đó tạo ra bao giờ cũng mang
đậm nét những đặc điểm tâm lý chung của tập hợp ấy. Qua những sản phẩm này,
nhà khoa học có thể tìm hiểu được nhiều điều về trình độ nhận thức cũng như
phẩm chất trí tuệ về mức độ kỹ sảo cũng như phẩm chất ý chí, về nội dung tình
cảm cũng như đặc điểm tính cách của những tập hợp người khác nhau. Sản phẩm
hoạt động bao gồm cả sản phẩm vật chất và sản phẩm tinh thần. Sản phẩm vật chất
có thể to lớn như đê điều, thành quách, lâu đài..., cũng có thể nhỏ bé như những vật
dùng thông thường. Sản phẩm tinh thần đó có thể được tạo ra dưới hình thức nghệ
thuật như dân ca, dân vũ..., cũng có thể đã biến thành phong tục, tập quán, đường
ăn, nếp ở diễn ra hàng ngày. Tất thảy đều chứa đựng những đặc điểm tâm lý của
dân tộc, của thời đại, của mỗi địa phương.
Khi nghiên cứu sản phẩm hoạt động nên chú ý cả hai mặt số lượng và chất

lượng. Cũng cần phải nghiên cứu cả quá trình tạo nên sản phẩm với những điều
kiện cụ thể của nó.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động có ưu điểm là tài liệu của nó cụ
thể, phong phú và ổn định. Nhà khoa học có thể nghiên cứu những tài liệu ấy một
cách tỉ mỉ trong một thời gian không bị khống chế. Phương pháp này thường được
dùng để nghiên cứu tâm lý của những tập hợp người lớn nhỏ của một thời đã qua.


Nhược điểm của nó là tốn thời gian, công sức, tiền của và nhiều khi nó còn
đòi hỏi nhà nghiên cứu phải có những kiến thức của nhiều ngành.
3. Phương pháp điều tra
Điều tra là phương pháp dùng để nắm bắt những phản ứng tâm lý của một
tập hợp người nào đó đối với những sự kiện, những biến cố xã hội đã hoặc đang
xẩy ra, những nhiệm vụ xã hội có liên quan đến họ cũng như để tìm hiểu những
nhu cầu, những nguyện vọng, những định hướng hoạt động của họ trong tương lai.
Phương pháp được thực hiện với một hệ thống câu hỏi đặt ra cho mỗi thành viên
của tập hợp được điều tra trả lời. Có nhiều loại câu hỏi:
- Loại câu hỏi hạn chế hoặc câu hỏi đóng, yêu cầu người được điều tra chọn
một trong những câu trả lời mà người nghiên cứu đã đề ra sẵn.
- Loại câu hỏi mở cho phép người được điều tra trả lời tương đối tự do về
vấn đề được hỏi.
Câu hỏi đóng thuận tiện cho việc thống kê, tính toán nhưng câu hỏi mở lại
giúp ta xác định rõ hơn về mức độ. Các câu trả lời có thể do người được điều tra tự
ghi nhưng cũng có thể do điều tra viên ghi hộ.
Phương pháp điều tra có ưu điểm là nó cho phép chúng ta điều tra trên một
địa bàn rộng, nhiều người tham gia va thu thập ý kiến của một số lượng người
đông đảo. Nó cũng chó phép chúng ta thu thập được những tài liệu về nhiều mặt từ
những câu hỏi đặt ra.
Tuy nhiên, phương pháp điều tra cũng có những nhược điểm cơ bản là tài
liệu nó cung cấp chỉ thiên về mặt sồ lượng. Những câu hỏi đề ra được từng người

trả lời một cách riêng rẽ mà cái tâm lý chung lại không phải là tổng cộng của cái
tâm lý từng cá nhân riêng rẽ.
Ngoài ra nó còn một nhược điểm nữa khá quan trọng là trong quá trình điều
tra có thể gặp trường hợp người được điều tra vì không hiểu rõ câu hỏi nên trả lời
lạc đề, không đạt yêu cầu hoặc do không hưởng ứng mà trả lời lung tung chiếu lệ.
Để bổ sung phương pháp điều tra, người ta thường dùng phương pháp phỏng
vấn kèm theo. Phương pháp phỏng vấn có mấy tác dụng:
- Qua trò chuyện tạo nên được một không khí tự nhiên, gần gũi giữa người
điều tra và người được điều tra khiến họ có thể thông cảm hơn với mục đích, yêu
cầu của cuộc điều tra, nắm vững hơn nội dung các câu hỏi, tích cực hưởng ứng và
trả lời chính xác.
- Tạo điều kiện cho người điều tra thâm nhập vào cuộc sống của xã hội mà
họ đang tiến hành công tác, có được những thông tin ban đầu, có cái nhìn chung về
xã hội ấy.
- Người điều tra có điều kiện đề nghị làm rõ thêm những câu trả lời hoặc thu
thập thêm những thông tin mở rộng. Phương pháp phỏng vấn cũng có thể được
dùng như một phương pháp độc lập, nhưng cũng chỉ hạn chế trong một diện hẹp,
có lựa chọn, thường là những người lãnh đạo, những cá nhân tiêu biểu. Cuộc
phỏng vấn có thể được tiến hành dưới hình thức trò chuyện tự do (hay có định
hướng) và cũng có thể được chuẩn hoá bằng những câu hỏi đưa cho người được
hỏi để họ trả lời một cách có chuẩn bị.
4. Phương pháp thực nghiệm


Thực nghiệm là phương pháp trong đó nhà khoa học chủ động tạo ra hiện
tượng cần nghiên cứu bằng cách đặt những người được thực nghiệm (nghiệm thể)
vào hoàn cảnh buộc phải có hoạt động tích cực, đáp ứng những tác động thực
nghiệm. Với sự biến thiên của các điều kiện trong thực nghiệm, nhà khoa học có
thế tìm biết được mối quan hệ nhân quả và xác định được những quan hệ có tính
quy luật giữa các hiện tượng. Người ta có thể thu được những cứ liệu lớn cần cho

việc khái quát hoá bằng cách lặp đi lặp lại thực nghiệm.
Thực nghiệm có thể được tiến hành dưới hình thức tự nhiên hoặc trong
phòng thí nghiệm.
Phương pháp thực nghiệm giúp cho việc nhận thức hiện thực nhanh chóng
và sâu sắc hơn các phương pháp khác. Nó đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của
việc nghiên cứu khoa học và đem lại những vết quả đáng tin cậy. Bởi vậy, nó là
một phương pháp rất quan trọng đối với tâm lý học xã hội, khi nó muốn khẳng
định mình như là một khoa học thực nghiệm.
Trong tâm lý học xã hội, thực nghiệm là một phương pháp rất phức tạp, rất
khó sử dụng vì nó được thực nghiệm đối với con người. Nó không chỉ liên quan
đến vấn đề tri thức hay kỹ thuật, tài chính hay tổ chức mà nó còn liên quan đến vấn
đề đạo đức và cả pháp luật nữa. Ngoài ra, mỗi thực nghiệm đã là một công trình
sáng tạo của nhà khoa học, nó có những yêu cầu, những nhiệm vụ, những phương
tiện, những biện pháp, những thao tác tiến hành riêng đòi hỏi người làm thực
nghiệm (nghiệm viên) phải có quá trình nghiên cứu và tập dượt.
5. Phép đo xã hội
Phương pháp này dùng để nghiên cứu cấu trúc tâm lý xã hội của những
nhóm nhỏ, cũng như để tìm hiểu cá nhân như một bộ phận cấu thành của nhóm.
Phép đo xã hội có những nhiệm vụ chính sau:
- Chuẩn đoán những quan hệ giữa các cá nhân và giữa các nhóm nhằm làm
thay đổi và hoàn thiện chúng.
- Do quan hệ tương hỗ của các thành viên trong cơ cấu chính thức, cũng như
những chính thức; đánh giá ảnh hưởng lẫn nhau của các thành viên trong nhóm
không chính thức và chính thức, tìm hiểu các nhóm nhỏ này chịu áp lực của nhóm
lớn như thế nào trong hoạt động chung.
- Dựa trên các kết quả khảo cứu của phép đo xã hội, có thể đề ra các biện
pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý trong các nhóm sản xuất.
Quá trình tiến hành phép đo xã hội thông qua các giai đoạn sau:
- Đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu và lựa chọn đối tượng để đo.
- Hình thành các giả thuyết và các nhận định cơ bản.

