Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Đặc điểm truyện viết cho thiếu nhỉ của tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.88 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TR ỜNG ĐẠI HỌC s PHẠM HA NỘI II
=====&&&=====

1
PHẠM THỊ THU HÀ

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN VIÊT CHO THIÊU NHI
CỦA TÔ HOÀI
Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VÃN THẠC sĩ: NGÔN NGỮ VÀ VÃN HÓA VIỆT NAM

Ng- ời h- ớng dẫn khoa học: PGS, TS Tôn Thảo Miên

HÀ NỘI, 2013

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Tôn Thảo Miên, cô giáo đã trực tiếp
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong Phòng sau Đại học, Khoa Lí luận
Văn học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội II đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và
nghiên cún.
Tôi xin cảm ơn những nhận xét, góp ý quí báu của thầy cô phản biện và các thầy cô trong Hội
đồng bảo vệ luận văn.


Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới những người thân, gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ tận
tình đế tôi hoàn thành luận văn này!
2
Hà Nội, thảng 6 năm 20 ì3


Phạm Thị Thu Hà
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Phạm Thị Thu Hà Học viên: KI5 - Lí
luận Văn học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
II
Tôi xin cam đoan luận văn: “Đặc điếm truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài” là kết quả nghiên
cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của cô giáo PGS.TS Tôn Thảo Miên. Neu có gì không trung thực
trong luận văn, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học.
Hà Nội, tháng 6 năm 2013
Phạm Thị Thu Hà
MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
1.1.

Cho đến nay nhà văn Tô Hoài đã hơn 90 năm tuổi đời và hơn 60 năm tuổi nghề. Ông có mặt ở
cả hai thời kì tr-ớc và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Sáng tác của ông phong phú, đa dạng
cả về đề tài lẫn thể loại và đ- ợc nhiều thế hệ bạn đọc đón nhận, đ- ợc nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm tìm hiểu. Hầu hết sáng tác của Tô Hoài đều gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng của
đất n- ớc, phản ánh một cách sâu rộng nhiều vấn đề của đời sống xã hội, tạo đ-ợc nhiều giá trị thẩm
mĩ phong phú và sáng tạo.
Tô Hoài đã có những đóng góp lớn lao cho nền văn học nước nhà về cả số 1- ợng và chất lượng.
Từ truyện ngắn đến truyện dài, tiếu thuyết, bút kí, truyện người lớn, truyện thiếu nhi, thể loại nào
ông cũng gặt hái được thành công đáng


Nhà văn Tô Hoài đã nhận đ- ợc nhiều giải th- ởng cao quý nh- : giải nhất tiểu thuyết của Hội
nhà văn Việt Nam năm 1956 với tiểu thuyết Truyện Tây Bắc, giải A giải th-ởng của Hội văn nghệ

Hà Nội năm 1970 với tiểu thuyết Quê nhà, giải th-ởng của Hội 3nhà văn Á - Phi năm 1970 với tiểu
thuyết Miền Tây, giải th-ởng Hồ Chí Minh về Văn hóa - nghệ thuật đợt 1-1996.
1.2.

Trong các tác phẩm của Tô Hoài có một mảng văn học đặc biệt dành cho tuổi thơ. Với những
sáng tác ở mảng văn học này, ông đ-ợc coi là ng-ời có công đặt viên gạch đầu tiên dựng nên ngôi
nhà văn học thiếu nhi Việt Nam hiện đại. Ông đến với thiếu nhi từ những trang viết đầu tiên của
mình. Với thiếu nhi ông nh- ng- ời bạn lớn tuổi nh- ng vô cùng vui tính, thú vị và mang đến cho các
em những câu chuyện kì thú, lôi cuốn, rất phù hợp với lứa tuổi trẻ thơ. Trong những sáng tác của
ông chứa đựng những t- t- ởng, khát vọng về lối sống cao đẹp, về lòng yêu cuộc sống và tạo vật bao
la, tình yêu th- ơng những ng- ời nghèo khổ, bất hạnh, sự cảm phục những tấm g- ơng anh hùng
trong chiến đấu. Từ trang văn đầu tiên đến những tác phẩm gần đây nhất, Tô Hoài vẫn thể hiện một
tâm hồn t-ơi trẻ, ân cần và cảm thông. Ông viết cho thiếu nhi với tất cả ý thức trách nhiệm, niềm
say mê và tâm huyết của mình. Ông luôn xem văn học thiếu nhi là công cụ có tác dụng giáo dục
trực tiếp và sâu sắc đối với các em.

1.3.

Truyện ngắn của Tô Hoài viết cho thiếu nhi từ lâu đã trở thành một phần quan trọng trong đời
sống tinh thần của các em. Biết bao thế hệ đã đọc và say mê những câu chuyện về chú Dế Mèn, Vố
sĩ Bọ Ngựa, Đám c-ới chuột, Trê và Cóc, Mực tàu giấy bản, Ghẻ đặc biệt, Cậu Miu, Hai con
ngỗng, Bốn con gà, Vện ơi Vện..., hay những tấm g-ơng thiếu nhi anh hùng dũng cảm nh- Kim
Đồng. Vừ A Dính, Hoa Sơn... Những nhân vật trong truyện ngắn của Tô Hoài đã thực sự b- ớc ra
khỏi trang sách, đi vào cuộc sống hàng ngày một cách tự nhiên. Thế giới tuổi thơ với muôn vàn tình
cảm, với những t- ởng t- ợng kì ảo, những ham thích thiết thực và phiêu 1- u, những rung động tinh
tế tr- ớc cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên đều đ-ợc Tô Hoài thấu hiểu và cảm thông. Trên trang
sách ông đã đoán định những diễn biến tâm lí, mở rộng những tình cảm chân thực và trong sáng
hòa nhập với các em. Ông là nhà văn viết cho thiếu nhi với tất cả ý thức trách nhiệm, với niềm say
mê và tâm huyết của mình. Ông đến với các em bằng tâm hồn nghệ sĩ. Ông đem đến cho các em
một niềm vui, một bài học nhỏ, một lời căn dặn. Với các em thiếu nhi lúc nào ngòi bút của Tô Hoài

cũng đầm ấm, t-ơi trẻ. Có bao nhiêu câu chuyện bổ ích và đẹp trong cuộc đời sẽ còn dành cho tuổi
thơ.
Tô Hoài là một cây bút văn xuôi xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm
của ông đều thể hiện tính nhân văn sâu sắc và thế giới nghệ thuật phong phú. Đến nay đã có một số
công trình nghiên cứu về truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài ở ph- ơng diện này, ph- ơng diện
khác, nh- ng d- ờng nh- bấy nhiêu vẫn là ch- a đủ đối với đóng 2Óp to lớn của nhà văn ở mảng văn


học này. Đó là lí do đê chúng tôi lựa chọn đề tài: Đặc điểm truyện viết cho thiếu nhỉ của Tô Hoài
làm đối t- ợng nghiên cứu của luận văn.
4
2. Lịch sử vấn đề.
Tô Hoài b- ớc vào con đ- ờng nghệ thuật khá sớm, là cây bút viết đều, viết nhiều, viết dẻo dai
và sung sức. Dõi theo cuộc đời sáng tác của ông gần nửa thế kỉ qua, ng- ời đọc vẫn thấy ở ông ngòi
bút t- ơi mới không bị cũ đi với thời gian, không bị bó hẹp trong một khuôn khổ nào. Ong luôn có
những cố gắng tìm tòi, khám phá và làm nên sức hấp dẫn, sức sống và ý nghĩa lâu bền đối với đời
sống tinh thần của bạn đọc nhiều thế hệ.
Từ lâu, cái tên Tô Hoài đã trở nên quen thuộc với bạn đọc ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Tô Hoài
với nhiều tác phẩm thuộc nhiều đề tài, thể loại, những sáng tác và cả con ng-ời ông đã trở thành đối
t-ợng quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Các bài viết về tác phẩm của Tô Hoài
th- ờng tập trung vào những mảng đề tài quen thuộc hoặc các tác phẩm nổi tiếng của ông.
Nhà nghiên cứu Vũ Nsọc Phan trong Tô Hoài - Nguyễn Sen (Nhà văn hiện đại, quyển IV, Nxb
Tân Dân, 1944) đã xếp Tô Hoài vào nhóm tác giả “tả chân” nh- ng có khuynh h- ớng xã hội. Qua
phân tích Quê ng- ời và o chuột, tác giả bài viết phát hiện ra “biệt tài về những cảnh nghèo nàn của
dân quê” và khả năng miêu tả tinh tế thế giới loài vật cùng những điểm yếu trong văn Tô Hoài ở
giai đoạn này.
“Lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài” (1987) của giáo sư Hà Minh Đức là một bài viết công phu,
đánh giá khá đầy đủ những đóng góp của tô Hoài qua gần nửa thế kỉ sáng tác, trong những tác
phẩm viết cho tuổi thơ và ng- ời lớn; về làng quê ngoại ô và miền núi; ở các thể loại truyện ngắn,
tiểu thuyết và ký. Bài viết cũng làm nổi bật phong cách sáng tạo nghẹ thuật của Tô Hoài ở “năng

lực phát hiện và nắm bắt nhanh chóng thế giới khách quan”, ở các phương diện miêu tả phong tục
tập quán, khung cảnh thiên nhiên, tính cách nhân vật, tìm tòi sáng tạo ngôn từ và cấu trúc câu văn.
Với giáo s- Hà Minh Đức, Tô Hoài là “cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng”, là “một ngòi bút tươi
mới không bị cũ đi với thời gian”.
Giáo s- Phong Lê trong bài Tô Hoài, 60 năm viết...(1999) đã đánh giá chặng đ- ờng sáng tác
60 năm của Tô Hoài qua các giai đoạn tr- ớc và sau cách mạng, những đóng góp của Tô Hoài cho
nền văn học ở các đề tài và thể loại, đồng thời khẳng định vẫn “chưa nói hết được những điều muốn
nói” về Tô Hoài.
Ng- ời công trình của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học còn có rất nhiều những khóa luận,
luận văn thạc sĩ bàn về một khía cạnh nào đó trong sáng tác của Tô Hoài. Có thể kể đến Con ng- ờỉ
và không gian ngoại ô trong tác phẩm Tô Hoài tr-ớc Cách mạng (Nguyễn Thị Mỹ Dung, 2002),


