Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN tâm lý học NHỮNG XU HƯỚNG tâm lý học NGHIÊN cứu về văn hóa ý NGHĨA TRONG xây DỰNG nền văn hóa VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.39 KB, 17 trang )

NHỮNG XU HƯỚNG TÂM LÝ HỌC NGHIÊN CỨU
VỀ VĂN HÓA. Ý NGHĨA TRONG XÂY DỰNG NỀN
VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY
Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới nhưng không thể tách
rời cội nguồn. Con người là nhân tố có vai trò quan trọng và là không thể thiếu
trong sự phát triển kinh tế xã hội. Văn hóa có khả năng tiếp thu và cải biên những
yếu tố văn hóa ngoại sinh để biến thành nội lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Văn hóa sẽ giải phóng và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người trong
mọi lĩnh vực đời sống xã hội mà trước hết là kinh tế. “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020: Xác
định : “phát huy tối đa nhân tố con người, con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu
và là mục tiêu của sự phát triển”. Phát triển phải hướng tới mục tiêu văn hóa - xã
hội mới đảm bảo được sự bền vững và trường tồn cho sự giàu mạnh của Tổ quốc.
Văn hóa mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình
cảm cao đẹp cho con người, cho nhân dân Việt Nam lý tưởng độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xã hội Văn hóa bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống
tốt đẹp, lành mạnh. Hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.
Từ lâu văn hóa đã là một vấn đề trung tâm của khoa học xã hội và nhân văn
và đã thực sự trở thành đối tượng của tâm lý học, đó là Tâm lý học văn hóa. Cùng
với những bước tiến trong nhận thức, các triết gia cũng như các nhà tâm lý học đã
ngày càng hiểu rõ vai trò của văn hóa đối với sự tồn tại và phát triển của con người
và đã có nhiều xu hướng nghiên cứu văn hóa dưới góc độ tâm lý học.

1


1. Khái niệm văn hóa
Từ "văn hoá" có biết bao nhiêu là nghĩa, nó được dùng để chỉ những khái
niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau,
nhưng suy cho cùng, khái niệm văn hoá bao giờ cũng có thể qui về hai cách hiểu
chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.


Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng,
theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu
là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật…). Giới
hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực
(văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo không gian, văn hoá
được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn
hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị
trong từng giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn…)…
Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì do
con người sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Khi tiếp cận khái niệm văn hóa, tùy từng mục tiêu, mục đích khác nhau của
người nghiên cứu mà dựa trên các cách tiếp cận khác nhau và từ đó hình thành các
định nghĩa khác nhau về khái niệm văn hóa.
2


“Văn hóa là những gì do con người sáng tạo ra, đối lập với trạng thái tự
nhiên” (M.T Cicero, A. Adler, G.D. Tomakhin…)
“Văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo nên”
(Quan niệm của Unesco, giới triết học Nga, Trần Ngọc Thêm).
“Văn hóa là cái được con người thừa kế, tiếp nhận” (Quan niệm của E.
Herriot, R. Benedict, Phạm Minh Hạc,… ).
“Văn hóa là phức hợp chỉnh thể, tổng thể” (Quan niệm của A. Kroeber, W.G
Sumner, E.B. Tylor…).

“Văn hóa là biểu hiện, dấu ấn của cộng đồng” (S.Kavirạ, A.L. White, Phan
Ngọc…).
“Văn hóa là hoạt động làm chủ tự nhiên, xã hội và phát triển nhân cách con
người” (Leizig 1980, Từ điển tiếng Việt 1994…).
“Văn hóa là sự tiến bộ của những tiến bộ” (Quan niệm của A. Schweitzer).
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên
được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri
thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa
đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ
thống giá trị, truyền thống và đức tin.
Từ góc độ tâm lý học, có thể hiểu: Văn hóa là phức hợp tâm lý mang tính
chỉnh thể được hình thành và phát triển cao độ trong hoạt động và giao tiếp của cá
nhân, phản ánh dấu ấn của một cộng đồng và là một nhân tố quan trọng bậc nhất
góp phần hình thành, phát triển toàn diện nhân cách con người.
Tóm lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát
triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham
gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn
hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của
3