- Lập câu hỏi cho các phiếu điều tra.
Phải xác định được các tiêu chuẩn cho các câu hỏi trước khi soạn thảo. Tiêu
chuẩn này phải dựa vao nhiệm vụ và yêu cầu nghiên cứu. Các câu hỏi phải ngắn
gọn, đơn giản, rõ ràng, phải tính đến các yếu tố xã hội, nghề nghiệp và tâm lý của
các đối tượng hỏi.
Đối với các nghiệm thể (người được đo) phải lựa chọn số thành viên trong
nhóm để điền vào phiếu điều tra. Có hai trường hợp lựa chọn:
- Trường hợp thứ nhất: chọn tất cả các thành viên trong nhóm, trừ mình ra,
ví dụ, nhóm 15 người, chọn 14 người. Đây là sự lựa chọn không có giới hạn.


- Trường hợp thứ hai: lựa chọn có giới hạn. Ví dụ, trong nhóm 15 người, lựa
chọn 5 người. So với lựa chọn không có giới hạn, lựa chọn có giới hạn có độ tin
cậy và chính xác hơn, nghiệm thể chú ý và tập trung hơn đối với các câu hỏi, và
lựa chọn thành viên đáp ứng được yêu cầu đề ra.
Các công thức của xác suất lựa chọn ngẫu nhiên (lựa chọn có giới hạn) là:
d
P(A) = -----N-1
P(A): xác suất lựa chọn
d: Số lượng các thành viên lựa chọn
N: Số lượng các thành viên nhóm,
N - 1: Số thành viên của nhóm trừ đi nghiệm thể.
Thông thường P(A) trong giới hạn 0,20 đến 0,30.
Giai đoạn cuối của quá trình chuẩn bị là lập phiếu điều tra, quá trình này gồm:
- Chuẩn bị danh sách các cá nhân điều tra theo thứ tự từ 1 đến n.
- Lập phiếu điều tra: ở phần đầu phiếu ghi hướng dẫn cách thực hiện (lựa
chọn bao nhiêu người và theo yêu cầu nào). Đối với lựa chọn không có giới hạn,
trong phiếu sau mỗi câu hỏi cần để khoảng cách cho nghiệm thể trả lời.
- Đối với trường hợp lựa chọn có giới hạn, sau mỗi câu hỏi cần kẻ cột dọc để thể
nghiệm điền tên những người lựa chọn vào (ví dụ, cần chọn 5 người thì kẻ 5 cột).

- Trong trường hợp muốn so sánh kết quả điều tra, có thể tiến hành một số
lần thí nghiệm, trong phiếu phải ghi rõ số lần điều tra.
Kết quả điều tra phụ thuộc rất nhiều vào sự chuẩn bị. Cần phải làm cho
nghiệm thể (đối tượng điều tra) hiểu được nhiệm vụ, yêu cầu, tầm quan trọng của
cuộc điều tra. Người được điều tra phải trả lời các câu hỏi trong phiếu một các độc
lập và không được đem phiếu về nhà trả lời. Nếu người được hỏi mà quên các
thành viên trong nhóm thì nhân viên điều tra có thể giúp anh ta nhớ lại. Số lượng
các câu hỏi không nên quá nhiều để làm mất thời gian cho người trả lời. Thái độ
của nghiệm viên (người tổ chức điều tra) phải niềm nở, tin tưởng, không nên tạo ở
các nghiệm thể trạng thái căng thẳng.
Khi các phiếu điều tra thực hiện xong, nghiệm viên thu lại và sau đó là giai
đoạn xử lý.
Đánh giá độ tin cậy của phép đo xã hội dựa vào các nhiệm vụ và giả thuyết
nghiên cứu. Độ tin cậy phụ thuộc vào số lần đo. Số lượng đo càng lớn thì độ tin
cậy càng cao. Cho nên phép đo xã hội thường tiến hành trong cùng một thời gian ở
các nhóm có không ít hơn 25 người.
Tính hạn chế của phép đo xã hội thể hiện ở chỗ: Khuynh hướng chủ quan
trong các câu trả lời của các nghiệm thể về quan hệ qua lại của con người. Vì vậy
phương pháp này cần kết hợp với một số phương pháp khác để đảm bảo các thông
tin thu được có độ tin cậy cao.
6. Đánh giá của nhóm về cá nhân
Đây là phương pháp mà tâm lý học xã hội hay sử dụng trong các xí nghiệp và
trường học để tìm hiểu sự thể hiện và mức phát triển các phẩm chất tâm lý xã hội
của công nhân, kỹ sư, quản đốc học sinh, sinh viên v.v…. Phương pháp này được sử


dụng rộng rãi trong tâm lý học công nghiệp với mục đích lựa chọn và bố trí cán bộ,
đây là những vụ có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đối với chúng ta hiện nay.
Hoạt động sản xuất của con người được thực hiện trong sự tác động qua lại
vơi những người khác (người lãnh đạo, người dưới quyền, người cộng sự...), do

vậy trong điều kiện của giao tiếp chính thức và không chính thức, hoạt động này
mang tính chất xã hội và tập thể. Hiệu quả làm việc của một công nhân nào đó phụ
thuộc không chỉ vào năng lực cá nhân của người đó, mà còn phụ thuộc vào quan hệ
với các thành viên khác của tập thể. Các quan hệ này hoặc tạo điều kiện thuận lợi,
hoặc cản trở hoạt động của cá nhân. Sự tác động qua lại trong quá trình sản xuất đã
hình thành những quan hệ tốt hay xấu về người khác. Những quan niệm này là kết
quả tri giác hàng ngày của cá nhân về hoạt động, hành vi của những người cùng
làm việc với mình. Về nội dung, các quan niệm này là những nhận định có tính
chất đánh giá những phẩm chất khác nhau của một cá nhân về người khác như:
tính cách, năng lực, hiểu biết, ý chí, kỹ năng v.v…. Trong quá trình giao tiếp, dựa
trên những quan niệm lẫn nhau này đã hình thành nên dư luận xã hội của các thành
viên trong tập thể sản xuất và mỗi con người.
Do vậy, về bản chất tâm lý xã hội, đánh giá của nhóm về cá nhân là sự phản
ánh dư luận xã hội về con người, mà trước hết thể hiện như kết quả nhận thức lẫn
nhau trong quá trình giao tiếp trực tiếp hay gián tiếp. Xuất phát từ bản chất này để
xác định nhiệm vụ nghiên cứu là phân tích cấu trúc của giao tiếp giữa khách thể và
chủ thể đánh giá.
Đánh giá khách quan là đánh giá phải dựa vào tác động cảm xúc qua lại một
cách cụ thể đối với khách thể đó, tức là dựa vào kinh nghiệm giao tiếp với con
người. Đối tượng đánh giá trong phương pháp này là con người - chủ thể của hoạt
động lao động, của giao tiếp và nhận thức, có những đặc điểm cá nhân, nhân cách và
cá tính. Cho nên trong quá trình tiến hành đánh giá phải chú ý đến cấu trúc của nhân
cách. Ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này trong khi nghiên cứu thể hiện ở chỗ phải xác
định những phẩm chất cần thiết đối với việc thực hiện các chức năng cụ thể. Nghĩa
là ở vị trí và công việc đó anh ta đã có những phẩm chất tương ứng chưa.
Những phẩm chất về cá nhân được nhóm đánh giá phải được phân ra theo
chức năng và yêu cầu đối với công việc mà người đó thực hiện. Việc phân loại này
dựa vào các yếu tố sau:
- Phân tích quá trình lao động cụ thể của cá nhân.
- Dựa vào cấu trúc tâm lý chung của nhân cách.