Đặc điểm ngôn ngữ miêu tả trong Truyện Tây Bắc của Tô Hoài (Hà Thị Thu Hiền.2004), Đặc điểm
ngôn ngữ trong truyện ngắn của Tô Hoài sau Cách mạng (Trần Hoàng Anh, 2004), Nghệ thuật
trần thuật trong hồi ký của Tô Hoài (Lê Thị Hà, 2007), Thế giới 5nhân vật trong truyện ngắn của Tô
Hoài viết cho thiếu nhi (Phùng Minh Tuân, 2009), Chất trữ tình trong hồi kí của Tô Hoài (Nguyễn
Thu Trang, 2009), V V...
Nhà nghiên cứu Vân Thanh trong Tô Hoài với thiếu nhi (1982) đánh giá cao những đóng góp
của Tô Hoài trong mảng sáng tác cho thiếu nhi ở đề tài phong phú, thể loại đa dạng, nội dung phù
họp với lứa tuổi. Truyện về các tấm g- ơng anh hùng tr-ớc Cách mạng và trong kháng chiến có tác
dụng giáo dục lí t-ởng và đạo đức cho các em sắp bước vào đời. Sáng tác thuộc loại “những mẩu
chuyện nhỏ”, xinh xắn, nhẹ nhàng nh-ng sâu sắc nhằm ca ngợi xã hội mới là viết cho bạn đọc nhỏ
tuổi hơn. Truyện lịch sử viết cho lứa tuổi lớn hơn, gợi khát vọng tìm hiểu đất n-ớc, tình yêu quê hơng, yêu lao động và bài học về ý chí, nghị lực con ng-ời. Bài viết cũng phân tích bút pháp miêu tả
sinh động, khả năng quan sát sắc sảo, yếu tố trữ tình thấm đẫm và nghệ thuật sử dụng ngôn từ sinh
động, cụ thể, phù hợp tâm lí thiếu nhi của nhà văn Tô Hoài.
Giáo s- Hà Minh Đức nhận định: Tô Hoài đến với tuổi thơ từ những trang viết đầu tay của
mình, ở những tác phẩm viết cho thiếu nhi của ông chứa đựng nhiều t- t- ởng đẹp và những chân
trời rộng mở, lòng yêu cuộc sống và tạo vật bao la, tình yêu th- ong những ng- ời nghèo khổ và bất
hạnh, sự cảm phục những tấm g- ơng anh hùng trong chiến đấu... song những t- t- ởng biểu hiện

nhất quán qua mấy chục tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài là lòng yêu th-ơng và trân trọng
con ng- ời và đối t- ợng đ- ợc ng- ỡng mộ tr- ớc hết là những mầm nụ còn t- ơi non đang cần đ- ợc
bồi đắp để b- ớc vầo đời. Đối với các em ngòi bút của Tô Hoài đ-ợc bộc lộ nhiều phẩm chất mới lạ.
Ông không chỉ đến với các em trong một thời điểm nào đó của văn ch- ơng và cuộc đời. Ông là nhà
văn của các em.” (Lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài, Tập 1, NXB VH, H.1987, tr37)
Còn Vũ Ngọc Phan lại khẳng định: “Những truyện nhi đồng của ông có cái đặc sắc là rất linh
động và dí dỏm.” (Nhà văn hiện đại - tập 2 - NXB KHXH, 1989)
Nghiên cứu mảng văn sáng tác cho thiếu nhi của Tô Hoài, các tác giả đều có những nhận định
mà từ đó có thể khẳng định: Tô Hoài ỉà nhà văn của thiếu nhi. Thế giới tuổi thơ với muôn ngàn
những tình cảm lạ, những t- ởng t- ợng kì ảo, những ham thích thiết thực và phiêu 1-u, những rung
động tinh tế tr-ớc cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên... đều đ- ợc ông thấu hiểu tinh t- ờng và độ 1ợng, cảm thông. Ông tin cậy và trông đợi ở các em qua những điều gợi ý, dặn dò. Giữa ông và các
em có những khoảng cách nh- ng không ngăn cách, khoảng cách luôn đ- ợc thu ngắn lại.
Viết cho các em thiếu nhi, Tô Hoài cũng rất chú ý đến tính nghệ thuật. Khi viết truyện cho các
em ông luôn thể hiện đầy đủ trách nhiệm, có ý thức chọn lọc hình thức biểu hiện thích hợp với đối


t- ợng phản ánh. Chính vì vậy mà khi đọc các tác phẩm của Tô Hoài, các em nh- bắt gặp chính bản
thân mình trong tác phẩm, từ đó rút ra những bài học phù hợp với tâm lí lứa tuổi.
Từ truyện Kim Đồng viết về tấm g- ơng anh hùng của Kim 6Đồng tức Nông Văn Dền, ng-ời đội
viên đầu tiên của Đội Thiếu niên Tiền phong, Tô Hoài viết kịch bản phim Kim Đồng. Bộ phim
giành đ- ợc bốn giải th- ởng tại Đại hội điện ảnh á - Phi ở Gia-cac-ta 1963. Các bài viết: Kim Đồng
- một bộ phim vê truyền thống cách mạng của nhân dân ta (Nguyễn Hồ, 1964), Những phim chiến
đấu (Phỏng vấn của báo Văn nghệ, 28/8/1964), Kim Đồng, một bộ phim tốt (báo Văn nghệ, 1964)
đã phân tích nhữns yếu tố làm nên thành công của bộ phim từ đạo
diễn tài năng, quay phim sáng tạo đến diễn viên nhập vai khá đạt. Riêng tác giả kịch bản, nhà
văn Tô Hoài, để xây dựng nhân vật Kim Đồng, “đã viết từ một cảm xúc sâu sắc, ấp ủ từ lâu”.
Cùng viết về tác phẩm nổi tiếng Dế mèn phiêu ỉ-u kí, trong khi các tác giả Nguyễn Lộc - Đỗ
Quang L- u đi sâu phân tích nội dung, ý nghĩa của tác phẩm, từ chuyện con dế liên t- ởng tới con
ng- ời thì tác giả Trần Đăng Xuyền, ngoài việc đề cập đến ý nghĩa tác phẩm, còn nhấn mạnh ở
tr- ờng miêu tả phong tục nông thôn qua xã hội loài vật và tài năng quan sát tinh tế của Tô Hoài.

Tác giả G.Gô- lôp-nep lại nói về sự đón nhận nồng nhiệt của bạn đọc nhỏ tuổi Liên Xô khi Dế
mèn phiêu ỉ- u kí đ- ợc dịch sang tiếng Nga và một số thứ tiếng dân tộc khác ở Liên Xô. Ngoài
ra, ở những mức độ khác nhau, các bài viết của các nhà nghiên cứu Hà Minh Đức, Vân Thanh
đều ghi nhận thành công của Tô Hoài ở mảng sáng tác cho thiếu nhi.
Nhìn chung, ý kiến bàn về tác phẩm của Tô Hoài rất phong phú, việc nghiên cứu về các tác
phẩm của ông nói chung, mảng truyện viết cho thiếu nhi nói riêng sẽ mãi là đề tài nghiên cứu
cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu những đặc điểm cơ bản về ph- ơng diện nội dung và nghệ thuật trong truyện viết
cho thiếu nhi của Tô Hoài.
4. Đối t ợng, phạm vi nghiên cún.
4.1.

Đối t ợng:
Đặc điểm truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài

4.2.

Phạm vi:
Thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành thống kê, khảo sát, phân tích và lý giải vấn đề
trong phạm vi hai cuốn Tô Hoài tuyển tập văn học thiếu nhi.{NXB Văn học, 1999)

5. ph ơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng một số ph- ơng pháp nghiên cứu sau:
-

Ph- ơng pháp thống kê, khảo sát


-


Ph- ơng pháp phân tích tổng hợp

-

Ph- ơng pháp so sánh đối chiếu

-

Ph- ơng pháp tiểu sử

7

6. Dự kiến đóng góp của luận văn
Luận văn tập trung tìm hiểu và xác định những đặc điểm tiêu biểu trong truyện viết cho thiếu
nhi của Tô Hoài. Kết quả của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về sáng tác
của Tô Hoài nói chung, và mảng văn học viết cho thiếu nhi nói riêng.
7. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 ch- ơng:
Ch ơng 1. Khái quát về văn học viết cho thiếu nhi và truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài.
Ch ơng 2. Cảm quan sống và ý nghĩ nhân văn trong truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài.
Ch ơng 3. Thế giới nhân vật và một số phương diện nghệ thuật trong truyện viết cho thiếu nhi
của Tô Hoài.
NỘI DUNG CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VÈ VĂN HỌC THIÉU NHI VÀ TRUYỆN VIẾT CHO
THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI
1.1.

Khái quát về văn học viết cho thiếu nhi.

Khi nói đến sứ mệnh của văn học thiếu nhi, trong lời mở đầu Tạp chí Văn học (số 5/1993), nhà

nghiên cứu Phong Lê đã khẳng định: “Neu sự tồn tại và phát triên của dân tộc, cũng như nhân loại
trong các tương lai gần và xa là đặt vào thế hệ thiếu nhi thì câu chuyện về vãn học thiếu nhi, câu
chuyện về các món ăn tinh thần cho thiếu nhỉ chủng ta bàn hôm nay và ở đây không thế xem là một
câu chuyện nhỏ, ngoài lề mà là câu chuyên nghiêm trang của tất cả mọi người lớn, của các bậc
cha mẹ, của các thầy cô, và cô nhiên, của tất cả những ai viết cho thiếu nhi, của tát cả những ai có
quan tâm và có trách nhiệm đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu nhi
Văn học thiếu nhi có nhiệm vụ chính yếu, đó là giáo dục trẻ em trở thành ngưởi tốt. Văn học
thiếu nhi phải tải đạo. Nhưng tuyệt nhiên ở đây không phải là những lời giáo huấn giá lạnh, khô
khan, hoặc, ngược lại, đây cũng không phải là nhũng chuyện bạo lực, giật gân đế làm cho thiếu nhi
bị thu hút. Văn học thiếu nhi được gọi là hay, là tốt, thường có bên trong một sức mạnh. Đó là sức
mạnh của cái đẹp, sức mạnh của văn chương nghệ thuật. Sức mạnh đó sê đánh thức trong các em
tình cảm và ý nghĩ tốt đẹp, làm cho các em biết tôn trọng, yêu thương, thấy những nghĩa vụ cần
làm, sống có tinh thần nhân ái, biết sống một cách tốt đẹp. Đã có nhiều thông tin trong và ngoài
nước nói về tác dụng cực kì to lớn của sách tốt, sách hay đối với thiếu nhi.


Kinh nghiệm trong và ngoài nước cho thấy đề tài viết cho thiếu nhi rất rộng mở. Từ những
chuyện người thực việc thực, những chuyện của đời thường cho đến chuyện cố tích, thần thoại,
truyện khoa học viễn tưởng, những truyện có đủ mọi phép thần8thông biến hóa đều có thể đến với
các lứa tuổi thiếu nhi. Trẻ em thích những truyện có nhiều tưởng tượng, dí dỏm, tươi vui. Nhưng
trong mọi sáng tác được gọi là hay cho thiếu nhi đều phải mang vẻ đẹp của một sáng tác văn học
chân chính, ơ đó câu chuyện thường có tính điển hình, đúng đối tượng. Ở đó mọi tình tiết xảy ra
đều gắn bó theo qui luật cuộc sống và tình cảm của con người. Đặc biệt nhất ở đây mọi hình tượng
hiện lên sinh động chân thật như hơi thở có nhịp đập, có máu thịt. Đó là tính chân thật hiểu theo
nghĩa rộng. Ở đây mọi tưởng tượng hòa hợp với cái có thật, hiện lên như “thật”, trong lúc ở những
sáng tác dở, lắm lúc cái thật lại hiện lên cái giả tạo.
Văn học thiếu nhi rất kị cái giả tạo, vì nó sẽ làm trẻ em hiểu sai bản chất sự sống. [48,tr.37]
Mọi tiếp nhận văn học của thiếu nhi từng lúc, từng nơi cũng có những biến động, đối mới, nên
mọi sáng tác văn học cho thiếu nhi cần phải nhìn thấy điều đó. Mặt khác cũng phải thấy rõ, mỗi
sáng tác tốt và hay cho thiếu nhi đều có sức mạnh của cái đẹp. Chính nhờ sức mạnh của cái đẹp mà