con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu
hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người
cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
2. Một số xu hướng tâm lý học trong nghiên cứu văn hóa
2.1. Tâm lý học dân tộc
Đây là xu hướng tâm lý học ra đời năm 1860, hai nhà Tâm lý học người Đức
là R.S.Lazarus và H.Steinthal là người sáng lập ra trường phái này.
Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học dân tộc: huyền thoại, đạo đức, ngôn

ngữ, luân lý, cách thức sinh hoạt và những đặc điểm khác của văn hóa, thông qua
đó thấy được tinh thần, ý thức chung của một dân tộc nào đó. Trong đó có tinh
thần dân tộc, tinh thần dân tộc được hiểu là sự giống nhau về mặt tâm lý giữa
những cá thể cùng thuộc về một dân tộc bởi có sự thống nhất về nguồn gốc và
phương tiện cư trú.
Từ năm 1900, W.Wunt tiếp tục nghiên cứu sâu hơn và cho công bố một tác
phẩm lớn gồm 10 tập phản ánh các quan điểm cơ bản, theo W.Wunt: Các quá trình
tâm lý cấp cao của con người, trước hết là tư duy, là sản phẩm của sự phát triển
văn hóa của quần thể người và Sự đồng nhất giữa ý thức cá nhân và ý thức dân tộc
được thể hiện thực tế trong ngôn ngữ và huyền thoại.
Theo G.G. Shpet, tâm lý học dân tộc có ba nhiệm vụ cơ bản:
Nhận thức tâm lý về bản chất tinh thần dân tộc và tác động của nó.
Phát hiện các quy luật của hoạt động tinh thần hoặc lý tưởng của dân tộc
được thực hiện trong cuộc sống, trong nghệ thuật và khoa học.
Tìm ra các cơ sở, nguyên nhân làm xuất hiện, phát triển hoặc thủ tiêu những
đặc điểm của một dân tộc nào đó.
Theo L.P Yoodo, ông cho rằng:

4


Nguồn gốc của các văn hóa là bậc cao của chiếc thang tiến hóa, trong lịch
sử văn hóa, con người hành động nhằm đạt đến các mục tiêu khác nhau.
Khát, đói và nhu cầu sinh dục là những nhu cầu đầu tiên cần thỏa mãn của
con người. Trên nền tảng đó các nhu cầu: đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ trở thành cơ sở
để phát triển và hoàn thiện xã hội.
Ông cũng chú ý phân tích nguồn gốc và vai trò của sự khoái lạc, đau khổ
trong cuộc sống, hạnh phúc, tự do, bên cạnh những mục tiêu cá nhân ông thừa
nhận có sự tồn tại mục tiêu của tập thể.
Khi nghiên cứu dân tộc, tâm lý dân tộc, Giáo sư, viện sĩ Phạm Minh Hạc đã

nói: việc nghiên cứu để phát hiện ra bản sắc dân tộc, hay bản sắc tâm lý dân tộc đã
phát triển và lớn lên cũng chính là để tìm ra cho được những “cái riêng” rất đáng
tự hào của chúng ta với tư cách là một dân tộc. Như vậy, khi nghiên cứu tâm lý học
dân tộc, chúng ta thấy được định kiến dân tộc là gì, đồng nhất dân tộc là gì, đặc
biệt là định hình tâm lý dân tộc: đó là định hình về nước Việt và người Việt, định
hình qua đại từ nhân xưng… và thấy được những phẩm chất, thuộc tính đã được
định hình ở người Việt trong lịch sử cũng như những phẩm chất và các thuộc tính
mới đang được định hình trong con người Việt Nam hiện nay.
2.2.Tâm lý học nhóm
Một số nhà tâm lý học xã hội ở Pháp như G.Lebon (1841 - 1931), G.Tarde
(1843 - 1904), ở Mỹ như W.James đã nghiên cứu các cơ chế tâm lý của sự tương
tác của con người trong những nền văn hóa khác nhau cũng như những biến đổi
văn hóa có liên quan đến ngôn ngữ, tôn giáo, tình cảm, tư tưởng, chính trị.
Trong nghiên cứu về tâm lý học nhóm, chúng ta còn có thể nhắc đến
K.Lewin (1890 - 1947), ông đã đưa ra khái niệm trung tâm là “không gian sống”,
mô tả toàn bộ những gì quy định hành vi con người.
Trong tâm lý học nhóm, thường xảy ra các cơ chế sau:

5


Bắt chước thể hiện trong việc tái tạo, sao chép lại các khuôn mẫu vận động
trong quá trình chiếm lĩnh văn hóa từ thời thơ ấu. Bắt chước là nền tảng của sự
học và khả năng truyền đạt truyền thống văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Sự lây lan tâm lý thường biểu hiện ở các hành động nhắc lại một cách vô
thức trong tập thể người, hoặc đơn giản là trong chỗ đông người
Ám thị là những hình thức rất khác nhau đưa vào ý thức con người (tiềm
thức hoặc vô thức) những quan điểm, quy tắc, chuẩn mực xác định nhằm điều
chỉnh hành vi trong văn hóa.
Những công trình của họ đã được vận dụng trong nghiên cứu văn hóa thế kỷ

XX đó là: Khả năng nhận thức của con người thuộc các nền văn hóa khác nhau;
các khuôn mẫu ứng xử mang tính quy ước văn hóa; những phản ứng cảm xúc,
phân tích lịch sử tộc người và sự phản ánh của nó trong các tác phẩm sử thi…
2.3. Phân tâm học
Vào đầu thế kỷ XX, trong nghiên cứu văn hóa đã xuất hiện một hiện tượng
mới: Phân tâm học về văn hóa, do S. Freud (1856 - 1939) sáng lập.
Lý luận về văn hóa của S.Freud được trình bày trong cuốn Lý giải về giấc
mơ (1900) và cuốn Vật tổ và cấm kỵ ( 1912). Trong tác phẩm này tác giả đặt vấn
đề: Lịch sử văn hóa bắt đầu từ cái gì? Tình cảm tội lỗi và sự ân hận đó tạo nên điều
luật cấm loạn luân và cấm ăn thịt các loài động vật được coi là vật tổ. Đối với
Freud, đó là lúc con người có năng lực văn hóa.
Để củng cố luận điểm của mình về khởi nguyên của văn hóa, ông đã dẫn ra
những ví dụ về chứng sợ hãi của trẻ em đối với những dạng động vật cụ thể, đó là
nỗi sợ hãi với người cha đầu tiên đã chuyển sang phía động vật. Ông cho rằng hiện
tượng này là khá phổ biến trong các nền văn hóa khác nhau. Sự xuất hiện nỗi sợ
hãi thời thơ ấu như là nhắc lại cái khởi nguyên của quá trình văn hóa, như là tiếng
vang vọng của các sự kiện cổ đại trong ký ức di truyền.

6


Học thuyết phân tâm về văn hóa về sau được hệ thống lại và phân tích trong
tác phẩm Tôi và nó. Trong tác phẩm này ông đã bổ sung thêm nguyên lý khoái lạc,
sự ham thích sống, khao khát hướng tới cái chết đó là những lực lượng thúc đẩy
con người hành động.
Ngoài những khát vọng hướng tới bản năng sống và cái chết, ông còn nhận
thấy ở con người có thiên hướng bẩm sinh là muốn phá hoại và niềm say mê muốn
bạo hành với người khác. Mô hình nhân cách của một cá nhân theo Freud gồm 3
phần: cái Tôi, cái Nó và cái Siêu tôi.
Cái Nó là tầng sâu của sự say mê, của những ham muốn mang tính bản