- Dựa vào quan niệm thực tế của những người đồng nghiệp.
Ví dụ: đánh giá các phẩm chất của một kỹ sư dựa vào quan niệm thực tế về
nhân cách kỹ sư của chính các kỹ sư.
Các nhà tâm lý học bộ môn tâm lý học xã hội Trường Đại học Tổng hợp
Lêningrat (Liên Xô cũ) đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm: đánh giá của tập thể
lao động về người kỹ sư. Họ đã nhận được 109 phẩm chất mà tập thể lao động sản
xuất cho là người kỹ sư cần phải có. Các phẩm chất nhân cách đó được chia ra các
nhóm sau:
- Các phẩm chất thể hiện quan hệ với công việc, gồm: yêu lao động, sáng tạo
trong công việc, hiệu quả, chú ý tới công việc quan hệ giao tiếp trong lao động v.v….


- Các phẩm chất thể hiện phong cách chung của hành vi và hoạt động con
người, gồm: niềm tin, tính nguyên tắc, tính tổ chức, sự chú ý, khả năng làm việc,
tính kỷ luật, v.v….
- Tri thức, gồm: tri thức kinh tế, tri thức tổ chức lao động, tri thức về toán học, về
nghĩa vụ, về luật pháp, về kỹ thuật của chuyên môn mình, về đạo đức, v.v….
- Các phẩm chất trí tuệ, gồm: tính phân tích, linh hoạt, chú ý suy luận, phê
phán, lôgíc, khái quát, tư duy không gian, trừu tượng, v.v….
- Các phẩm chất liên quan đến tổ chức kỹ thuật, gồm: kinh nghiệm trong
công việc, biết tổ chức quy trình kỹ thuật, kiểm tra, biết giải thích những vấn đề kỹ
thuật, v.v….
- Các hoạt động liên quan đến hoạt động tổ chức hành chính, gồm: biết tạo
nên không khí lao động, biết quản lý con người, biết tạo nên những quan hệ có lợi
cho công việc và cho tập thể, biết thuyết phục người khác, v.v...
- Các phẩm chất thể hiện quan hệ với con người, gồm: khéo léo, cởi mở,
chân thật, tính tập thể, công bằng, tin tưởng, thiện chí, hiểu người khác, v.v….
- Các phẩm chất thể hiện trong quan hệ với bản thân, gồm: tự phê bình,
khiêm tốn, đòi hỏi bản thân, tự kiềm chế, tự ái, v.v…
Từ các phẩm chất đã phân loại trên có thể phân loại ra những phẩm chất

chính, tiêu biểu cho các nhóm phẩm chất trên. Để tìm ra những phẩm chất quan
trọng và cần thiết hơn đối với vai mà cá nhân đó đảm nhiệm trong nhóm có thể
tính chung theo thang điểm mười (từ 0 đến 10 điểm).
Trên đây là một số phương pháp cơ bản được sử dụng trong việc nghiên cứu
tâm lý học xã hội. Mỗi phương pháp thích hợp với một loại đề tài nào đó, thực hiện
tốt một loại nhiệm vụ nào đó và đều có những ưu điểm lẫn nhược điểm. Vấn đề đặt
ra với người nghiên cứu là phải biết lựa chọn phương pháp. Trong nghiên cứu khoa
học nhất là khoa học xã hội, người ta thường phải kết hợp nhiều phương pháp để
nghiên cứu cùng một vấn đề nhằm khai thác triệt để những tác dụng của từng
phương pháp và để có thể đối chiếu kết quả của chúng với nhau hiện nay trên thế
giới, nhiều nhà tâm lý học xã hội đã tiến hành nghiên cứu ở một trình độ cao hơn,
đã áp dụng điều khiển học, những phương pháp thống kê và mô hình hoá toán học.
Tuy nhiên, tất cả còn là mới mẻ.
5. Cơ cấu tâm lý của nhóm lớn?
1. Những vấn đề chung về nhóm lớn
Việc nghiên cứu của Tâm lý học xã hội về các nhóm lớn gặp phải hàng loạt
các khó khăn. Do vậy, trong truyền thống nghiên cứu tâm lý học nhóm lớn xã hội
đã có một số phận tương đối phức tạp và kì lạ. Một mặt Tâm lý học xã hội bắt đầu
chính từ việc nghiên cứu các nhóm lớn xã hội, nhưng trong nửa đầu thế kỉ thứ XX,
Tâm lý học xã hội thực nghiệm phát triển mạnh mẽ và sự tập trung chính lại là
nghiên cứu nhóm nhỏ. Vấn đề nhóm lớn lại trở thành “đứa con ghẻ” chủ yếu vì có
sự suy yếu của mối quan tâm tới các nghiên cứu lý luận trong Tâm lý học xã hội,
cũng như vì tính phức tạp của việc nghiên cứu các nhóm lớn bằng phương pháp
thực nghiệm.
Có thể khẳng định một cách tự tin rằng vấn đề nhóm lớn đang được sinh ra
lần thứ hai. Về bản chất, nếu Tâm lý học xã hội không có phần về tâm lý học nhóm
lớn thì nói chung không thể trở thành Tâm lý học xã hội theo đúng nghĩa của từ


này. Theo khẳng định của G.Điligenxki, việc xem xét tâm lý của nhóm lớn không

phải là một trong số các vấn đề của Tâm lý học xã hội mà là vấn đề quan trọng
nhất của nó.
Có hàng loạt các vấn đề liên quan đến nhóm lớn. Trước tiên đó là vấn đề:
những nhóm nào cần được xem là nhóm lớn? Thứ hai, tâm lý của nhóm lớn có cấu
trúc như thế nào? Các yếu tố cơ bản và sự phụ thuộc lẫn nhau, tính chất mối liên hệ
lẫn nhau giữa chúng ra sao? Thứ ba là vấn đề về mối quan hệ lẫn nhau giữa tâm lý
của các cá nhân riêng lẻ tham gia vào nhóm và các yếu tố tâm lý nhóm. Cuối cùng,
thứ tư, những phương pháp nào có thể sử dụng trong việc nghiên cứu tất cả các
hiện tượng đó?
- Vậy “nhóm lớn xã hội” là gì? Xuất phát từ những nguyên tắc chung trong
cách hiểu về nhóm, tất nhiên không thể đưa ra một định nghĩa đơn thuần về số
lượng cho khái niệm này. Theo sơ đồ được nêu ra ở phần trên đã chỉ ra rằng:
những tập hợp người lớn về số lượng được chia ra thành hai loại: loại thứ nhất là
các nhóm ngẫu nhiên và tự phát. Đó là các tập hợp tồn tại trong khoảng thời gian
tương đối ngắn như đám đông, thính giả (cử toạ), công chúng và loại thứ hai là các
nhóm xã hội - theo đúng nghĩa của từ này, tức là những nhóm hình thành trong tiến
trình xã hội lịch sử, chiếm một vị trí nhất định trong hệ thống các quan hệ xã hội
của mỗi kiểu xã hội cụ thể và do vậy tồn tại lâu dài và bền vững. Loại thứ hai này
bao gồm các nhóm như giai cấp xã hội, tầng lớp xã hội và các nhóm tộc người (với
hình thức chính là các dân tộc), các nhóm nghề nghiệp, nhóm giới tính, lứa tuổi
(theo quan điểm này với tư cách là nhóm có thể xem xét các nhóm như: nhóm
thanh niên, phụ nữ những người trưởng thành và trung niên...).
- Tâm lý nhóm lớn có cấu trúc như thế nào? Hầu như tất cả các nhà nghiên
cứu (G.G.Điligenxki, A.I.Goriachieva, Iu.V.Brômlei...) đều phân chia thành hai
phần cấu thành trong nội dung của nó: 1. Nếp tâm lý như là cấu tạo tâm lý ổn định
hơn (bao gồm tính cách xã hội hay tính cách dân tộc, nếp sống, truyền thống, thị
hiếu...); 2. Phương diện xúc cảm như một cấu tạo tương đối biến động hơn (nhu
cầu, hứng thú, tâm trạng). Mỗi yếu tố cần trở thành đối tượng phân tích Tâm lý học
xã hội một cách đặc biệt.
- Vấn đề thứ ba - vấn đề mối quan hệ qua lại giữa các đặc trưng tâm lý của