nhiều sáng tác cho thiếu nhi đã vưọt mọi biên thùy, mọi thời gian đến với các em, trở thành bất tử.
Văn học thiếu nhi có một số vấn đề khác với văn học cho người lớn, trong đó có vấn đề lứa tuổi.
Tâm lí thiếu nhi khác tâm lí người lớn. Tâm lí thiếu nhi ở mỗi lứa tuối cũng đều khác nhau. Thường
lứa tuối trên có thế hiểu được lứa tuối dưới, nhung lứa tuối dưới không thể hiếu được lứa tuối trên.
Mọi sáng tác đều phải phù họp theo từng đối tượng lứa tuổi. Người viết văn phải đủ sự nhạy bén
mới có thể phân thân, mới có thể nhập vào đối tượng, mới có thể làm cho sáng tác trở nên chân
thật, sinh động đối với mỗi đối tượng. Ví dụ, một bài thơ sáng tác cho các cháu ở độ tuổi mầm non
mà trong đó mọi tình tiết hiện lên không rõ nét, không thế vẽ được, thì đó là một bài thơ chưa hay,
vì thiếu nhi ở các lứa tuổi bé thơ thích nhìn hơn thích đọc, thị giác của các em đó nhạy bén hơn
thính giác, hình ảnh tác động mạnh hơn. Trong mọi sáng tác tốt cho thiếu nhi, mọi hình tượng tốt,
xấu đều phải hiện lên rành mạch, rõ ràng, tốt ra tốt, xấu ra xấu. Cũng từ tư duy lô gích ở các em
chưa phát triển đầy đủ như ở người lớn, các em rất khó phân biệt được tốt, xấu, đúng, sai. Hiện nay
có một số em bị phạm tội, chỉ vì các em đó bắt chiếc cái xấu hiện lên trong một số phim cho người
lớn.
Trong Tạp chỉ Văn học số 5 - 1993, nhà thơ Phùng Ngọc Hùng viết: “Viết cho các em trước
hết, theo tôi phải có một tình yêu chân thật, yêu các em, yêu cuộc đời. Viết cho các em, nhớ và hình
dung về quả khứ của mình là cần nhưng không đủ. Bởi lẽ cuộc sống của các em bây giờ có nhiều
điều khác trước. Điều quan trọng nhất là hòa nhập với cuộc sông thực của trẻ em. Thế giới trẻ em


bao giờ cũng là phong phủ và xa lạ đối với người lớn. Dù người lớn đã từng là trẻ con. Sự thâm
nhập với đời sống thường ngày của trẻ em tùy mức độ khác nhau mà có những bất ngờ trong sáng
tạo. Điều buồn nhất là trong sảng tác cho các em là sự áp đặt và
9 giả dối, giả vờ thì được chứ giả
doi(cố tình hay không) đều bị trả giả. Viết cho các em trước hết là viết về cái đẹp, cải hồn nhiên,
trong trẻo của thiên nhiên và cuộc đời. Sự vật xung quanh trẻ em đều là bạn bè và biết nói. Có
những sự vật hiện tượng với người lớn không có ỷ nghĩa gì, nhưng với trẻ em lại có hồn và tràn
đầy song động.(...) vấn đề là viết như thế nào đê gợi dậy trong các em lòng thương đồng loại,
thông cảm sâu sắc với con người và cảnh vật; thức dậy trong cảc em một hành động nhân ải? Đó
là vấn đề hoàn toàn không đơn giản. Viết cho các em, phải là tình bạn bè, không phải chủng ta hạ

mình củi xuống mà thực sự hòa nhập vào cuộc sống trẻ thơ và được các em chấp nhận về mặt tình
cảm. ”[48,tr.39]
Văn học thiếu nhi không chỉ có vị trí quan trọng trong nền văn học dân tộc mà còn có vai trò
đặc biệt quan trọng trong đời sống trẻ thơ. Nhiều nghiên cứu cho thấy văn học thiếu nhi đã góp
phần không nhỏ vào việc rèn luyện tư duy; kích thích khả năng tưởng tượng và sáng tạo của trẻ,
cung cấp cho các em những trải nghiệm cuộc sống. Văn học thiếu nhi quan trọng với trẻ em ngay
cả trước và sau khi đến trường. Đối với lứa tuổi mầm non và tiểu học, văn học thiếu nhi còn giúp
cho các em học đọc, học viết. Thông qua các tác phẩm văn học, các em không những tích lũy được
vốn từ phong phú, hiểu được nghĩa của từ ngữ nghệ thuật mà còn biết nâng cao khả năng biểu đạt
trong lời nói. Văn học thiếu nhi cũng giúp cho trẻ em học cách giao tiếp, thấy được nhũng niềm
vui, nỗi bất hạnh của con người trong cuộc đời đế biết cảm thông và chia sẻ.
Trong tham luận “Văn học và trẻ em”, Vân Thanh - một trong những chuyên gia đầu ngành về
văn học thiếu nhi đã trình bày một vấn đề không mới nhưng không bao giờ cũ, đó là mối quan hệ
giữa văn học và trẻ em, cái làm nên giá trị của một tác phẩm viết cho trẻ em.
Lã Thị Bắc Lí trong “Nhận diện Văn học thiếu nhi Việt Nam từ thời kì đôi mới ” đã trình bày
một cách khái quát sự vận động và những thành tựu nổi bật của văn học cho trẻ em ở Việt Nam từ
năm 1986 đến nay. Tác giả đã khẳng định: “Vãn học thiếu nhi Việt Nam từ thời kì đôi mới và hội
nhập quốc tế đã phát triển khả phong phủ, đa dạng trong cách khai thác đề tài, chủ đề, mở ra khả
năng bao quát những bức tranh sinh động về đời sống trẻ em. Không chỉ là tiếp cận trẻ em ở
phương diện ”con ngoan, trò giởi” kiêu truyền thống mà tiêp cận, khám phá trẻ thơ như những sô
phận, những nhân cách được tác động từ nhiêu hướng, nhiều chiều... ”Sự gay gắt của những
chuyến biên kinh tê, xã hội đã ảnh hưởng sâu sắc tới văn học, đặc biệt là văn học thiếu nhỉ...ảnh
hưởng trực tiêp tới đời sống tâm hồn và sự phát trỉến nhân cách của trẻ thơ... ”.[32,tr.l0]


Cùng mang cái nhìn tống quát, tác giả Lế Hằng(CĐSP Hà Nội) hướng tới đánh giá sự hội nhập
của văn học thiếu nhi Việt Nam trong xu hướng toàn cầu hóa. Tác giả băn khoăn về vấn đề: Quản
tính của vãn học thiếu nhi thời chiến quả lớn hay sự lo lẳng thải
1 quả về nguy cơ “diên bien hòa
bình” khiến vãn học thiếu nhỉ không dám bứt phả đê bãt kịp với sự đôi mới của vãn học thời kì hội

nhập? những vân đề này cần được giới chuyên môn quan tâm nhiêu hơn nữa đế có thê chỉ ra
nguyên nhân căn cốt, hướng tới một chiến lược đồng bộ nhằm thúc đây sự phát triển của văn học
viết cho thiếu nhỉ cà ở so lượng và chất lượng, tác giả, tác phẩm và độc giả...Tù đó đưa tới kết
luận phải quan tâm hơn nữa đến đội ngũ sáng tác văn học thiếu nhi, phát động nhiều cuộc thi sáng
tác cho các em với việc lồng ghép, tích hợp các nội dung giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc, nâng
cao chất lượng nghệ thuật.
Neu như Lã Thị Bắc Lí và Lê Hằng đưa ra nhũng nhận định có tính khái quát từ phía những nhà
nghiên cứu thì hai tham luận: “Văn học cho trẻ em, đôi điều cảm nhận và đề xuất” của Trần Hoàng
Vy (Tây Ninh) và “Nhọc nhằn Vấn học Thiếu nhi ” của tác giả Hoài Khánh (Hải Phòng) là những
cảm nhận thực tế của những người trực tiếp viết cho các em. Đó là những khó khăn của người viết
trong vấn đề xuất bản; vấn đề sách truyện và đối tượng thích ứng... hai tác giả đã đưa ra những câu
hỏi bổ ích như hồi chuông cảnh tỉnh những thiếu sót trong thực trạng xuất bản, phát hành sách cho
trẻ em hiện nay.
Nhà văn Lê Phương Liên, người giữ vai trò Trưởng ban Văn học thiếu nhi của Hội nhà văn Việt
Nam, trong tham luận “Viết cho thiếu nhỉ là viết cho tương lai” đã có những gợi ý mang tính chiến
lược đế thúc đẩy nền văn học thiếu nhi nước nhà:
ỉ/Cần đào tạo bồi dưỡng các tác giả viết cho thiếu nhi, nâng cao trình độn về mọi mặt...
2/Cần tiếp tục nghiên cíni giới thiệu truyền bả các di sản văn học thiếu nhi trong quả khứ
với các thế hệ tiếp theo...
3/Cần tiếp tục xây dựng một đội ngũ nòng cốt những chuyên gia về Văn học thiếu nhi Việt
Nam.. ”[32,tr.l54]
Tham luận mang tính thực tiễn cao của hai cô giáo Nguyễn Thị Thu Nga và Lê Minh Nguyệt
(Hà Nội) đã đưa ra những con số thuyết phục từ cuộc khảo sát cụ thể, tỉ mỉ tại các tỉnh miền Bắc,
miền Tây Nam Bộ, Tây Nguyên về vấn đề đọc sách của trẻ. Ket quả của cuộc điều tra này đã phản
ánh đúng thực trạng và những tồn đọng của văn học trẻ em hiện nay: “Vãn học cho thiếu nhi Việt
Nam hiện nay đang “thừa ” nhưng vân “thiếu “Thừa ” bởi sự xuât bản tràn lan truyện tranh nước
ngoài mà phần lớn mang tỉnh bạo lực, kích động , song lại thiếu các tác phâm văn học hay, mang


tỉnh giảo dục và mang bản sắc văn hóa Việt Nam Vì vậy văn hóa đọc của trẻ em cần hơn nữa sự