năng, trung tâm của nó là năng lượng libido. Cái Nó là hạt nhân quan trọng của
nhân cách, những yếu tố còn lại được xây dựng trên đó. Cái Nó là cái phi đạo đức,
cái nguyên thủy theo thời gian, không bị kiểm duyệt từ bên trong, được điều khiển
bởi nguyên tắc khoái lạc.
Cái Tôi làm cho các ước muốn của cái Nó phù hợp với thực tại tương ứng
của thế giới bên ngoài. Cái tôi là lĩnh vực thuộc về ý thức, là kẻ môi giới giữa
những say mê vô thức của con người với thực tế bên ngoài (văn hóa và sinh học ).
Nó trì hoãn các ham muốn bản năng, xác lập những hành vi văn hóa được xã hội
chấp nhận. Cái Tôi hoạt động theo nguyên tắc thực tế.
Siêu tôi là lĩnh vực của bổn phận, của luân lý, của đạo đức, là những chuẩn
mực được xác định trong văn hóa. Nó ngăn không cho cái tôi thực hiện những sai
trái, ham muốn mà cái nó thúc giục. Siêu tôi là chiếc cầu nối giữa văn hóa với các
tầng bên trong của nhân cách. Cái Siêu Tôi là sự tiếp thu của cá nhân từ xã hội.
Sơ đồ cấu trúc này là phương thức phổ biến để giải thích về hành vi của con
người thuộc văn hóa hiện đại, cổ đại; người bình thường và mất trí. Những bộ
phận, yếu tố của văn hóa như tôn giáo, nghệ thuật, khoa học chỉ là sự thăng hoa
của những xung đột ẩn ức trong vô thức, trong các hình thái xã hội- văn hóa.

7


Sau này Carl Jung (1875 - 1961) không thừa nhận thuyết tính dục của Freud
và cách giải thích tính dục về mọi hiện tượng văn hóa. Với Freud, văn hóa ghi
nhận cái siêu tôi đứng độc lập với cái nó. Với Carl Jung, hai cái đó bổ sung cho
nhau và đều là ngọn nguồn của văn hóa.
Ông chủ trương nghiên cứu vô thức tập thể, là ký ức thị tộc của loài người,
là kết quả của đời sống thị tộc, nó có ở trong mọi người, được truyền đạt theo di
truyền và là cơ sở của tâm trạng cá nhân và văn hóa.
Theo G.Rôhêm (1891- 1953), văn hóa là một tổng thể của những cái làm
cho xã hội vượt qua trình độ động vật, văn hóa được xây dựng trên cơ sở sinh dục,

trước hết là bản năng sinh sản và niềm say mê giới tính.
G.Deveraux (nhà phân tâm học người Pháp) Ông chỉ ra sự quy định của văn
hóa đối với các triệu chứng của bệnh nhiễu tâm. Theo ông: Văn hóa là tâm lý
phóng chiếu ra ngoài; Tâm lý là văn hóa phóng chiếu vào trong.
Các nghiên cứu của Phân tâm học đã trải qua gần trăm năm lịch sử thử
thách, phát triển, suy thoái nhưng cho đến nay nó được vận dụng khá phổ biến để
giải thích một số hiện tượng văn hóa. Ngày nay các chủ đề của Phân tâm học thâm
nhập vào văn học nghệ thuật, được áp dụng rộng rãi trong điện ảnh.
2.4.Tâm lý học nhân văn
Sự phát triển tâm lý học nhân văn trong những năm 60 của thế kỷ XX vừa
qua là một minh chứng rõ rệt cho sự phát triển tâm lý học, thể hiện ở việc phản đối
tâm lý học hàn lâm, hướng vào khoa học tự nhiên, xa rời thực tiễn và cuộc sống.
Theo A. Maslow (1908 - 1970), sự sai lầm, phiến diện đó đã dẫn đến hậu quả tất
yếu là tâm lý học không thể nào nhận biết, hiểu được con người và các nền văn
hóa.
Tuy nhiên, hoạt động thực tiễn và các nguyên tắc hoạt động quan trọng nhất
của các nhà tâm lý học nhân văn lại chưa chú ý đầy đủ đến những biến đổi của xã
hội và văn hóa. Vì thế, khi phân tích khái niệm cơ bản nhất của tâm lý học nhân
8