nhóm lớn và ý thức của mỗi cá nhân tham gia vào nhóm. Trong dạng chung nhất,
vấn đề này được giải quyết như sau: Các đặc trưng tâm lý nhóm là những gì mang
tính đặc thù (cho nhóm) nhưng lại chung cho tất cả các cá nhân và do vậy hoàn
toàn không phải là tổng các nét có ở mỗi cá nhân: Rõ ràng, cái phần tâm lý của các
cá nhân tạo ra nhóm, thuộc về nhóm là cái có thể gọi là “tâm lý nhóm”. Nói cách
khác: tâm lý nhóm là cái có chung ở tất cả các đại diện nhóm ở mức độ này hay
mức độ khác, tức là đặc thù cho họ, được sinh ra bởi các điều kiện tồn tại chung.
Cái đặc thù đó không phải là như nhau đối với tất cả các cá nhân mà chỉ là cái
chung. Các nét chung của các đại diện của một nhóm xã hội nào đó tồn tại một
cách khách quan, bởi lẽ chúng thể hiện trong hoạt động hiện thực của nhóm. Theo
mối quan hệ với “ý thức” riêng lẻ, tâm lý nhóm như là một hiện thực xã hội nào đó
vượt ra khỏi phạm vi ý thức của cá nhân riêng lẻ và tác động đến cá nhân cùng với
các điều kiện khách quan của cuộc sống, theo cách nói của Valông, dẫn tới “sự
nhân đôi môi trường” trong đó con người hoạt động.


Bằng các phương pháp nào có thể nghiên cứu tâm lý nhóm lớn xã hội?
Trong chừng mực các nét điển hình được củng cố trong đạo đức, truyền thống và
nếp sống, Tâm lý học xã hội - trong trường hợp này - cần sử dụng các phương
pháp của các khoa học khác, như Dân tộc học để phân tích các sản phẩm văn hóa.
W.Wundt đề xuất về việc nghiên cứu ngôn ngữ, huyền thoại và nếp sống để tìm
hiểu tâm lý dân tộc. Một trong các hình thức hiện đại trong việc sử dụng các
phương pháp đó là các nghiên cứu so sánh hay liên văn hóa. Ở đây thuật ngữ “liên
văn hóa” được sử dụng mang tính truyền thống khi nói đến các nguồn gốc văn hóa
khác nhau. Trong thực tế thì không nhất thiết chỉ so sánh các văn hóa khác nhau
mà còn so sánh các nhóm xã hội khác nhau.
Trong việc nghiên cứu tâm lý nhóm lớn còn có thể áp dụng cả các phương
pháp truyền thống của xã hội học bao gồm cả các phương pháp phân tích thống kê
khác nhau. Các kết quả nghiên cứu được thực hiện nhờ sự trợ giúp của các phương
pháp đó không phải luôn phát hiện ra được các liên hệ nhân quả; trong đó trước

tiên mô tả một số những liên hệ phụ thuộc chức năng nào đó cho phép có được các
tương quan có ý nghĩa, điều chấp nhận được đổi với nghiên cứu tương quan, phổ
biến trong việc nghiên cứu đặc trưng tâm lý của nhóm lớn. Ngoài các phương pháp
nghiên cứu nêu trên, trong khi nghiên cứu nhóm lớn, Tâm lý học xã hội sử dụng cả
các phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học.
Lý thuyết “Biểu tượng xã hội” được đưa ra trong trường phái Tâm lý học
Pháp (X.Moscovisi) đã có đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Tâm lý học xã
hội nhóm lớn. Lý thuyết này ở một mức độ có ý nghĩa đồng thời đề ra phương
pháp nghiên cứu nhóm lớn. Biểu tượng xã hội trong lý thuyết này được hiểu là các
biểu tượng đời thường của một nhóm nào đó về hiện tượng xã hội này hay hiện
tượng xã hội khác, tức là phương thức lý giải và thấu hiểu hiện thực đời sống. Nhờ
sự trợ giúp của các biểu tượng xã hội, mỗi nhóm xây dựng hình ảnh thế giới xã
hội, các thiết chế của nó, chính quyền, luật pháp, chuẩn mực. Các biểu tượng xã
hội - công cụ không phải của cá nhân mà của chính nhận thức xã hội của nhóm.
Bởi lẽ “biểu tượng” được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm, hoạt động của nhóm,
hướng tới cách lý giải đời thường được nhấn mạnh trong kinh nghiệm này. Về bản
chất, thông qua sự phân tích các biểu tượng xã hội của các nhóm lớn, bộ mặt tâm
lý của chúng được nhận thức. (Đônxôp, Emelianôva, 1987).
Các biểu tượng xã hội được nhóm tạo ra thể hiện dưới dạng: một mặt nhóm
định hình một số khía cạnh của hiện thực xã hội, tạo ra ảnh hưởng trong việc đánh
giá các khía cạnh đó, sau đó sử dụng biểu tượng của mình về hiện tượng xã hội
trong việc xác định thái độ đối với chúng. Mặt khác, biểu tượng xã hội nhóm được
đặt ra tạo khả năng hoà nhập nhóm, dường như thực hiện chức năng “giáo dục”
nhận thức cho các thành viên, mang đến cho họ những cách lý giải đặc thù, quen
thuộc (đối với nhóm) về các sự kiện, tức là tạo khả năng hình thành sự đồng nhất
nhóm (Anđrêeva, 2000). Như vậy phân tích các biểu tượng xã hội là chìa khóa cho
việc hiểu tâm lý nhóm. Lý thuyết này giúp xác định khái niệm “khuôn mẫu xã hội”
của nhóm lớn xã hội chính xác hơn. Trong đó phản ánh “góc nhìn” và “cách hiểu”
thế giới của các thành viên của một nhóm, phản ánh câu trả lời đặc thù của họ đối
với bức tranh thế giới. Các thành viên của một nền văn hóa nhất định lĩnh hội các

phương thức tri giác giống nhau hình thành các hình ảnh giống nhau thể hiện trong


các hình mẫu ứng xử đặc thù. Tập hợp các biểu tượng xã hội độc đáo của nhóm và
tương ứng với nó là các hình mẫu hành vi nhất định xác định khuôn mẫu của
nhóm. Không phải ngẫu nhiên trong ngôn ngữ đời thường nhắc tới “hình mẫu trí
thức”, “hình mẫu doanh nhân”...
2. Đặc điểm Tâm lý dân tộc
Các nhóm tộc người là ví dụ về nhóm lớn xã hội có ý nghĩa trong quá trình
xã hội lịch sử. Khác với tâm lý học giai cấp, các đặc điểm của các nhóm tộc người,
trước hết là dân tộc được nghiên cứu nhiều hơn. Một nhánh đặc biệt của khoa học
giao thoa giữa Tâm lý học xã hội và Dân tộc học - Tâm lý học tộc người, nghiên
cứu riêng biệt những vấn đề nêu trên (Xtêphanhencô, 1999).
Truyền thống nghiên cứu Tâm lý học nhóm tộc người trong Tâm lý học xã
hội bắt đầu từ các công trình của W.Wundt trong “Tâm lý học dân tộc”. Sự thâu
thuộc về tộc người của cá nhân là nhân tố đặc biệt có ý nghĩa đối với Tâm lý xã hội
học. Bởi lẽ nó xác định những đặc trưng nhất định của môi trường vi mô. Trong
các điều kiện của môi trường đó, nhân cách được hình thành. Đặc trưng tộc người
ở một mức độ nhất định tập trung trong kinh nghiệm lịch sử của mỗi tộc người và
việc lĩnh hội các kinh nghiệm này là nội dung quan trọng nhất của quá trình xã hội
hóa. Thông qua môi trường xung quanh gần gũi nhất trước tiên là gia đình, nhà
trường, cá nhân theo từng mức độ phát triển tiếp cận với đặc trưng văn hóa tộc
người, tập quán truyền thống, phương thức, ý thức về sự thâu thuộc vào tộc người
phụ thuộc vào các điều kiện xã hội lịch sử cụ thể của sự tồn tại của tộc người đó.
Tương ứng với truyền thống được hình thành trong Tâm lý học xã hội nhóm
lớn, trong tâm lý học cộng đồng tộc người phân biệt hai mặt: 1. Tính cách dân tộc phần ổn định hơn cả - nếp tâm lý (bao gồm, tính cách khí chất và cả truyền thống,
tập quán) của một tộc người hoặc cả một dân tộc; 2. Phương diện xúc cảm (bao
gồm tình cảm dân tộc, tộc người).
- Tính cách dân tộc: Đây là khái niệm phổ biến hơn cả để mô tả các đặc điểm
của nếp tâm lý tộc người (dân tộc). Mặc dù còn nhiều mâu thuẫn vả nhiều tranh