định hướng từ phía gia đình, nhà trường và xã hội.
Tham luận “Sách học cho trẻ em thời kỉ đôi mới và hội nhập
1 quốc tế - đôi điều suy nghĩ” của
Phùng Ngọc Kiếm (ĐHSP Hà Nội), từ việc nêu lên một số nhận xét về thực trạng sáng tác văn học
cho trẻ em, phân tích trên cả hai phương diện “cầu” và “cung”, chia sẻ những suy nghĩ về tình trạng
“thừa” và “thiếu” của văn học thiếu nhi hiện nay, tác giả đã bước đầu đề xuất những ý tưởng trả lời
câu hỏi: làm thế nào để văn học thiếu nhi Việt Nam phát triển?
Ba bản tham luận: “Tơ Hoài và truyện thiếu nhi” (Nguyễn Đăng Mạnh - ĐHSP Hà Nội), “Văn
học thiêu nhỉ: Văn chương của sự nhẹ nhõm, sâu xa” (Nhã Thuyên), “Từ “Thằng quỉ nhỏ ” của
Nguyễn Nhật Ảnh nghĩ về những phẩm chất của một tácphâm viết cho thiếu nhi” (Trần Văn Toàn ĐHSP Hà Nội) đã thê hiện nhũng băn khoăn, lo lắng cho chất lượng của văn học trẻ em hôm nay,
và đưa ra những yêu cầu mang tính gợi mở đối với công việc sáng tác văn học cho trẻ em thời kì
đổi mới và hội nhập quốc tế.
Trong quá trình hội nhập hôm nay, trẻ em Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ tiếp cận văn hóa
xâm nhập không qua thử thách của thời gian, sự kiểm soát của chính quyền, sự lựa chọn của thiết
chế tố chức giáo dục. Đe giúp các em đủ bản lĩnh tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại,
làm giàu thêm bản sắc văn hóa Việt Nam mà vẫn “đề kháng” “miễn dịch” trước làn sóng “xâm
lăng” phản văn hóa đang diễn ra mạnh mè, chúng ta phải xây dựng cho các em được “Nhân cách”
người Việt - cái làm nên sức sống và sự trường tồn của dân tộc việt Nam. Đối với việc hình thành
và phát triển nhân cách thiếu nhi, không gì hơn là tác động của văn học thiếu nhi. Trước yêu cầu
của thời đại, văn học viết cho thiếu nhi cần tích cực vận động cho phù hợp với yêu cầu giáo dục và
thị hiếu trẻ em thời kì toàn cầu hóa.. ”[32,tr.66]
Tác động của văn học thiếu nhi đối với trẻ em không chỉ bó hẹp trong các sáng tác văn học Việt
Nam mà còn là những sáng tác văn học nước ngoài. Qua các tham luận: Các tác phàm vần học
nước ngoài trong chương trình THCS và vấn đề giảo dục nhân cách cho học sinh (PGS.TS Lê
Nguyên cẩn - ĐHSP Hà Nội); Đôremon truyện tranh Nhật Bản trong thời toàn cầu hóa (TS Đào
Thu Hằng - ĐHSP Hà Nội); Andecxen “Cỏ bẻ bản diêm” và những câu chuyên muôn thuở
(PGS.TS Lê Huy Bắc - ĐHSP Hà Nội); Tagore nhà sư phạm lớn (TS Nguyễn Thị Mai Liên - ĐHSP
Hà Nội); Sức hấp dân vãn học viết thiêu nhỉ qua hình tượng “Nhóc Nicolas ” (PGS.TS Nguyễn Thị
Bình - Ths Nguyễn Thị Thanh Hải - ĐHSP Hà Nội); “Nhóc Nicolas -Những chuyện chưa kê” đang
được kê (Ngô Thị Thu Hiền); Điều lẳng đọng trong “Những tầm lòng cao cả ” (Nguyễn Thị Hằng Đại học Tây Bắc)...Các tác giả đều khẳng định: dù ở đâu trên thế giới, trẻ nhở luôn nhận được



những tình cảm trìu mến nhất bởi các em chính là tương lai của nhân loại, là sự sống không ngừng
sinh sôi. Những tác phấm đích thực cho trẻ em là những tác phẩm vưọt qua giới hạn của thời gian
và không gian để có thể đến được với mọi trẻ em trên toàn thế giới.
1 Và theo như Lê Nguyên cẩn thì
việc giảng dạy các tác phẩm văn học nước ngoài (dù dưới hình thức các đoạn trích) cũng cần xác
lập hướng tiếp cận hướng về việc giáo dục nhân cách của trẻ em, coi việc giáo dục trẻ em qua các
tác phấm nay không chỉ dừng ở cấp độ khảo sát cái hay cái đẹp của hình tượng mà điều quan trọng
là phải rút ra ý nghĩa liên quan tới chức năng hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ em, qua đó
dạy cho trẻ biết sống đúng và sống đẹp.
Trong sự biến chuyển của thời đại, việc giáo dục tình cảm nhân cách cho trẻ em còn đặt ra vấn
đề hết sức cấp thiết, đó là giáo dục giới tính. Điều này được đặt ra trong tham luận “Vãn học trẻ em
và vẩn đề giảo dục giới” của TS Trân Hạnh Mai (ĐHSP Hà Nội), và tham luận “Thời kì hội nhập
và đề tài thai giảo trong văn học thiếu nhi” của nhà văn Trần Quốc Toàn (Thành phố Hồ Chí
Minh). Neu như Trần Hạnh Mai dừng lại ở việc nêu vấn đề từ góc nhìn của nhà nghiên cứu, thì nhà
văn Trần Quốc Toàn đã đóng góp trực tiếp những sáng tác của ông mang tính “ứng dụng” cao trong
việc giáo dục giới cho trẻ. Thiết nghĩ, đây là một yêu cầu cần thiết của văn học trong việc góp phần
hoàn thiện nhân cách trẻ em.
1.2.

Truyện viết cho thiếu nhi.

1.2.1.

Khái niệm truyện viết cho thiếu nhi

Truyện viết cho thiếu nhi không giống như truyện viết cho người lớn. Độc giả lứa tuối này bé
nhỏ, mong manh, nên cần có những tác phấm văn học phù hợp với tâm sinh lý các em. Theo
VânThanh: “Văn học thiếu nhi cần nhiều cách điệu, khoa trương, nhiều mơ mộng, tưởng tượng táo

bạo hon nữa. Không phải những tưởng tượng viển vông tách rời hiện thực, mà phải đi sâu vào hiện
thực một cách khái quát hơn, bản chất hơn. Dù mơ mộng đến đâu, lùi xa về quá khứ hay viễn tưởng
đến tương lai thì nơi khởi đầu và chỗ đến cuối cùng của chúng ta vẫn là sự chân thật của ngày hôm
nay” [44,tr.l06-107]. Có nghĩa là truyện viết cho thiếu nhi phải gần gũi với cuộc sống, gần gũi với
suy nghĩ của các em. Thiếu nhi là những cô bé cậu bé dễ tin, dễ tưởng tượng, nên theo Vân Thanh
“Chân thật trong từng chữ từng câu, trong cảm xúc, suy nghĩ, hành động của nhân vật và quan trọng
hơn là chân thật nghiêm túc trong những vấn đề của thực tại, trong những quy luật chi phối cuộc
sống hàng ngày” [44,tr.l07].
Có thế thấy, điều quan trọng khi viết truyện cho thiếu nhi là các nhân vật, hoàn cảnh, hành động
phải có sức thuyết phục. Vì các em vốn dễ vui cùng niềm vui của nhân vật, dễ buồn cùng nỗi buồn
của nhân vật. Những hình tượng nhân vật mà các em yêu thích sê ở trong trí nhớ của các em suốt


cuộc đời. Tác phẩm thiếu nhi muốn có tính thuyết phục thì “Vấn đề là người viết phải lựa chọn
được góc độ và cách nói phù hợp với tầm hiểu biết và sự quan tâm, sự thích thú của từng lứa tuổi
các em. Dĩ nhiên là nói đến cái lỗi thời, cái thấp kém, cái bi, cái1mục nát là đế phủ định nó, để làm
cho cái mới, cái đẹp càng mới và càng đẹp hơn. Mặt khác tâm hồn trẻ thơ rất xa lạ với sự nghiêm
nghị, với thái độ thờ ơ, với những nỗi u sầu;
chúng tôi muốn trang sách viết cho các em là những trang sách kỳ diệu, vừa gợi cảm vừa gây cười,
vừa hồn nhiên vừa lộng lẫy” [44,tr.l07].
Truyện viết cho thiếu nhi có nội dung trong sáng, phong phú và toàn vẹn. Các em chưa trưởng
thành đế hiếu những mâu thuẫn sâu sắc của thời đại, của tâm hồn con người. Nhung các em có nhu
cầu khám phá cuộc sống, tìm hiểu quá khứ, hiện tại, và tương lai. Với các em, “cuộc sống mở ra
trên từng trang sách; đọc sách các em sẽ biết được nhiều điều mới mẻ, nhiều tấm gương, nhiều lời
khuyên nhủ. Chúng tôi muốn cuộc sống trong sách cho các em là một cuộc sống không bị cắt xén,
một cuộc sống toàn vẹn phong phú, đa dạng trong đó có người lớn và trẻ em, có ngày hôm qua,
ngày hôm nay và cả ngày mai” [44,tr.l06].
Truyện viết cho thiếu nhi không dễ, nhà văn khi sáng tác phải thật sự trẻ hóa chính mình, biết
đứng ở vị trí các em để hiểu tâm lý các em, hiểu những nhu cầu của các em. Theo Lã Thị Bắc Lý:
“Văn học thiếu nhi có nhiều cái khó so với văn học cho người lớn. Ngoài tất cả những yêu cầu của

sáng tác văn học nói chung, nhà văn viết cho thiếu nhi phải đặc biệt thấu hiểu đối tượng. Hiểu
những đặc điểm tâm sinh lý, những suy nghĩ và hành động của trẻ để chiếm lĩnh, khám phá và thể
hiện. Hiểu để viết cho sát với nhu cầu và nhận thức của các em. Người viết càng nắm được đặc
điểm tâm sinh lý các em, hiểu sâu sắc từng lứa tuổi thì càng có cơ hội cho tác phấm của họ có thế
trở thành tác phấm hay” [36,tr.51 ].Truyện sẽ thu hút các em hơn khi thỏa mãn những vấn đề mà
các em đang nghĩ, nhũng giấc mơ mà các em đang ấp ủ. Lật giở từng trang sách, các em sẽ lưu giữ
những hình tượng nhân vật giúp các em tìm thấy niềm vui, niềm tin. Hành động của nhân vật mà
các em yêu thích sẽ tồn tại trong trí nhớ của các em. Bởi vì “Trẻ em luôn luôn mang theo những
hình ảnh, những ước mơ, những ấn tượng từ những trang sách mà chúng đã đọc được vào tương lai.
Sự tác động sâu xa, bền vững ấy của tác phẩm văn học vào cuộc đời của trẻ đòi hỏi người cầm bút
cho các em phải có ý thức trách nhiệm lớn lao” [36,tr.51]. Chức năng giáo dục của văn học có ý
nghĩa lớn lao đối với độc giả nhỏ tuối, nên tác phẩm viết cho thiếu nhi cần có sự tham gia của các
nhà văn yêu nghề, mến trẻ. Đó là những người giàu nhiệt huyết, góp sức xây dựng nên bộ phận văn
học quan trọng trong nền văn học nói chung. “Văn học thiếu nhi có nhũng đặc thù riêng nhưng
không thế tách biệt hắn với lịch sử văn học của đất nước. Vả lại các tác giả viết cho trẻ em cũng


đồng thời là những nhà văn đã góp phần tạo nên diện mạo chung của văn học dân tộc. Văn học
thiếu nhi cũng được đặt trong nỗ lực đổi mới chung của văn học. Ý thức nghệ thuật trong sự đổi
mới chung có ảnh hưởng đến quan niệm và cách viết cho các em.
1 Trẻ em được đặt vào trung tâm
của sáng tác” [36,tr.55J.
Các em là độc giả trung thành, “Những tác phẩm được thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi vì các
em đã tìm thấy ở trong đó cách nghĩ, cách cảm và cách hành động của chính các em, hơn thế, các
em còn tìm được ở trong đó một lời nhắc nhở, một sự răn dạy, với những nguồn động viên, khích
lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ ích... trong quá trình hoàn thiện tính cách của mình” [3,tr.6]. Tuổi thơ
là tuổi đẹp nhất, tuổi ngây thơ nhất, tuối dễ dàng tin vào những điều kì diệu nhất. Tuôi luôn cần có
sự chở che của những người có thiện chí và có lòng nhân ái. Trên nước Nga Xô viết, nguyên tắc
đầu tiên sau thành công Cách mạng tháng Mười là: Mọi cái tốt đẹp đều dành cho trẻ em. Nước Nga
vốn được xem là thiên đường của thiếu nhi.