văn như “sự thực hiện bản ngã” hay “sự hiện thực hóa bản ngã”, “trải nghiệm bản
ngã” trong “quá trình nhóm”, R.O. Zucha đã coi đó là duy tâm vì, tồn tại quyết
định ý thức chứ không phải ý thức quyết định tồn tại.
A.Maslow nhìn thấy trong xã hội hiện đại có hai nền văn hóa: Một nền văn
hóa được tạo thành bởi những người nghiêng về những cảm xúc cao thượng và
hướng tới những giá trị cao đẹp của cuộc sống (sự thật, lòng tốt, cái đẹp). Nền văn
hóa kia là hiện thân của khuynh hướng quan liêu trong xã hội, tạo ra nền văn hóa
này là những người không hướng tới những cảm xúc cao thượng.
Trong các công trình nghiên cứu của mình ông đã xây dựng mô hình một

nền văn hóa lý tưởng cho phép con người triển khai được hết những khả năng vốn
có của mình. Nền văn hóa được tạo ra bởi những người có phẩm chất đặc biệt mà
nét chủ yếu của họ là khát vọng hoàn thiện bản thân.
Ông phân tích những hiện tượng văn hóa ít được nghiên cứu như: sự sáng
tạo, tình yêu, trò chơi, óc hài hước, sự chân thành khả ái, những trạng thái khoái
cảm, những giá trị làm cho bản chất con người trở nên cao cả. Ông cũng đặt ra vấn
đề hiểu nhau giữa những con người cùng chung sống trong một cộng đồng và giữa
những nền văn hóa khác nhau.
Nhà tâm lý học Mỹ này đưa ra hệ thống các nhu cầu cơ bản ở con người và
ông coi khát vọng giao tiếp giữa con người với nhau, khát vọng tình yêu là phẩm
chất không thể tách rời con người. Sự thiếu vắng những nhu cầu như vậy sẽ là
bệnh lý:“Ai dám nói rằng sự không đủ tình yêu kém quan trọng hơn sự không đủ
vitamin”. Cũng theo ông, tình yêu không đồng nghĩa với tình dục, ông liệt tính dục
vào các nhu cầu sinh lý. Nhu cầu cao nhất là hướng tới sự sáng tạo và cái đẹp.
Những tư tưởng này có ý nghĩa quan trọng đối với sự hoàn thiện nhân cách,
thực hiện một đường lối giáo dục chân chính, thậm chí, như có người đã nói, trở
thành nền tảng cho các quan niệm phát triển kinh tế như ở Nhật vào những năm 70,
80 của thế kỷ XX.
9


2.5.Tâm lý học so sánh văn hóa (tâm lý học xuyên văn hóa)
Những nghiên cứu so sánh các đại diện của những nền văn hóa khác nhau
được tiến hành từ 100 năm trước. Năm 1972, hiệp hội tâm lý học xuyên văn hóa
được thành lập. Tờ tạp chí đầu tiên của hiệp hội ra đời từ những năm 1970, đã có
những bài báo trình bày điểm giống và khác nhau giữa các nền văn hóa.
Tâm lý học so sánh văn hóa hay tâm lý học xuyên văn hóa được các nhà tâm
lý học như W.D.Ftoehlich, A.J.Marsella, H.C.Triandis quan niệm như một phân
ngành tâm lý học ra đời trên cơ sở của tâm lý học văn hóa và tâm lý học các dân
tộc trước đây. Phạm vi nghiên cứu của nó là những chức năng nhận thức cơ bản