luận liên quan đến nội dung của tính cách dân tộc nhưng trong các nghiên cứu cụ
thể vẫn có sự đồng thuận tương đối lớn khi mô tả các nét tính cách dân tộc ở nhiều
nhóm dân tộc riêng lẻ (tính dũng cảm, yêu lao động, khả năng kiềm chế...). Liên
quan đến bản chất của tính cách dân tộc thì ở đây xuất hiện nhiều vấn đề gây tranh
cãi. Trước tiên là nét tính cách dân tộc có quan hệ như thế nào với các nét tính cách
của mỗi đại diện của nó. Liệu các nét tính cách có phải hoàn toàn chỉ có ở một dân
tộc mà hoàn toàn không có ở các nhóm khác (tức là liệu có thể nói rằng một dân
tộc nào đó yêu lao động, còn dân tộc khác - cởi mở). Cuối cùng các nét tính cách
dân tộc và tính cách xã hội tác động qua lại như thế nào? Do vậy không chỉ đơn
giản nói về tập hợp các nét tính cách mà chủ yếu là về mức độ biểu hiện của nét
này hay nét khác trong tập hợp đó, về đặc trưng trong cách biểu hiện của nó:
Không phải ngẫu nhiên các tài liệu tập trung vào việc xác định một số đặc trưng
nào đó. Ví dụ, đặc trưng của người Anh là hài hước, mặc dù sự hài hước không chỉ
có ở người Anh. Giải thích sự hình thành tính cách tộc người cũng là công việc
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các nhà nghiên cứu đã đi theo nhiều cách
tiếp cận khác nhau để giải quyết vấn đề này. Từ cách tiếp cận dựa trên các điều
kiện tự nhiên, khí hậu đến tiếp cận dựa trên sự giao thoa và khuyếch tán văn hóa;


từ tiếp cận dựa trên các đặc điểm sinh học thể chất, đến tiếp cận hoạt động sống
của tộc người. Tuy vậy, câu hỏi này vẫn cần những nghiên cứu tiếp theo.
Trong nghiên cứu tính cách dân tộc, ngoài việc tìm hiểu tập quán và truyền
thống, việc phân tích ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, việc truyền
lại các nét tính cách dân tộc được thực hiện trong quá trình xã hội hóa, trước tiên là
trực tiếp qua ngôn ngữ. Tính ổn định tương đối của các nét tính cách dân tộc, dù có
sự thay đổi của môi trường được giải thích bằng sự xuất hiện của sức ỳ nào đó,
được đảm bảo bằng con đường chuyển giao kinh nghiệm giữa các thế hệ.
- Phương diện xúc cảm của tộc người bao gồm sự đồng nhất tộc người và ý
thức tự giác tộc người. Các đặc trưng này liên quan đến ý thức của con người về sự
thâu thuộc của bản thân vào một nhóm tộc người nhất định và sự trải nghiệm xúc

cảm về việc đó, tức là tiếp nhận và trải nghiệm sự khác biệt văn hóa của nhóm mình
với nhóm khác. Cùng với quá trình đó là sự xuất hiện của các khuôn mẫu tộc người.
Tính cộng đồng tâm lý có ở mọi nhóm tộc người được thể hiện trong sự hình
thành tình cảm “chúng ta” nào đó. Đối với nhóm tộc người “tình cảm chúng ta”
xác định ý thức về các đặc điểm của tộc người mình khác biệt với tộc người khác.
Hình ảnh của các nhóm khác, trong đó thường bị làm tầm thường hóa, được hình
thành dưới ảnh hưởng của các quan hệ liên nhóm, các quan hệ tạo ra tâm thế đặc
biệt cho các đại diện của nhóm khác. Trong đó kinh nghiệm giao tiếp với nhóm tộc
người khác có vai trò nhất định. Nếu các quan hệ này trong quá khứ mang tính thù
địch thì màu sắc đó được di chuyển sang mỗi đại diện được gặp lại của nhóm đó và
bằng cách đó hình thành tâm thế tiêu cực. Thường xuyên hơn cả, khuôn mẫu tộc
người xuất hiện vì sự hạn chế của giao tiếp liên nhóm: các nét có ở những đại diện
cá biệt của nhóm tộc người (khác) lần lượt được phổ biến ra toàn bộ nhóm
(Stêphanhencô, 1999).
Khuôn mẫu được hình thành bằng cách đó sau này ảnh hưởng tới sự xuất
hiện của thái độ thiện cảm hay không thiện cảm của tộc người. Bản thân sự ý thức
về các đặc điểm của tộc người không chứa đựng định kiến trước chống lại tộc
người khác. Nhưng vấn đề vẫn xảy ra cho tới khi sự tương phản của các khác biệt
được nhận thức vẫn còn tiếp diễn. Tuy nhiên rất dễ chuyển từ sự tương phản sang
việc đánh giá nhóm tộc người khác, sang sự thân thiện hay không thiện cảm và khi
đó có thể xảy ra sự hạ thấp hình ảnh của nhóm khác. Trong các khuôn mẫu tộc
người luôn luôn có sự va chạm mạnh mẽ của những kiểu ảnh hưởng từ ngoài tộc
người, trước hết là xã hội, lịch sử, chính trị, cũng như những ảnh hưởng được quy
định bởi nội dung văn hóa... Cơ chế tiếp theo của việc biến khuôn mẫu tộc người
thành định kiến và sau đó là sự củng cố định kiến trong các học thuyết chinh trị, tư
tưởng - vấn đề không phải của Tâm lý học xã hội. Khuôn mẫu tộc người luôn được
hình thành trong một vài bối cảnh xã hội nào đó và khi đó chúng có được một hình
thức bền vững - định kiến, tức là một cấu tạo có màu sắc xúc cảm tiêu cực mang
tính quy chuẩn, chúng dễ dàng được sử dụng như là vũ khí của sự thù hằn dân tộc.
Cũng từ đó xuất hiện về phương diện tâm lý học hiện tượng trung tâm tộc người

(hay trung tâm luận tộc người, hay tự kì tộc người) - đề cao nhóm tộc người mình,
mong muốn tiếp nhận mọi hiện tượng cuộc sống từ lập trường của nó, xác định
một cách thống nhất các nét tính cách của tộc người.


Tính tương đối của các khác biệt tâm lý giữa các nhóm là đặc trưng quan
trọng của TLH nhóm tộc người (Kon, 1970). Những khác biệt này không thể tuyệt
đối hóa và cần được xem như là cái phải sinh từ những điều kiện lịch sử nhất định,
được củng cố trong chiều dài của hàng loạt các thế hệ (“sự chuyển giao văn hóa”).
Dù cho có tính ổn định tương đối, các nét này có thể thay đổi theo lịch sử. Tâm lý
học tộc người đã tích luỹ được một số lượng tương đối lớn những tư liệu thú vị liên
quan đến những đặc điểm nếp tâm lý và hành vi của con người, bị quy định bởi sự
thâu thuộc của họ vào một tộc người. Do vậy nhiệm vụ đặt ra cho Tâm lý học xã
hội và Tâm lý học xã hội tộc người ngày nay tương đối phức tạp. Tính nóng bỏng
chính trị của vấn đề trong thế giới hiện đại buộc phải giải quyết các vấn đề này với
sự chính xác đặc biệt. Nguyên tắc bình đẳng các dân tộc, đặc trưng cho các chương
trình chính trị của các quốc gia dân chủ không biểu thị sự thừa nhận tính giống
nhau giữa các dân tộc. Từ đó chỉ ra các đặc điểm dân tộc, trong đó có sự khác biệt
trong tâm lý dân tộc vẫn còn là một nhiệm vụ cấp thiết.
3. Đặc điểm Tâm lý giai cấp
Giữa sự đa dạng của các nhóm lớn các giai cấp xã hội có được sự quan tâm
đặc biệt. Trong nhiều tập sách về Tâm lý học xã hội do H.Linđcey và E.Aronson
chủ biên đã chỉ ra rằng bản thân thuật ngữ giai cấp có nội dung khác nhau đối với
các nhà nghiên cứu châu âu và Mỹ. Đối với các nhà nghiên cứu phương Tây, khái
niệm “giai cấp” hiện thực hơn bởi lẽ sự đồng nhất với giai cấp rõ ràng hơn, tương
đối thường xuyên gắn với việc xác định sự thâu thuộc về chính trị. Đối với văn
hóa, nhìn chung việc thao tác hóa khái niệm “giai cấp công nhân”, “giai cấp tư
bản” là không đặc trưng nhưng họ lại quen hơn với khái niệm “giai cấp trung lưu”,
“giai cấp bần cùng”... Điều đó liên quan tới việc trong các lý thuyết xã hội học cấu
trúc xã hội được mô tả nhờ sự trợ giúp của các khái niệm như “các thiết chế kinh tế