Truyện viết cho các em cũng vậy, nhà văn Xecgay Mikhancop- Chủ tịch Hội nhà văn nước Cộng
hòa Xô viết liên bang Nga, Bí thư lãnh đạo Hội nhà văn Liên Xô đã viết: “Thật vây, tương lai của
nhân loại tùy thuộc nhiều ở lý tưởng và đạo đức của chúng ta sẽ gieo trồng vào thế hệ đang lên.
Khả năng giáo dục to lớn của sách văn học thì ai cũng rõ... Tất cả chúng ta đều đều đồng ý rằng một
đứa trẻ biết đọc thì tốt hơn nhiều so với đứa không đọc gì, rằng một cuốn sách viết cho trẻ mà hay,
lý thú và tốt lành lại in đẹp, là một điều kì diệu [43,tr.l0]. Có nghĩa, truyện dành cho các em là cuốn
sách hay, giàu giá trị giáo dục. Nội dung truyện có sức lôi cuốn hấp dẫn, giúp các em dần tiếp cận
và thích thú với nền văn học chân chính. Bồi dưỡng các em sức mạnh, ý chí, niềm tin hướng về giá
trị đích thực của văn minh và văn hóa.
Mikhain Panitsơ cũng khắng định: “Khát khao hiếu biết, nhu cầu tìm tòi thật là lớn trong trẻ em”
[43,tr.39]. Các em luôn muốn nghe lời giải thích về những điều mà các em chưa hiểu. Người lớn
nhiều khi cũng khó nắm bắt được thế giới riêng của các em, cho nên “theo dõi cách xử sự của trẻ
em, ta đi đến chỗ tự hiểu ta hơn. Dĩ nhiên với điều kiện là biết quan sát và muốn tự hiếu mình. Tự
hiếu mình là điều khó. Hiếu trẻ còn khó hơn. Trẻ cách xa ta về tuổi tác, về thời gian và xa hơn, bởi
điều kiện sinh sống... Trẻ em chia sẻ với ta trong thế giới ta đang sống và đồng thời trẻ lại ở một thế
giới khác” [43,tr.l 1]. Thế giới trẻ em có vô vàn cảm xúc, một thế giới được nuôi dưỡng bởi những
ý nghĩ hồn nhiên, và trí tưởng tượng vô hạn. Viết truyện cho các em, là hiểu thế giới ấy. Mikhain
Panitsơ nói thêm: “Đó là những cuốn sách đã thể hiện trước hết niềm vui gặp gỡ thế giới trẻ em, cái
thế giới bao la, trong sáng và phức tạp, không phải lúc nào cũng dễ hiếu nhưng luôn luôn giàu có và
rối ren. Gặp gỡ với một thế giới luôn vận động và biến đổi thường kì. Háo hức những cảm xúc mới


lạ, kích động, sợ sệt, tìm tòi, lánh né, khó bảo, tốt lành hay độc ác, trẻ em ta không thể là cái gì
khác, chúng luôn lên đường, lên đường tìm kiếm một cái gì” [43,tr.43].
Nhà văn Nga L. Đolexcaia cho rằng các em là những nhà hiện
1 thực ngây thơ. Vì lẽ đó, tất cả
những gì thế hiện trong tác phấm nghệ thuật các em đều phải như những điều có thật. Có nghĩa
“cần phát triển một cách tế nhị và thận trọng thái độ đối với văn học của các em từ mức hiện thực
ngây thơ đến việc lĩnh hội văn học như một nghệ thuật” [43,tr.50].
Nhà văn viết cho thiếu nhi là người thấu hiếu được tâm hồn trẻ thơ. “Một tác phẩm viết cho trẻ

em không chỉ đế cho trẻ em thích thú mà còn phái kích thích ở các em những khát vọng và niềm
tin. Vì thế, không chỉ là tưởng tượng thuần túy, tưởng tượng trong tư duy hiện thực, gắn bó sâu sắc
với hiện thực, dựa trên sự chiêm nghiệm của nhà văn về cuộc sống mà còn là tưởng tượng có tính
chất dự cảm, dự báo về tương lai. Văn học viết cho trẻ em phải đánh thức được khả năng rung động
sâu sắc của tâm hồn trẻ thơ, hình thành ở các em niềm tin gẳn với những giá trị thấm mỹ và vẻ đẹp,
đế từ vấn đề này trẻ em có thế nâng lên tầm tư tưởng, có ý nghĩa nhân sinh, nhân loại” [36,tr. 165].
Văn học viết cho thiếu nhi thực sự gần gũi với cuộc sống, gần gũi với tâm lý, suy nghĩ, tình cảm
của em. Đó là suy ngẫm về quá khứ, là niềm tin ở hiện tại, là lý tưởng hoài bão trong tương lai. Giá
trị tác phẩm văn học mang lại cho các em cách nhìn nhận, tiếp cận cuộc sống toàn diện hơn, sâu sắc
hơn.
1.2.2.

Khái quát về truyện viết cho thiếu nhi ở Việt Nam và một số nước trên thế giới.

1.2.2.1.

Truyện viết cho thiếu nhi ở Việt Nam.

Nhìn lại lịch sử văn học Việt Nam, có thể thấy văn học thiếu nhi luôn đồng hành cùng với văn
học dân tộc. Đây là một bộ phận văn học xuất hiện từ rất sớm, từ những bài vè, bài đồng dao,
truyện cố tích, truyện ngụ ngôn. Từ khi văn học viết xuất hiện, Thánh Tông với “Thánh Tông di
thảo” và Nguyễn Trãi với “Gia huấn ca” đã có sự quan tâm đến các em thiếu nhi.
Đến đầu thế kỉ XX, văn học thiếu nhi có sự mở đầu trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Năm
1917, Phan Bội Châu viết truyện “Chân tướng quân”, Phạm Hồng Thái, Tản Đà., đều là những tác
giả có đóng góp đối với văn học thiếu nhi giai đoạn này. Tiếp theo là sự thành công của Nguyên
Hồng với “Những ngày thơ ấu” (1938), Tô Hoài với “De Mèn phiêu lưu kí” (1941)... Trước Cách
mạng, nhóm Tự lực Văn đoàn có sách dành cho thiếu nhi tên là Sách hồng, Hoa mai, Tuổi xanh...
Tú Mỡ có “Tấm cám”, Nam Cao có “Bài học quét nhà”, “Con mèo mắt ngọc”, Thạch Lam “Hai
đứa trẻ”, Tố Hữu “Mồ côi”, “Hai đứa bé”, “Đi đi em”... Ở thời kì này, truyện viết cho thiếu nhi
không nhiều, đề tài nội dung chưa phong phú. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, truyện viết

cho thiếu nhi phát triển toàn diện và phong phú hơn. Có một bộ phận chuyên về văn học thiếu nhi


do Tô Hoài và Hồ Trúc đảm nhiệm. Thời kì kháng chiến chống Pháp 1946- 1954, dù bộn bề trăm
công nghìn việc, Bác Hồ vẫn luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến thiếu nhi và văn học thiếu nhi.
Trong “Thư trung thu gửi các cháu nhi đồng” Bác viết: “các cháu
1 phải yêu Tố quốc, yêu đồng bào,
yêu lao đ ộ n g . . L ờ i dạy ấy của Bác sau này đã trở thành đề tài, chủ đề và nội dung của các tác
phẩm văn học thiếu nhi. Nguyễn Huy Tưởng viết “Tìm mẹ”, “Chiến sĩ calô”, “Hà Học Hợi học sinh
gương mẫu”, “Hai bàn tay chiến sĩ”, “Điện Biên của chúng em” đều nói về những em bé mưu trí,
dũng cảm giúp bộ đội chiến đấu. Nguyễn Tuân viết tác phẩm “Chú Giao làng Sen”, Nguyên Hồng
viết “Dưới chân cầu mây”, Tô Hoài viết “Hoa Sơn” cũng đều đề cập đến nhũng tấm gương dũng
cảm của các em, đến công sức của các em trong sự thắng lợi của cuộc kháng chiến. Thời kì này,
nhà thơ Tố Hữu có làm nhiều bài thơ hay trong đó “Lượm” là bài thơ nổi tiếng về lòng yêu nước
dũng cảm. Chiến thắng thực dân Pháp, nhưng Việt Nam vẫn bị chia làm hai vùng miền. Văn học
thiếu nhi thời kì 1954- 1964 tiếp tục khai thác về đề tài kháng chiến chống Pháp. Đội ngũ sáng tác
truyện cho thiếu nhi có: Tô Hoài viết “Vừ A Dính”, Bắc Thôn viết “Hai làng Tà Pình và Động Hía”,
Đoàn Giỏi viết “Đất ròng Phương Nam”, Võ Quảng viết “Cái Thăng”, Xuân Sách viết “Đội du kích
thiếu niên Đình Bảng”, Bùi Hiển “Bên đồn địch”... Nội dung truyện thiếu nhi thời kỳ này là ngợi ca
những người anh hùng nhỏ tuổi.
Vào những năm 60 của thế kỉ XX, ở miền Bắc bắt đầu công cuộc khôi phục kinh tế và xây dựng
cuộc sống mới. Các tác phấm văn học viết cho thiếu nhi tập trung vào đề tài ngợi ca người lao động
chân chính. Văn Trọng viết “Bí mật ở miếu Ba cô” và “Câu chuyện trên đầm Đông”, Lê Khắc Hoan
viết “Mái trường thân yêu” nói về các em nhỏ trong quá trình hợp tác hóa nông nghiệp. Bùi Minh
Quốc viết “Bé Ly”, Hải Hồ viết “Chú bé sợ toán” giáo dục các em quý trọng sức lao động, biết rèn
luyện mình trở thành người hữu ích trong tương lai. Cũng vào năm 1960, tác giả Nguyễn Huy
Tưởng đã có hai tác phẩm xuất sắc viết về đề tài truyền thống lịch sử, đó là “Lá cờ thêu sáu chữ
vàng” và “Ke chuyện Quang Trung”, về truyện khoa học viễn tưởng thời kì này chưa phát triển, về
thơ ca có các tên tuổi sau: Tố Hữu, Phạm Hổ, Võ Ọuảng, Xuân Tửu, Trần Hoạt... Có thể nói truyện
ký thời kỳ này khá phát triển. Ở dạng tự truyện, Nguyễn Ngọc Kí viết “Tôi đi học”, Ọuang Huy viết