(Vd, tư duy, tri giác...), động cơ, thái độ, khuynh hướng nghệ thuật, sự phát triển
và thực tiến giáo dục, các quan hệ và chuẩn mực nhóm cũng như những rối loạn
tâm lý và ảnh hưởng của chúng đối với người khác và các hình thức chữa trị. Nói
khác đi, tâm lý học so sánh các văn hóa tập trung xem xét các phương thức hành vi
cụ thể biểu hiện mối quan hệ với các đặc thù và chuẩn mực mang tính văn hóa.
Các nghiên cứu xuyên văn hóa đã được phổ biến trong tâm lý học
Tính đa dạng văn hóa
Mối quan hệ giữa các nhóm văn hóa
Sự khác biệt về dân tộc, chủng tộc của các tầng lớp dân cư.
Cái mà chúng ta biết có đúng với tất cả mọi người, có độc lập với nguồn gốc
văn hóa của họ hay không?
Nếu như không thì có những khác biệt gì?
Trong hoàn cảnh nào xuất hiện những khác biệt và tại sao?
Những yếu tố nào bên ngoài văn hóa thúc đẩy sự khác biệt này?
3. Ý nghĩa trong xây nền văn hóa Việt Nam hiện nay
3.1. Vài trò và đặc điểm của văn hóa
* Vai trò của văn hóa
10


Văn hóa là cơ sở xã hội hóa các cá nhân: Văn hóa thể hiện là những nhận
thức của mỗi người để đảm bảo sự hòa đồng của các cá nhân vào xã hội chung và
năng lực lao động của các cá nhân để đảm bảo đời sống của chính họ. Con người
không thể tồn tại nếu tách rời tự nhiên cũng như con người không thực sự là người
nếu tách rời môi trường văn hóa.
Văn hóa là cơ sở phát triển kinh tế: Toàn bộ các yếu tố văn hóa (tài sản hữu
hình hay vô hình) được biểu hiện trong lĩnh vực kinh tế là các cơ sở vật chất dùng
cho sản xuất kinh doanh và năng lực lao động của con người, là cơ sở cho quá
trình phát triển kinh tế xã hội. Nền văn hóa phát triển cao đồng nghĩa với người lao
động có năng lực cao. Do vậy, xây dựng, phát triển nền văn hóa là nhiệm vụ của

mỗi quốc gia.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đảy sự phát trển kinh tế xã hội. Các giá trị văn hóa tạo nên nền tảng vững chắc
của xã hội đó là nền tảng tinh thần. Cái nền tảng đó tạo nên giá trị làm người…
* Những đặc điểm của văn hóa:
Xét từ góc độ tâm lý học, văn hóa có những đặc điểm cơ bản sau:
Văn hóa là một nhân tố quan trọng bậc nhất tạo ra con người và sự phát triển
tâm lý ở trình độ cao. Sự phát triển đó được coi như kết quả của những sự tương
tác giữa kiểu gen, văn hóa và môi trường hoạt động của con người.
Văn hóa luôn mang tính chất kép, tiềm ẩn và tường minh: (tiềm ẩn với người
khác, tường minh với mình). tùy thuộc vào sự phát hiện, tiếp thu những giá trị của
nó. Có thể nói khác đi như M.Herskovits: Văn hóa tồn tại không phụ thuộc vào con
người và VH không phải là gì khác, mà là một hiện thực tâm lý tồn tại trong đâu óc
của mỗi cá nhân.
Văn hóa là hệ thống những giá trị chung tồn tại khách quan trong cộng đồng.
Mỗi cá nhân, nhóm tiếp thu các giá trị đó thông qua hoạt động và giao tiếp.