- xã hội” chứ không phải “giai cấp xã hội”. Một cách tự nhiên, điều đó không thể
không ảnh hưởng tới những sự khác biệt trong cách hiểu cấu trúc Tâm lý học xã
hội về giai cấp. Nói riêng, trong một mức độ lớn, thay vì phân tích tâm lý học về
giai cấp, người ta đề nghị phân tích tâm lý học các tầng lớp xã hội khác nhau. Tuy
vậy trong mọi tình huống cần lưu ý rằng bản chất của sự phân tích xã hội là ở chỗ
làm rõ liên hệ giữa các đặc trưng tâm lý của nhóm và hình mẫu hành vi của các
thành viên nhóm.
Từ cách hiểu truyền thống của xã hội học mác xít (trong đó có cả xã hội học
Nga) về giai cấp có thể nhận thấy ba tuyến nghiên cứu tâm lý học giai cấp: Đó là
chỉ ra các đặc điểm đặc thù của các giai cấp cụ thể đã tồn tại trong lịch sử và đang
tồn tại; chỉ ra đặc trưng của các giai cấp khác nhau trong các thời đại nhất định;
phân tích mối quan hệ giữa tâm lý giai cấp và tâm lý các thành viên riêng lẻ của
giai cấp như là những trường hợp riêng của vấn đề mối quan hệ giữa tâm lý học
nhóm và tâm lý học cá nhân. Đối với truyền thống này việc sử dụng thuật ngữ
“tâm lý học giai cấp” có đặc trưng là không loại trừ sự phân tích tâm lý học các
tầng lớp riêng lẻ tham gia vào giai cấp này hay giai cấp khác.
Phương diện động thái xúc cảm của tâm lý học giai cấp được nghiên cứu đầy
đủ hơn cả, bao gồm các nhu cầu giai cấp, các lợi ích giai cấp, tập hợp các vai trò xã
hội. Trong chừng mực vị trí xã hội nhất định, khối lượng và thành phần của các
quyền lợi tinh thần và vật chất mà mỗi thành viên nhóm được phân bố chừng đó.


Nó tạo ra cấu trúc nhất định của các nhu cầu, ý nghĩa tâm lý và trọng lượng của
mỗi nhân tố. Bên cạnh đó vẫn còn một loạt các vấn đề đòi hỏi sự phân tích Tâm lý
học xã hội. Lợi ích được hình thành như là lợi ích của toàn nhóm, nhưng mỗi thành
viên của giai cấp không chỉ tham gia vào nhóm đó mà họ còn là thành viên của
nhiều nhóm xã hội khác: Thứ nhất, ngay trong bản thân mỗi giai cấp có nhiều tiểu
nhóm được phân biệt bằng trình độ nghề nghiệp của nó theo các phương diện công
việc… Thứ hai, mỗi thành viên của một giai cấp có thể đồng thời là thành viên của
một nhóm nào đó trong phương diện học vấn (ví dụ trong trường đại học, trường

phổ thông), nơi thành viên đó tác động qua lại trực tiếp với những thành viên của
các giai cấp khác. Xuất hiện sự đan xen các lợi ích khác nhau, mỗi lợi ích trong số
đó được xác định bởi sự thâu thuộc vào một nhóm có giá trị xã hội. Trong hệ thống
các lợi ích của cá nhân có những lợi ích bền vững hơn và ngược lại trong một số
những tình huống nào đó, các lợi ích ít sâu sắc hơn bắt đầu đóng vai trò nổi bật - có
ý nghĩa mang tính nguyên tắc.
Các yếu tố tham gia vào phần biến động của tâm lý học giai cấp như tập hợp
các vai trò xã hội và định hướng xã hội tương ứng của cá nhân... cũng như tính
chưa rõ ràng của các khái niệm này trong khi áp dụng vào việc phân tích tâm lý
học nhóm lớn trên thực tế chưa được nghiên cứu. Điều này cũng đúng với một hiện
tượng được gọi là “tình cảm xã hội”. Khái niệm tình cảm xã hội không phải được
thừa nhận chung trong các tài liệu. Ở một mức độ nhất định, nhiều vấn đề về tình
cảm xã hội còn tranh luận. Do vậy có thể sử dụng nó như một định nghĩa mô tả
trạng thái nào đó trong phương diện xúc cảm của nhóm (Ví dụ: “căm thù giai cấp”,
xúc cảm xuất hiện trong mối liên hệ với mọi sự đồng nhất xã hội liên quan tới sự
bất bình đẳng). Do vậy tính không xác định của thuật ngữ không làm giảm ý nghĩa
của bản thân vấn đề. Nó chỉ chứng tỏ rằng trong Tâm lý học xã hội chưa có truyền
thống nghiên cứu lĩnh vực này với sự trợ giúp của một bộ máy khái niệm khoa học.
Tâm lý học xã hội buộc phải kết hợp hệ thống các thuật ngữ từ các khoa học khác
như văn học nhân văn, triết học và lịch sử.
Khi đề cập tới việc xác định các thành phần ổn định hơn trong tâm lý học
giai cấp thì có thể thấy vấn đề này ít được nghiên cứu hơn ở một mức độ đáng kể.
Liên quan tới giai cấp, nếp tâm lý thường được mô tả như là một diện mạo tâm lý
thể hiện trong một phương thức đặc biệt của hành vi và hoạt động, trên cơ sở đó có
thể tái thiết kế các chuẩn mực điều chỉnh nhóm xã hội. Diện mạo đó thể hiện trong
tính cách xã hội, những định nghĩa mang tính thao tác của cả khái niệm này cũng
còn chưa được làm rõ trong các tài liệu riêng của Tâm lý học xã hội.
Thuật ngữ “tính cách xã hội” thực tế được đưa ra trong các công trình của
trào lưu Phân tâm học mới, trong đó có các công trình của E.Fromm. Theo ông,
tính cách xã hội - đó là mắt xích kết nối giữa tâm lý cá nhân và cấu trúc xã hội.