“Hoa xuân tứ”, nội dung nêu cao tinh thần vượt khó, nghị lực phi thường của tuối thơ. Ở dạng hồi
ký, Phùng Thế Tài viết “Lớn lên nhờ cách mạng” nói về những ngày tháng lớn lên cùng cách mạng,
Văn Biển viết “Cô bê 20” kể về anh Hồ Giáo trên nông trường nuôi bò ở Ba Vì. Viết về cuộc sống
mới, con người mới nhằm ngợi ca sự giàu đẹp của đất nước, tác giả Viết Linh có “Ồng than đá”,
Thế Dũng “Thảm xanh trên ruộng”, Hoàng Bình Trọng “Bí mật khu rùng”, Phạm Ngọc Toàn “Đỉnh
núi nàng Ba”. Đây là những tác phẩm văn học giáo dục các em biết ham mê khoa học, biết quý


trọng các nhà khoa học. về đề tài chiến đấu, Nguyễn Thi viết “Mẹ vắng nhà”, Lâm Phương viết “Hồ
Văn Men”, Võ Quảng viết “Quê nội”. Đe tài viết về truyền thống lịch sử, tác giả Hà Ân có “Bên bờ
Thiên Mạc”, ‘Trên sông truyền hịch”, “Trăng nước Chương Dương”.
Hai tác giả Lê Vân và Nguyên
1
Bích viết “Sát thát”. Sinh hoạt Đội là một hoạt động quan trọng của các em thiếu nhi. Ở mảng đề tài
này, Tô Hoài có tác phẩm “Họp tác xã của chúng em”, Phạm Hổ có “Khăn đở đúc cày”, Đào Vũ có
“Danh dự chúng em”, Văn Trọng có “Bí mật ở miếu Ba cô”. Có những tác phẩm viết về học tập và
sinh hoạt của các em trong nhà trường như: “Chú bé sợ toán” của Hải Hồ, “Năm thứ nhất” của
Minh Giang, “Mái trường thân yêu” của Lê Khắc Hoan, “Con bướm trắng” của Phạm Ngọc Toàn,
“Gánh xiếc lóp tôi” của Viết Linh. Đây là những tác phẩm miêu tả quá trình phấn đấu của các em
trong học tập. Nhiều tác giả cũng viết về đề tài này như Bùi Hiển “Quỳnh xóm cháy”, Nguyễn
Quỳnh “Cơn bão số 4”, Minh Giang “Xã viên mới”, Nguyễn Kiên “Ke chuyện nông thôn”. Có thể
thấy từ sau năm 1965, những tác phấm văn xuôi giành cho các em phong phú đa dạng hơn.
Cuộc chiến tranh đã qua đi, nhưng kí ức về cuộc chiến vẫn còn đọng lại trên trang viết của các
tác giả. Xuất phát từ cảm xúc về thời bom đạn, Võ Quảng có “Tảng sáng”, Nguyễn Quang Sáng có
“Dòng sông thơ ấu”, Phùng Quán có “Tuối thơ dữ dội”, đây là những tác phẩm viết về kỉ niệm tuổi
thơ thời kháng chiến chống Pháp. Cũng về kí ức chiến tranh, với cuộc kháng chiến chống Mỹ, tác
giả Bùi Minh Ọuốc viết “Hồi đó ở Sa Kì”, Thanh Quốc viết “Cát chảy”, Nguyễn Thị Như Trang
viết “Hoa cở đắng”, Lê Phương Liên viết “Những tia nắng đầu tiên”, Quang Huy viết “Ngôi nhà
trống”. Bên cạnh đó, hướng đến tâm lý lứa tuổi của các em cũng được các tác giả chú ý, Dương
Thu Hương viết “Hành trình ngày thơ ấu”, Duy Khán viết “Tuổi thơ im lặng”, Vũ Thư Hiên viết

“Miền thơ ấu”, Ma Văn Kháng viết “Côi cút giữa cảnh đời”. Cuộc sống tuổi mới lớn khi đất nước
thống nhất cũng được nhiều nhà văn quan tâm. Tác giả Phạm Hố viết “Tình thương”, Nguyễn
Quang Thân viết “Chú bé có tài mở khóa”, Trần Nhựt Minh viết “Trước mùa mưa bão”. Đe giúp
các em hòa nhập với cuộc sống hiện tại, tác giả Nguyễn Nhật Ánh đã viết “Em gái”, Quế Hương
viết “Kẻ thù”, Cao Xuân Sơn viết “Chị”, Đoàn Thị Lam Luyến viết “Cánh cửa nhớ bà”, Trần Thiên
Hương viết “Ngày xưa”... Với tập truyện “Kính vạn hoa”, Nguyễn Nhật Ánh đã đặc biệt thành công
khi thu hút được sự quan tâm của các độc giả nhở tuổi.
Sau này, văn học thiếu nhi có giải thưởng “Vì tương lai”. Đây là giải thưởng trao tặng cho các
tác giả sáng tác những tác phẩm hay, có giá trị giành cho các em. Nhiều tác phẩm xuất sắc như: “Tu
hú gọi mùa” của Trần Công Nghệ, “Thánh Gióng và bé Nê” của Lưu Trọng Văn, “Kỉ niệm về một
dòng sông” của Đoàn Lư, “Nhành cỏ non” của Trần Quốc Toản, “Mùa hè thơ ấu” của Nguyễn Thị
Châu Giang, “Bạn thành phố” của Nguyễn Thị Thanh Bình, “Mảnh đời trôi nổi” của Lâm Phương,


“Cò trắng vườn chim” của Kim Hài, “Giếng vàng” của Xuân Mai... Tác giả Nguyễn Ọuang Thiều
có những tác phẩm tiêu biểu: “Rùa trắng”, “Bầy chim chìa vôi”, “Bông hoa nước”, “Người cha”.
Những tên tuổi trong “làng văn” thiếu nhi thật sự có đóng góp
1 to lớn, bằng niềm đam mê sáng
tạo họ đã góp phần nuôi dường tâm hồn trẻ thơ. Nhiều tác phẩm hay sống bền bỉ với thời gian,
được các em tìm đọc và yêu mến. Cho đến nay, nhìn lại bộ phận văn học viết dành cho thiếu nhi
ỞViệt Nam không phải là không có hạn chế. Song hạn chế đó là một tất yếu, là động lực giúp các
tác giả chuyên tâm vào đối tượng độc giả nhỏ tuổi sáng tác ngày càng hay hơn, sâu sắc hon, thỏa
mãn được nhu cầu đọc của các em hơn.
1.2.2.2.

Truyện viết cho thiếu nhi ở một số nirớc trên thế giói.

Nhà văn Nga Anhia Bacto từng nói: “Văn học thiếu nhi thế giới có thế đóng góp rất nhiều vào
việc làm cho tâm hồn trẻ nhỏ khắp thế giới xích lại gần nhau, làm cho niềm vui ấy ngày càng phát
triển và sâu sắc” [83,tr.54]. Đúng như vậy, trẻ em- dù ở đâu, dù sống ở thời đại nào vẫn luôn có nhu

cầu tìm kiếm lời giải đáp về cuộc sống qua các tác phấm văn học. Chúng ta biết rằng nền văn học
nghệ thuật ra đời sớm, nhưng văn học giành thiếu nhi trong thời kì đầu của văn học thì không hề
tồn tại. Có thể nói, văn học thiếu nhi là một hiện tượng khá mới. Ngày trước, những câu chuyện
thần thoại, cổ tích, truyền thuyết ban đầu đều được xếp vào danh mục văn học thiếu nhi. Đơn giản
vì đây là những cốt truyện mang tính chất hoang đường, phù họp với tâm lý ngây thơ của trẻ nhở.
Những câu chuyện này có nội dung khám phá nguồn gốc về vũ trụ, về mùa màng, về các nền văn
minh loài người. Mục đích của những câu chuyện là giúp con người hiểu biết thêm về cuộc sống,
về vũ trụ, về mọi thứ... Bên cạnh đó, còn có mục đích nhằm lưu giữ những nét đẹp văn hóa- lịch sử
từng vùng miền. Các câu chuyện ngụ ngôn cũng vậy, chang hạn như giải thích hiện tượng “Tại sao
thân kiến bị chia thành hai?”, điều này có nghĩa giải thích miêu tả về hình dáng - cấu tạo của loài
kiến. Mặc dù không phải là truyện viết cho thiếu nhi, nhưng lại trở thành truyện dành cho thiếu nhi.
Sở dĩ tồn tại điều này, trước hết là bởi tính chất hoang đường của truyện, không phù hợp với người
lớn. Nội dung truyện mang màu sắc hư ảo phù hợp với trí tưởng tượng phong phú của trẻ thơ.
Những câu chuyện thường mang tính giáo huấn sâu sắc, thường gắn liền với những bài học làm
người nhẹ nhàng... cho nên phù họp với lứa tuổi các em. Như chúng ta đã biết, truyện viết cho thiếu
nhi gần gũi với tâm lý các em, truyện mang tính giáo dục rất cao. Hơn thế nữa, trẻ em luôn có tính
hiếu kì, các em luôn muốn đọc những gì mà các em thích. Bởi vậy, vấn đề truyện thực sự dành cho
thiếu nhi bắt đầu từ đâu? luôn là câu hởi của những ai quan tâm đến thiếu nhi và quan tâm đến văn
học dành cho thiếu nhi. Vậy thì từ bao giờ và ở đâu xuất hiện những tác phẩm văn học thực sự dành
cho thiếu nhi?


Vào khoảng thế kỉ VIII, Aldhelm - một nhà tôn giáo (còn được gọi là cha của dòng thơ ca AngloLatinh) được xem là tác giả của cuốn sách giáo khoa đầu tiên cho trẻ em. Tất nhiên là cuốn sách này
viết bằng tiếng Latinh. Khoảng cuối thế kỉ XV, William Caxton
1 - một nhà đánh chữ đầu tiên của
nước Anh đã cho in những tác phấm viết cho thiếu nhi. Đó là “Con cáo Reynard” (1481), “Chuyện
ngụ ngôn về Aesop” (1484), và “LeMorte D’Arthur” của Thomas Malory (1484). Đây là những tác
phẩm mà đến ngày nay vẫn được các trẻ em yêu thích.
Vào năm 1658-1659, tác giả người Anh đã giới thiệu cuốn “Orbis Sensulium Pictus”. Đây là một
cuốn sách đế các em thiếu nhi tham khảo về những môn học của chúng. Cuốn sách được viết bằng

tiếng Anh, có lời mở đầu là “Hãy đến đây ta sẽ chỉ cho con tất cả, ta sẽ đọc tên mọi thứ xung quanh
con”. Đây là một cuốn sách thực sự hữu ích, và được xem là cuốn sách có hình minh họa đầu tiên
viết cho trẻ em trong nền văn học thiếu nhi.
Khoảng thế kỉ XVII - XVIII, cuốn sách viết cho thiếu nhi đầu tiên phát hành ở Mỹ có tên gọi là
“Nguồn sữa tinh thần của những em bé Boston ở Anh” (Spiritual Milk for Boston Babes in Either
England), tác giả của cuốn sách là John Cotton. Mục đích của cuốn sách là giáo dục, hướng dẫn dạy
dỗ các em cách cư xử. Sau đó, khoảng năm 1744 tại nước Anh, John Newbery khởi nghiệp ở
London bằng cách mở tiệm The Bible và The Sun ở sân nhà thờ s.t Paul. Đây là nhà xuất bản đầu
tiên và là tiệm sách đầu tiên dành cho thiếu nhi. Ồng đã kí hợp đồng với các tác giả nổi tiếng đế họ
viết truyện, những cuốn truyện dành riêng cho độc giả nhở tuổi. Những cuốn sách này được các em
đón nhận trong niềm yêu thích, đó là cuốn “Cuốn sách bỏ túi dễ thương” (1744), và “Đôi giày nhỏ
nhắn của Goody” (cuốn này có thể được viết bởi Oliver Goldsmith, năm 1765). Nhiều người coi
đây là sự bắt đầu rõ ràng của nền văn học viết thiếu nhi.
Ở Đan Mạch, nhà văn Hans Chiristian Anđecxen được xem là một trong những hiện tượng hiếm
có trong văn học. Tên tuổi nhà văn Andersen được trẻ em nhiều nước trên thế giới biết đến qua
nhũng câu chuyện cổ tích kì thú. Năm 1835, ông bắt đầu sáng tác truyện kể nhan đề “Chuyện kể
cho trẻ em tại Ý”. Từ đó hầu như mỗi năm Andersen cho ra đời một truyện. Ân bản thứ ba của
truyện CO Andersen được xuất bản năm 1837 với nhiều tác phẩm cố tích nổi tiếng như “Nàng tiên
cá”, “Bộquần áo mới của hoàng đế”, “Con vịt xấu xí”... Sau đó là hàng loạt tác phấm “Bà chúa
tuyết”, “Bộ quần áo mới của hoàng đế”, “Cái chuông”, “Chú lính chì dũng cảm”, “Cô bé bán
diêm”... Ông nổi tiếng là một nhà văn viết truyện cho thiếu nhi. Lối văn của ông sâu sắc thâm thúy,
mơ mộng và lãng mạn, vừa hiện thực vừa bi đát. Mỗi tác phẩm đều toát lên tình người, tính lạc
quan và sự khoan dung độ lượng.