11


Các giá trị văn hóa có thể là tường minh hoặc tiềm ẩn đối với cá nhân hoặc
nhóm.
Tính hệ thống:Chỉnh thể, thống nhất, đan xen trên nhiều lĩnh vực
Mọi sự kiện hiện tượng thuộc một nền văn hóa đều có liên quan mật thiết
với nhau. Nếu biết một dân tộc sống ở đâu, ăn như thế nào, có thể nói được
rằng dân tộc đó mặc và ở ra sao, suy nghĩ và ứng xử như thế nào? Văn hóa
thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương
tiện để đối phó với môi trường tự nhiên và xã hội.
Tính giá trị:
Văn hóa là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Văn hóa

thực hiện chức năng điều chỉnh xã hội, định hướng các chuẩn mực, điều chỉnh
các ứng xử của con người.
Tính nhân sinh: do con người sáng tạo ra
Văn hóa là một hiện tượng xã hội, có nguồn gốc tự nhiên. Văn hóa là sản
phẩm hoạt động thực tiễn của con người. Văn hóa là cái tự nhiên đã được biến đổi
dưới tác động của con người.
Tính lịch sử: là quá trình hình thành lâu dài...
Văn hóa bao giờ cũng được hình thành trong một quá trình và được tích lũy
qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dầy, một chiều sâu. Tính lịch
sử buộc văn hóa tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị.
Tính bền vững: Tính ổn định tương đối
Khi một tập quán hay một thói quen nào đó lan ra khá rộng, dù tác động của
những ảnh hưởng khác nhau đối với chúng có thể yếu đi, nhưng chúng vẫn tiếp tục
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hóa giống như một dòng thác, khi
đã tạo ra được luồng lạch thì tiếp tục chảy trong nhiều thế hệ liền.
Tính đồng nhất văn hóa: sự giống nhau về văn hóa trong nhóm, dân tộc...
12


Tính đồng nhất văn hóa chỉ đặc điểm tâm lý của các cá nhân trong một nền
văn hóa nhất định. Văn hóa là cấu trúc tâm lý, là hệ thống các quy tắc chung nên rõ
ràng mọi người có thể không chỉ có một sự đồng nhất văn hóa, mà trong một số
trường hợp còn nhiều hơn. Những đồng nhất văn hóa ngày nay càng trở nên phổ
biến khi ranh giới giữa các nền văn hóa càng mờ đi.
Giao tiếp giữa các đại diện của những nền văn hóa khác nhau được mở
rộng. Số lượng các cuộc kết hôn giữa các nền văn hóa không ngừng tăng lên.
Văn hóa là cấu trúc xã hội ở cấp độ vĩ mô, đồng nhất những đặc điểm, thuộc
tính của chúng ta với những người khác. Văn hóa ảnh hưởng tới lối sống của
chúng ta. Văn hóa hình thành, củng cố kinh nghiệm, hành vi, những nguyên tắc và
tình cảm của chúng ta. Trong công việc, học tập, thời gian rỗi hay giao tiếp với

người khác, chúng ta đều dựa vào nền văn hóa của bản thân .
3.2. Ý nghĩa trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay.
Quán triệt mục tiêu chung: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam
phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Có quan điểm đúng về văn hóa: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là
mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước; Xây dựng và phát triển văn hóa
Việt Nam chính là quá trình thực hiện chiến lược con người
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng
tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt
Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.

13


Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh: Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ
quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo
dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống. Gắn kết xây dựng môi trường văn
hóa với bảo vệ môi trường sinh thái. Đưa nội dung giáo dục đạo đức con người,
đạo đức công dân vào các hoạt động giáo dục của xã hội.
Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động văn hóa. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện
thị trường văn hóa. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh
vực văn hóa: Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xác định xây dựng và phát triển vǎn
hóa, con người Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng trong suốt thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để vǎn
hóa, vǎn học - nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng
của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở
phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng
sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa: Tập trung đổi
mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và
truyền thông. Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của
Đảng về văn hóa. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính
sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực
quốc tế và thực tiễn Việt Nam.
Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa: Xây dựng chiến lược phát
triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán
bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành,
cán bộ ở cơ sở.