Nhưng các loại tính cách xã hội ở Fromm không gắn với một giai cấp xã hội nhất
định mà tương ứng với các kiểu khác nhau của sự tự tách biệt của con người trong
các thời đại lịch sử khác nhau. Ông nêu ra các kiểu như sau: con người thời đại tiền
tư bản (loại “tích luỹ”), những năm 20 của thế kỉ XX (“loại thị trường” gắn liền với
xã hội “xa lánh hoàn toàn”). Do vậy tính cách xã hội thường xuyên hơn cả được
xác định bằng cách mô tả những cái được thể hiện trong hình mẫu hành vi ứng xử
ổn định đặc thù của các thành viên của các giai cấp khác nhau trong các tình huống


trong hoạt động sống của họ và giúp phân biệt giai cấp này với giai cấp khác.
Trong việc đưa ra các tính cách xã hội, các mô tả được chứa đựng trong lịch sử văn
hóa, lịch sử quốc gia, trong các tài liệu văn học có thể được sử dụng (có thể nói
đến các tác phẩm của Banzắc, Gorki). Văn học thực chất đã tiến hành công việc
của tâm lý học trong việc thực hiện cái được gọi là chuyên khảo. Dù cho sản phẩm
của nghiên cứu loại này không tồn tại dưới dạng các lý thuyết khoa học, không
dưới dạng các khái niệm khoa học, mà dưới dạng các hình ảnh nghệ thuật, tức là
dưới dạng các tài liệu văn học phản ánh hiện thực vẫn không làm mất đi giá trị của
các nghiên cứu đó. Ngoài tính cách xã hội, khuôn mẫu xã hội được tìm thấy trong
các thói quen và tập quán, cũng như truyền thống giai cấp. Tất cả các cấu tạo này
đóng vai trò người điều chỉnh hành vi và hoạt động của các thành viên trong nhóm
xã hội, do vậy có ý nghĩa lớn đối với việc hiểu tâm lý học nhóm. Chúng đưa ra đặc
trưng quan trọng nhất của dấu hiệu mang tính tổ hợp của giai cấp như là lối sống
của nó. Khía cạnh Tâm lý học xã hội của các nghiên cứu lối sống, nói riêng, là sao
cho trong phạm vi vị trí khách quan của giai cấp, xác định và giải thích được hình
mẫu hành vi nổi trội của đa số quần chúng đại diện cho giai cấp đó trong các tình
huống độc đáo trong đời sống hàng ngày. Thói quen và tập quán được hình thành
dưới ảnh hưởng của các điều kiện sống nhất định nhưng sau đó được củng cố và
đóng vai trò cái điều chỉnh hành vi. Phân tích thói quen và tập quán chính là vấn đề
riêng của Tâm lý học xã hội. Các phương pháp nghiên cứu vấn đề này gần với các
phương pháp nghiên cứu tâm lý học truyền thống, trong một chừng mực nhất định

ở đây có thể sử dụng phương pháp quan sát.
Như vậy chúng ta đã chỉ ra những hướng phân tích cơ bản, theo đó Tâm lý
học xã hội còn phải thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các đặc trưng tâm lý của các
tầng lớp xã hội khác nhau và các phương thức mà nhờ chúng, tâm lý nhóm được
“xây dựng”, đảm bảo cho “sự lãnh hội” hiện thực xã hội của mỗi cá nhân. Ở đây
điều quan trọng là phải hiểu bằng cách nào quần chúng với số lượng tương đối lớn
- với tất cả sự đa dạng về tâm lý của họ - trong những tình huống có ý nghĩa nào đó
của cuộc sống thể hiện sự giống nhau trong các biểu tượng như thị hiếu, hay thậm
chí cả những đánh giá xúc cảm về hiện thực. Các tình huống này là các tình huống
trong điều kiện sống đặc biệt, được quy định trước hết bởi sự thâu thuộc vào một
nhóm lớn xã hội cụ thể, do vậy Tâm lý học xã hội không thể bỏ qua sự kiện này
khi xây dựng các mô hình giải thích hành vi và hoạt động của con người.
6. Đặc điểm tâm lý nhóm nhỏ?
1. Khái niệm nhóm nhỏ
Nhóm nhỏ là nhóm gồm số ít người liên kết với nhau, trong đó các quan hệ
thể hiện dưới hình thức cá nhân trực tiếp.
* Đặc điểm:
- Số lượng: Là nhóm có ít thành viên, từ 2,3 đến 30-40 người
- Có quan hệ trực tiếp, thường xuyên
- Có sự hoạt động tương hỗ, thống nhất trong nhóm
- Có tính thân mật, đồng điệu
- Tổ chức tương đối ổn định, có khả năng tái sản xuất ra các giá trị, chuẩn
mực xã hội.
- Tạo ra kích thích thúc đẩy và áp lực điều khiển điều chỉnh cá nhân.


Ví dụ:...
* Vai trò: Nhóm nhỏ có vai trò vị trí to lớn với sự phát triển của cá nhân,
cộng đồng xã hội. Đó là môi trường đầu tiên để con người bước đi những bước ban
đầu để gia nhập xã hội...

2. Tâm lý nhóm nhỏ.
Là sự phản ánh trực tiếp những mối liên hệ của nhóm, biểu hiện ở sự đồng
nhất, cố kết, hòa hợp của các thành viên trong hoạt động và giao tiếp. Là cơ sở tinh
thần đảm bảo nhóm tồn tại và phát triển.
3. Các hướng nghiên cứu về nhóm nhỏ
Tâm lý học xã hội phương tây có 3 hướng nghiên cứu chính về nhóm nhỏ:
- Trường phái phân tích xã hội học, đại biểu là J.Moreno
- Trường phái XHH, E. Mayo
- Trường phái động thái nhóm gắn với K.Levin. Ông nghiên cứu trên cơ sở
thực nghiệp và phát hiện ra yếu tố trường tâm lý. Trường tâm lý này sẽ là yếu tố
quy định động thái của nhóm.
Trường phái tâm lý học tập thể.
Macarenco: làm thực nghiệm trong quá trình quản lý, giáo dục trẻ hư ông xây
dựng lên quan niệm về tập thể. Nhưng nhóm nhỏ nghiên cứu ở đây chủ yếu là
nhóm chính thức. Đây cũng là mặt hạn chế về lý luận tâm lý học xã hội của các
nhà tâm lý học xô viết.
=> Qua các hướng nghiên cứu về nhóm nhỏ đã làm phong phú cách tiếp cận,
phương pháp nghiên cứu về nhóm nhỏ và phát hiện ra nhiều hiện tượng tâm lý xã
hội, quy luật nhóm nhỏ, đặc biệt là công lao của các nhà tlhxh phương tây. Chúng
ta cần tiếp thu cả tây và tập thể và cả 2 hình thức chính thức và không chính thức.
Trong tiếp thu, lĩnh hội các trường phái tlh phương tây phải chú ý đến ý nghĩa
xã hội, dấu ấn giai cấp đằng sau nó.
4. Đặc trưng tâm lý nhóm nhỏ
- Đặc trưng về sự hình thành: được hình thành do những nhu cầu nhất định do
sự phân công lao động xã hội và hoạt động xã hội. Là nguyên nhân khách quan cho
sự nảy sinh, hình thành nhóm nhỏ. Đội bóng đá, thể thao.
- Những chuẩn mực của nhóm giữ vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của nhóm.
Chuẩn mực của nhóm: là hệ thống những quy định và mong muốn của thành viên
đòi hỏi chung phải thực hiện. Là điều kiện để thống nhất thái độ, hành vi và phương

thức ứng xử giữa các thành viên. Chuẩn mực là sợi dây dàng buộc giữa cá nhân với
nhóm, là cái đảm bảo duy trì trật tự ứng xử trong nhóm. Chuẩn mực còn là cơ sở để cá
nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của mình trong mối quan hệ với nhóm.
- Tính Adua là áp lực tâm lý chủ yếu của nhóm: thể hiện mức độ chấp nhận
hay phản đối, sự phục tùng cá nhân với áp lực nhóm. Có adua bên ngoài và trong.
Ngoài thể hiện khi cá nhân chấp nhận hình thức. Bên trong là khi cá nhân hoàn
toàn tâm phục khẩu phục, hoàn toàn bị ý kiến của đa số thu phục, thường bên trong
sẽ khắc phục được xung đột cá nhân trong nhóm và mang lại lợi ích cho nhóm.
- Sự nhất trí của nhóm gắn liền với mức độ phát triển các quan hệ liên nhân
cách khi trong các quan hệ đó có tỉ lệ lựa chọn cao dựa trên cơ sở tình cảm với nhau.