Thời kì nở rộ của văn học thiếu nhi Thụy Điển là vào khoảng 1900, với nhiều tên tuổi quan trọng
như Elsa Beskow, Anna Maria Ross và Anna Wahlenberg. Năm 1945, Astrid Lindren bắt đầu thành
công với “Pipi tất dài”. Với tác phẩm này Astrid Lindgren đã góp
2 phần giải phóng văn học thiếu
nhi ra khỏi gánh nặng của chủ nghĩa đạo đức chật hẹp. Trong những sáng tác của mình, Astrid

thường tìm đến các câu hỏi vềcuộc sống và sự tồn tại như: sống và chết trong “Pipi tất dài”, can
đảm và sợ hãi trong “Mio, Mio của tôi”, mâu thuẫn các thế hệ trong “Ronja Rovardotter”. Những
nhà văn đổi mới trong các thập niên tiếp theo đó là Maria Gripe, Gunnel Linde, Ingeoch Lasse
Sandberg, Sven Nordqvist và nhiều người khác nữa. Những thập niên cuối thế kỉ XX, ở nước Mỹ
xuất hiện nhà văn nữ Nancy Farmer, một tác giả xuất sắc ba lần đoạt giải thưởng Newbery. Đây là
giải thưởng sách dành cho trẻ em trên toàn nước Mỹ. Bà viết những tác phẩm nổi tiếng như“Tai,
mắt và cánh tay”, “Cô gái có tên tai họa”, “Ngôi nhà Bọ cạp”. Năm 2002, với tác phẩm “Quỹ biến”
bà đoạt giải sách Quốc gia. Tác phẩm này được đánh giá là tác phẩm kinh điển của thời hiện đại.
Một tác phẩm thể hiện tài năng bút pháp sáng tạo của Nancy, cốt truyện ly kì, hấp dẫn về một thế
giới tuyệt đẹp kì lạ, giống như thật. Ngoài ra bà còn có những cuốn sách khác như “Bạn biết tôi
chăng?”, “Một nơi ấm áp”... Thời gian gần đây, văn học thếgiới xuất hiện những tác phẩm như
Đôremon, Harry Potter... Đó là những tác phẩm được mọi lứa tuổi thiếu nhi yêu thích. Năm 2005,
nhà văn người Mỹ sinh sống tại Canada: Pamela Porter đoạt giải Governor General với tác phẩm
“The Crazy Man”. Cũng tác phẩm này, năm 2006 bà đoạt giải thưởng văn học thiếu nhi, một giải
thưởng có uy tín ở Canada. Nội dung tác phẩm miêu tả thế giới ở nhiều phương diện: lòng nhân từ,
nỗi đau con người, sắc đẹp và sức mạnh quyền lực. Cuốn sách hay thu hút các em bởi nhiều chi tiết
bất ngờ, xúc động. Gần đây, nhà thơ Jack Prelutsky được Hiệp hội thơ ca Mỹ trao tặng giải thưởng
văn học vì trẻ thơ.Viết cho các em không phải việc dễ dàng, nhất là việc nắm bắt tâm lý của các em.
Các nhà văn chuyên viết truyện thiếu nhi đều hiếu, cùng với thời gian, các em ngày càng thông
minh hơn, càng ham hiểu biết hơn. Xã hội loài người phát triển, các em càng sớm tiếp thu cuộc
sống hiện đại. Các em có nhiều cơ hội hòa mình vào nhịp sống đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Vì thế, trí tuệ các em phát triển, tâm lý các em diễn biến phức tạp. Có thể thấy, việc chiếm
lĩnh thế giới tâm hồn, trí tuệ và niềm đam mê của thiếu nhi vẫn là con đường chung cho sáng tác
mọi lĩnh vực. Tìm kiếm những cách viết mới trên cơ sở cốt truyện có chi tiết kì lạ mà gần gũi, hóm
hỉnh và thông minh, cùng với sức tưởng tượng mới mẻ... luôn là nhân tố quan trọng trong sáng tác
truyện cho thiếu nhi. Điều đó càng chửng tỏ rằng ở bất cứ thời đại nào, trên bất cứl ãnh thổ nào,
thiếu nhi vẫn tìm đến với văn học, và văn học vẫn luôn mãi là nhu cầu của thiếu nhi.
1.3.

Nhà văn Tô Hoài và truyện viết cho thiếu nhi



1.3.1.

Vài nét về tiếu sử nhà văn Tô Hoài

Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ngày 27/9/1920 trong một gia đình thợ thủ công nghèo ở
làng Nghĩa Đô, phủ Hoài2Đức, nay thuộc phường Nghĩa Đô,
quận Cầu Giấy, Hà Nội. Hoàn cảnh đó khiến nhà văn từ nhở đã sớm hòa mình trong cuộc sống của
gia đình, làng quê lúc phong lưu cũng như khi sa sút, túng quẫn. Tô Hoài cũng đã cảm nhận được
niềm vui và nỗi buồn trong từng bước thăng trầm của làng nghề truyền thống. Tuối thơ của Tô Hoài
hầu như không được sống trong cảnh êm đềm. “Cậu bé Sen” thường được chứng kiến cảnh ông
ngoại nghiện rượu để rồi khi thì ông sinh sự, đay nghiến chửi bà, khi lại rất hiền lành âu yếm kế
biết bao nhiêu là chuyện ngày xưa... Bà ngoại vừa cam chịu, cũng vừa lắm điều nhiều lời. Và các
dì, cuộc sống quẫn bách nên cũng không còn thuần khiết như xưa, cũng cãi lại cha mẹ, cũng tình ý
với thầy giáo làng đế bị đánh ghen giữa nơi Kẻ Chợ, cũng đánh chửi con cải... Chính hoàn cảnh ấy
đã tác động sâu sắc đến nhãn quan của Tô Hoài.
Tô Hoài chỉ được học hết bậc tiểu học, rồi cũng như mọi thanh niên trai làng khác, Tô Hoài sớm
trở thành anh thợ cửi. Nhưng cảnh nhà nghèo, nghề dệt lại lụi bại dần, Tô Hoài lận đận trong mưu
kế sinh nhai. Ông phải đi kiếm sống bằng nhiều nghề: thợ cửi, bán hàng, phụ kế toán, coi kho cho
hiệu buôn giầy, dạy học và còn sống qua những ngày thất nghiệp tủi nhục không một đồng xu dính
túi. Tô Hoài vừa đi làm, vừa tự học, đọc sách báo và tập viết văn. Ông bắt đầu sự nghiệp sáng tác
của mình bằng một số bài thơ có tính chất lãng mạn, sau đó ông đã nhanh chóng chuyển sang viết
văn xuôi theo xu hướng hiện thực. Đó là một sự tự ý thức sâu sắc, tinh nhạy và từ đó ông đã gặt hái
được rất nhiều thành công.
Tô Hoài sớm giác ngộ cách mạng. Thời kì Mặt trận dân chủ, ông tham gia phong trào hội Ái hữu
thợ dệt ở Hà Đông và Thanh niên Dân chủ ở Hà Nội. Sau đó ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc,
hoạt động tuyên truyền Việt Minh, viết báo bí mật. Sau Cách mạng tháng Tám, ông làm báo Cứu
quốc, cơ quan của Tống bộ Việt Minh. Ông đi nhiều nơi: Việt Bắc, Tây Bắc... Đặc biệt Tô Hoài đi
theo bộ đội hàng tháng trời trong chiến dịch lớn, thâm nhập thực sự với quần chủng và đời sống

nhân dân. Sau khi hòa bình lập lại, ông đã trở lại miền núi để sống và viết. Tô Hoài tham gia công
tác lãnh đạo văn nghệ và gắn bó với công tác xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài làm Chủ nhiệm báo “Cứu quốc”. Ồng là một trong số
những nhà văn đầu tiên Nam tiến và tham dự một số chiến dịch ở mặt trận phía Nam (Nha Trang,
Tây Nguyên...). Năm 1946, ông được kết nạp vào Đảng.


Năm 1950, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1957 đến năm 1980, Tô Hoài
đã kinh qua nhiều chức vụ khác nhau trong Hội Nhà văn như Úy viên Đảng Đoàn, Phó Tống thư kí,
Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, Giám đốc nhà xuất bản Thiếu nhi.
2
Vào tuổi 70, 80 ông vẫn mải mê đi và viết. Tất cả những gì Tô Hoài được chứng kiến và cảm
nhận đều trở thành những tư liệu quỷ giá trong các trang viết của nhà văn. Tô Hoài vốn có khiếu
quan sát tinh quái, đến “con ruồi bay qua không lọt khỏi mắt” (Vương Trí Nhàn), do đó mọi hoàn
cảnh, mọi số phận, buồn vui, hay dở trong cuộc sống đều được nhà văn cảm nhận sâu sắc đầy tính
nhân bản. Cùng với nhu cầu thôi thúc tự bên trong, Tô Hoài còn rất say mê học tập và ham hiếu
biết. Đe tự trau dồi kiến thức cho mình, ông rất chăm chỉ đọc sách báo, ghi chép hằng ngày một
cách tỉ mỉ, chi tiết, từ giá cả sinh hoạt chợ búa, đến tiếng nhà nghề, tiếng địa phương... . Ông học
trong sách, học ngoài cuộc đời và học nhân dân, đức tính quý báu ấy đã giúp ông có được những
chất liệu phong phú cho sự nghiệp sáng tác của mình.
Có thế nói, Tô Hoài là người được chứng kiến mọi bước thăng trầm của gia đình và xã hội. Bản
thân ông cũng trải qua những vui buồn, những nhọc nhằn cay đắng, cũng được gần gũi nhiều nhà
văn có tên tuổi. Bên cạnh đó với những tố chất vốn có của mình, Tô Hoài đã đem đến cho người
đọc thế giới muôn hình, muôn vẻ của con người và cuộc sống. Đó là các yếu tố góp phần làm nên
những đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện của Tô Hoài.
Đen với con đường nghệ thuật từ cuối những năm ba mươi cho đến nay, Tô Hoài đã sáng tác được
một số lượng tác phẩm đồ sộ (hơn một trăm năm mươi đầu sách) ở nhiều thế loại khác nhau như :
tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Với những đóng góp to lớn cho nền
văn học nước nhà, vào năm 1996 ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, Tô Hoài là một nhà văn sớm bước vào đời, vào nghề văn và cũng sớm tham gia

hoạt động cách mạng. Ồng viết ở nhiều thế loại và thế loại nào ông cũng đạt được những thành
công đặc sắc. Đặc biệt là ở những tác phẩm viết về loài vật và miền núi Tây Bắc. Tô Hoài luôn có
những cố gắng tìm tòi, khám phá trong sáng tạo nghệ thuật, đó là một trong những yếu tố góp phần
làm nên sức hấp dẫn, sức sống và ỷ nghĩa lâu bền ở tác phẩm của ông đối với đời sống tinh thần
của người đọc nhiều thế hệ.
1.3.2.