14


Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa: Mức đầu tư của Nhà nước cho
văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Sử dụng hiệu quả, công khai,
minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng
miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình
nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy. Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy
động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con
người.
Quá trình giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cần có quan điểm kế
thừa có chọn lọc, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Sáng tạo, bảo tồn,tiếp nhận,
phát triển và truyền thụ văn hóa cần chú ý đến các đặc điểm cơ bản của văn hóa.

Đấu tranh với các biểu hiện phi văn hóa, phản văn hóa trong……
Mỗi cá nhân cần thường xuyên nâng cao nhận thức về văn h óa, học tập, rèn
luyện để trở thành người có văn hóa. Tích cực tham gia vào việc giữ gìn, phát huy
và truyền thụ nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc…

15


KẾT LUẬN
Văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia, dân tộc mất
nước thì có thể lấy lại được, mất văn hóa là mất tất cả. Trong thời đại ngày nay,
biên giới về văn hóa gần như bị xóa nhòa, trong khi chúng ta hội nhập để tiếp thu
cái hay, cái đẹp, làm phong phú, đa dạng hơn văn hóa dân tộc nhưng cũng cần phải
giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn nghệ, đất nước con người Việt Nam đến cộng
đồng quốc tế, vì vậy trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định “Xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc” là một trong tám đặc
trưng về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
Vấn đề văn hóa bao giờ cũng gắn liền với vấn đề con người. Con người là
tinh hoa của văn hóa và sáng tạo ra văn hóa. Vì vậy, vấn đề phát triển văn hóa gắn
liền với vấn đề phát triển đa dạng của từng người, từng nhóm người, cộng đồng
người, giới… Theo tinh thần đổi mới (từ năm 1986 đến nay) Việt Nam chú trọng
tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội nhằm nâng cao mức sống và chất lượng
cuộc sống, thúc đẩy văn hóa, văn minh lên đỉnh cao mới, nâng lên đáng kể chỉ số
phát triển con người bền vững. Phát triển con người bền vững là đa dạng hóa cá
nhân, động viên tiềm năng của từng cá thể người, đa dạng trong lối sống, trong tư
duy, trong khiếu thẩm mỹ… của từng người cũng như đa dạng trong ăn uống, mặc,
ở, sinh hoạt của các cộng đồng. Tất nhiên, điều đó phải dựa trên cơ sở tinh thần
công dân và tôn trọng một hệ thống giá trị cơ bản chung, định hướng giá trị chung,
chia sẻ các giá trị của sự thống nhất, hòa bình, hợp tác, đồng thuận xã hội. Đó cũng

là cách tiếp cận tâm lý trong nghiên cứu văn hóa.
16


Môi trường quân đội là một môi trường tương đối rộng lớn, khi tiến hành
xây dựng môi trường văn hóa quân sự phát triển toàn diện cũng cần đặc biệt chú
trọng đến các xu hướng tâm lý trong phát triển văn hóa quân sự, đặc biệt là trong
xây dựng nhóm, tập thể quân nhân vững mạnh trong giai đoạn hiện nay nhằm góp
phần xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành
nhiệm vụ đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân sản xuất, xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh 1995: Toàn tập. - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 3.
2. Likhachov D. 1990: Văn hóa và văn minh. – T/c Báo ảnh Liên Xô, số 2.
3. Trần Ngọc Thêm 1991: Cơ sở văn hóa Việt Nam, tập 1+2 (lưu hành nội
bộ). – H.: Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.
4. Tylor E.B. 2000: Văn hóa nguyên thuỷ. – H.: Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật
xuất bản. (nguyên tác: Tylor E.B. 1871: Primitive Culture).
5. UNESCO 1989: Tạp chí “Người đưa tin UNESCO”, số 11-1989.

17



×