- Cấu trúc của nhóm nhỏ là một sự cân bằng tương đối: do nhiều nguyên nhân
khách quan chủ quan nên có xu hướng mất cân bằng dẫn đến sự thay đổi tổ chức trong
nhóm nên chỉ tương đối. Nguyên nhân là vì tồn tại 2 lực đối lập nhau, môt là sự nhất trí
luôn muôn giữ lại câu trúc, hai là lực phân hóa luôn luôn đòi hỏi thay đổi cấu trúc.
- Quá trình ra quyết định của nhóm liên hệ chặt chẽ với vai trò thủ lĩnh và vai
trò lãnh đạo.
- Tập thể là một loại hình của nhóm được TLHXH Xô viết quan tâm nghiên
cứu. Đây là 1 loại hình nhóm tồn tại trong XHCN, là hình thức chủ yếu của người
lao động trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
5. Quan hệ qua lại giữa các thành viên trong nhóm
- Chính thức và không chính thức
- Cá nhân - Cá nhân, Cá nhân - Nhóm
- Va chạm và xung đột: Do xung đột giữa các cá nhân; xung đột giữa các
nhóm; xung đột do nguyên nhân xã hội.
=>Sau xung đột hình thành, phân tán thành các nhóm nhỏ hơn, thay đổi tổ
chức, thay đổi người lãnh đạo, tan dã...
6. Vấn đề lãnh đạo quản lý trong nhóm nhỏ.
Lãnh đạo là một yếu tố không thể thiếu được với bất cứ nhóm nào. Lãnh đạo

là một yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của nhóm. Không có sự lãnh đạo
hoạt động của nhóm sẽ không nhìn được mục tiêu hành động, không phương
hướng, hỗn độn, các thành viên không kết hợp được với nhau... Lãnh đạo có thể
xem là một quá trình tổ chức, kết hợp và thúc đẩy các thành viên thực hiện các
mục tiêu của nhóm.
- Nhiệm vụ chủ yếu: Ra quyết định, tổ chức và kiểm tra
- Phẩm chất cá nhân của người lãnh đạo
- Phong cách lãnh đạo:
Theo K.Levin: có 3 phong cách là độc đoán, dân chủ, tự do.
- Khi tìm hiểu về sự lãnh đạo nhóm, nhiều nhà nghiên cứu đã rất quan tâm
đến một hiện tượng khá đặc biệt của lãnh đạo nhóm và là nhân tố quan trọng trong
quản lý nhóm là vai trò thủ lĩnh. Một số nhà tâm lý học Xô viết đã so sánh những
điểm giống nhau khác nhau giữa vai trò thủ lĩnh và vai trò lãnh đạo nhóm.
Lãnh đạo gắn với nhóm chính thức và thủ lĩnh gắn với nhóm khong chính
thức, gắn với những mối quan hệ tâm lý theo chiều dọc. Lãnh đạo liên quan đến tổ
chức hoạt động của nhóm, quản lý nhóm. Thủ lĩnh chủ yếu điều hòa quan hệ cá
nhân. Lãnh đạo được bầu còn thủ lĩnh suy tôn. Lãnh đạo thực hiện bởi quy chế phê
chuẩn còn thủ lĩnh thì bất thành văn. Thủ lĩnh chủ yếu trong nhóm nhỏ, lãnh đạo
thì không chỉ như vậy. Kể cả trong nhóm chính thức cũng có cả lãnh đạo và thủ
lĩnh (thủ lĩnh từng mặt).
Qua phân tích trên ta thấy thủ lĩnh và lãnh đạo có cùng một loại nhiệm vụ, họ
có trách nhiệm kích thích nhóm, hướng nhóm vào giải quyết các nhiệm vụ nhất
định, quan tâm tới các phương tiện phục vụ cho việc giải quyết các nhiệm vụ.
Trong thực tế hoạt động của nhóm nhỏ bên cạnh lãnh đạo có thể có các thủ
lĩnh với tư cách là trung tâm các quan hệ tình cảm hoặc trung tâm của một số thành
viên nào đó trong nhóm. Thường trong nhóm nhỏ có sự phân công lao động đặc
biệt giữa thủ lĩnh và lãnh đạo.


Trong công tác lãnh đạo và quản lý, vấn đề thủ lĩnh và lãnh đạo có ý nghĩa rất

lớn. Đó cũng là vấn đề rất phức tạp và hết sức tế nhị. Làm thế nào để thủ lĩnh và
lãnh đạo không mâu thuẫn với nhau trong hoạt động của nhóm. Để đảm bảo cho
các nhóm, các tổ chức hoạt động có hiệu quả, những người làm công tác quản lý
phải luôn luôn chú ý tới các vấn đề này.
KL: Nhóm nhỏ có vị trí quan trọng trong xã hội, đã được quan tâm nghiên
cứu đặc biệt là trong TLHXH phương tây. Tri thức lý luận cũng như phương pháp
cách tiếp cận về nhóm nhỏ rất phong phú và đa dạng, đòi hỏi chúng ta vận dụng
cho hợp lý.
Trong quân đội, nhóm nhỏ chính thức tồn tại thành tầng bậc khác nhau theo
chức năng tổ chức: tiểu đội, trung đội, chi đoàn, hội đồng quân nhân và đồng thời
có cả những nhóm không chính thức: đồng hương, đồng niên, cùng sở thích, thể
thao, văn nghệ. Mặc dù chịu sự quy định, chế ước điều lệnh quân đội nhưng nhóm
nhỏ trong quân đội vẫn mang đặc trưng tâm lý của nhóm nhỏ nên người lãnh đạo
chỉ huy, nhà giáo dục phải nắm được để điều chỉnh, điều khiển nó...
Từ góc độ của nhà nghiên cứu, chúng ta có hạn chế là chưa quan tâm đúng
mức đến nhóm nhỏ không chính thức.
=> Ý nghĩa:
7. Đặc điểm tâm lý giai cấp?
Giữa sự đa dạng của các nhóm lớn các giai cấp xã hội có được sự quan tâm
đặc biệt. Trong nhiều tập sách về Tâm lý học xã hội do H.Linđcey và E.Aronson
chủ biên đã chỉ ra rằng bản thân thuật ngữ giai cấp có nội dung khác nhau đối với
các nhà nghiên cứu châu âu và Mỹ. Đối với các nhà nghiên cứu phương Tây, khái
niệm “giai cấp” hiện thực hơn bởi lẽ sự đồng nhất với giai cấp rõ ràng hơn, tương
đối thường xuyên gắn với việc xác định sự thâu thuộc về chính trị. Đối với văn
hóa, nhìn chung việc thao tác hóa khái niệm “giai cấp công nhân”, “giai cấp tư
bản” là không đặc trưng nhưng họ lại quen hơn với khái niệm “giai cấp trung lưu”,
“giai cấp bần cùng”... Điều đó liên quan tới việc trong các lý thuyết xã hội học cấu
trúc xã hội được mô tả nhờ sự trợ giúp của các khái niệm như “các thiết chế kinh tế
- xã hội” chứ không phải “giai cấp xã hội”. Một cách tự nhiên, điều đó không thể
không ảnh hưởng tới những sự khác biệt trong cách hiểu cấu trúc Tâm lý học xã

hội về giai cấp. Nói riêng, trong một mức độ lớn, thay vì phân tích tâm lý học về
giai cấp, người ta đề nghị phân tích tâm lý học các tầng lớp xã hội khác nhau. Tuy
vậy trong mọi tình huống cần lưu ý rằng bản chất của sự phân tích xã hội là ở chỗ
làm rõ liên hệ giữa các đặc trưng tâm lý của nhóm và hình mẫu hành vi của các
thành viên nhóm.
Từ cách hiểu truyền thống của xã hội học mác xít (trong đó có cả xã hội học
Nga) về giai cấp có thể nhận thấy ba tuyến nghiên cứu tâm lý học giai cấp: Đó là
chỉ ra các đặc điểm đặc thù của các giai cấp cụ thể đã tồn tại trong lịch sử và đang
tồn tại; chỉ ra đặc trưng của các giai cấp khác nhau trong các thời đại nhất định;
phân tích mối quan hệ giữa tâm lý giai cấp và tâm lý các thành viên riêng lẻ của
giai cấp như là những trường hợp riêng của vấn đề mối quan hệ giữa tâm lý học
nhóm và tâm lý học cá nhân. Đối với truyền thống này việc sử dụng thuật ngữ
“tâm lý học giai cấp” có đặc trưng là không loại trừ sự phân tích tâm lý học các
tầng lớp riêng lẻ tham gia vào giai cấp này hay giai cấp khác.


×