Nhũng chặng đường sáng tác:
Trước Cách mạng thảng Tám
Tô Hoài đến với nghề văn ở tuổi mười bảy, mười tám. Những sáng tác đầu tay của ông được

đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy. Tuy xuất hiện ở giai đoạn cuối của thời kì 1930 1945 nhưng Tô Hoài đã sớm khẳng định được vị trí của mình trong đội ngũ nhà văn thời kì này


bằng một loạt tác phẩm độc đáo, đặc sắc như : De mèn phiêu lưu kỉ (1941), Quê người (1941), o
chuột (1942), Trăng thề (1943), Nhà nghèo (1944 )... Từ các tác phẩm này, người đọc dễ nhận thấy
sức sung mãn dồi dào trong lao động nghệ thuật của ông. Sau này,
2 Tô Hoài đã bộc bạch chân thành
qua Tự truyện về việc ông đến với nghề văn, ông viết : “Tôi vào nghề vãn có trong ngoài ba năm
trước Cách mạng thảng Tám, 1945 mà tôi viết như chạy thi được năm truyện dài, truyện vừa, ba
tập truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi như De mèn thì mấy chục truyện, cải in, cải chưa in, vương
vãi lung tung tôi không nhớ hết. Cũng chẳng có gì lạ. Viết để kiếm miếng sống lúc ấy tât phải cuốc
khỏe như vậy đấy. ”
Tác phẩm của Tô Hoài trước cách mạng có thế phân thành hai loại chính là : truyện về loài vật và
truyện về nông thôn trong cảnh đói nghèo. Qua những tmyện về loài vật tiêu biểu như : o chuột, Gã
chuột bạch, Tuổi trẻ, Đôi ghi đá, Một cuộc bế dâu, Mụ ngan, Đực..., người đọc nhận thấy, nhà văn
thường viết về cái tốt đẹp, khẳng định cái thiện trong cuộc sống, bày tỏ mong muốn một cuộc sống
hạnh phúc, bình yên trong xã hội, một cuộc sống tốt đẹp mang tính không tưởng.
Trước hết, với De Mèn phiêu lưu kỉ, tài năng nghệ thuật của Tô Hoài được bộc lộ ở nhiều phương
diện. Bằng cách quan sát, cái nhìn tinh tế về loài vật, kết họp với những nhận xét thông minh, hóm

hỉnh, nhà văn đã lôi cuốn các em vào thế giới loài vật bé nhỏ gần gũi, hấp dẫn và kì thú qua hình
ảnh của: De Mèn, De Trũi như anh em kết nghĩa vườn đào, sẵn sàng quên mình vì bạn, vì nghĩa
lớn. Xiến Tóc trầm lặng, vừa yêu đời vừa chán đời. Chị Cào Cào ồn ào và duyên dáng. Bọ Ngựa
kiêu căng, ngạo mạn. Cóc huênh hoang, dở hơi. Ếch thông thái giả. Anh chàng Kỉm Kìm Kim hèn
đớn. Cậu công tử bột Chim Chả Non có mẽ mà đầu óc lại rỗng tuếch,... Từ đời sống và tích cách
của từng con vật, nhà văn nhằm bày tở quan niệm của mình về nhân sinh, về khát vọng chính đáng
của người lao động, về một cuộc sống hòa bình, yên vui, về tình thương, lòng chân thành và sự
đoàn kết. Bởi thế câu chuyện về chú De Mèn không chỉ có ý nghĩa dành cho trẻ em, mà còn cả cho
người lớn và cho cả xã hội. Nó thực sự mang giá trị lâu bền trong đời sống tinh thần của con người,
cũng vì thế, dù ở đâu và ở thời kì nào, người đọc vẫn tìm thấy bao điều thú vị, bao bài học ý nghĩa
từ tác phẩm này. Sau này, Tô Hoài tâm sự: “Cách hiếu thế giới đại đồng của De Mèn, De Trũi, Xi
en Tóc... là cách hiếu chủ nghĩa cộng sản của tôi với vẻ đẹp và cả cải trống rông thiếu sót trong
suy nghĩ của tôi. ”
Viết về loài vật, Tô Hoài đã dành khá nhiều trang để thể hiện chân thật, sinh động họ nhà chuột.
Các chủng loại chuột như : chuột nhắt, chuột cống, chuột cộc, chuột bạch, chuột xù..., xuất hiện
trong các tác phẩm của ông với những đặc điểm, thói quen riêng và cả những mối quan hệ của
chúng. Trong số những truyện viết về chuột thì truyện Gã chuột bạch đã để lại cho người đọc bao


điều suv nghĩ. Cuộc sống của vợ chồng chuột bạch là “vẩn vơ tìm những hạt gạo tẻ mà người ta rắc
vào một cái đĩa ở đáy lồng”, là “đánh vòng”, dựa vào lồng “ngủ đứng”. Ngay cả khi có dịp ra khỏi
lồng chúng vẫn không lấy gì làm thích thú mà “ngơ ngác nhìn 2quanh quẩn. Như là họ hít phải cái
không khí lạ. Như là họ hít phải cái không khí lạ. Như là họ chang quen bò giữa nơi thoáng đãng.
Và họ lại nối đuôi nhau , tha thẩn, tù' từ bò vào, cũng như lúc bò ra”. Có thế nói, qua cảnh sống của
vợ chồng chuột bạch, Tô Hoài đã phê phán cách sống nhàm chán, buồn tẻ và vô vị, cũng như tâm lí
chấp nhận, lệ thuộc của một lớp người trong xã hội, đồng thời muốn thức tỉnh những ai đang lâm
vào cảnh sống đó.
Nhiều loài vật khác qua cách miêu tả của Tô Hoài tạo cho người đọc dấu ấn lâu bền. Đó là gã mèo
mưóp “lừ đừ nghiêm nghị tựa một thầy dòng, trên mình có khoác bộ áo thâm. Hắn có cái cốt cách
quý phái và trưởng giả. Lúc nào cũng nghĩ ngợi như sắp mưu toan một việc gì ghê gớm lắm”. Đó là

cậu gà trống gi “bé nhở sống côi cút một thân, một mình” thuở nhỏ, nhưng khi lớn lại có “bộ mặt
khinh khỉnh ta đây” và cũng rất đa tình, “có tật mê gái, như cái tính chung của loài gà - cả của loài
người - khi mới lớn lên”, bỏ nhà ra đi vì ái tình, hay dễ quên đi ái tình cũ để “lần mò đi tìm một vài
ái tình khác”. Với chàng gà chọi “nhất sinh chỉ có một nghề đi đánh lẫn nhau cho người ta xem”,
“lúc nào cũng chỉ ngứa ngáy chân tay”, quả không đủ chữ nghĩa để “tả cái oai lẫm liệt của chàng”.
Chàng ta không thiết gì đến con cái, trong đầu “chỉ đen những ý tình ma chuột”, hay “đi ve gái”,
thế mà khi Một cuộc bế dâu xuất hiện, họ nhà gà chết dần, chết mòn, chàng gà chọi dù anh hùng,
lẫm liệt nhưng rồi cũng “tắc thở” đế lại “một mình chị mái già, ra lại vào, ngẩn ngơ”. Với vợ chồng
Đôi gi đá “tựa vợ chồng quê mới rủ nhau lên tỉnh. Họ lờ khờ, ngẩn ngơ, xấu xí - nghĩa là đặc nhà
quê”. Chúng cần mẫn xây tổ ấm, sống hạnh phúc, “bình lặng, chịu khó, ít ồn ã”, chờ ngày đẻ trứng,
chờ ngày trứng nở, chờ những đứa con lớn lên từng ngày... Thế rồi, Tet đến, tiếng pháo no đón
xuân về vô tình đã làm tan tác gia đình chúng. Nghe tiếng pháo “kinh khủng nổ vang động trong
cây, cả nhà cuống cuồng bay đi”. Cuộc sống của đôi vợ chồng chim gi đá rồi sè như thế nào trong
cảnh tan tác đó đã khiến cho người đọc phải ngậm ngùi, xót xa.
Bên cạnh truyện viết về loài vật, mảng truyện viết về cảnh sống đói nghèo cũng được nhà văn
đã miêu tả chân thật và sinh động. Cuộc sống cùng quẫn bế tắc của những kiếp người nghèo khố,
lang thang, phiêu bạt nơi đất khách quê người, những người thợ thủ công bị phá sản xuất hiện dần
qua tùng trang sách với tất cả niềm cảm thông chân thành của nhà văn. Đó là thân phận của bà lão
vối trong truyện Mẹ già buộc lòng nhẫn nhục sống nương nhờ vào con. Chỉ vì một con lợn sống
chuồng mà bà bị chính con gái mình chửi rủa chì chiết đủ điều. Với cách nghĩ của con gái bà thì bà
chẳng khác gì người đi ở mướn, chị ta đã quát : “Thế tôi nuôi bà đế làm gì mà bà lại không trông


được con lợn?”, thậm chí, không cho bà ngủ ở nhà trên mà đuổi bà xuống bếp nằm ngủ ở đống
rơm. Sáng ngày hôm sau cả nhà ăn uống nhưng hình như họ đã quên là có bà hiện diện trong cuộc
sống của gia đình mình. Đó là số phận của chị Hối trong truyện
2 Ông cúm bà co, bị ốm nhưng
không có thuốc men chữa chạy, rồi bệnh nặng dần vì kém hiểu biết, mê tín, kết cục phải “ra đồng”
bỏ lại mấy đứa con thơ dại. Đó còn là tấn bi kịch của anh Gà Gáy trong truyện ngắn cùng tên. Từ
đâu lưu lạc tới không ai rõ, chịu khó làm ăn cho đến khi có một “gia đình nho nhỏ, đề huề sống yên

vui” ... Thế nhưng, vì cơn ghen vô cớ của anh khiến người vợ bở đi biệt tích. Đứa con, niềm an ủi
duy nhất đối với anh ngã bệnh, hết tiền chạy chữa, trong lúc khốn cùng đành liều đi ăn trộm đế rồi
bị bắt, cùng lúc đó đứa con cũng chết. Từ đó “Gà Gáy sống còm cõi một mình”. Cay đắng hơn là số
phận của bé Gái trong cảnh Nhà nghèo. Nó sinh ra trong gia đình nghèo khổ, túng thiếu và nhiều
lần chứng kiến cảnh cha mẹ cãi nhau. Nó bị rắn cắn chết trong khi cùng với cha mẹ cố tìm miếng
ăn cho gia đình, “người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ hết ra cả”. Cảnh đó thật xót xa, thê thảm.
Còn biết bao những cảnh đời khác như cảnh Hương Cay trốn nợ trong Khách nợ, cảnh xung đột
của gia đình anh Hối trong Buổi chiều ở trong nhà, cảnh tình duyên của cô Lụa trong Lụa,... Tất cả
cảnh đời của họ đều gợi cho người đọc bao điều suy ngẫm và nỗi trăn trở về hiện thực cuộc sống
nhiều bất hạnh đó.
Đáng chú ý ở thời kì này, Tô Hoài cũng có những khát vọng thoát khỏi bế tắc, thoát khỏi cuộc
sống nhàm chán buồn tẻ và vô vị, hay ước mơ của môt chàng trai về “một trận mưa rào cho lòng
người hả hê và cho trời quang đãng” và hãy cất bước vào một buổi mai, nhắm về phía “chân trời
mới đỏ thắm màu hi vọng”, mặc dù vì nghèo nên anh không lấy được người mình yêu. “Sự nghiệp
anh không có”, “nhà anh thanh bạch quá”, “bấy nay anh chỉ có một tấm lòng”(Xóm Giếng ngày
xưa).
Tóm lại, trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đã có khi bế tắc trước cuộc đời nhưng cuối
cùng nhà văn vẫn đứng vũng ở vị trí của một nhà văn hiện thực. Tâm hồn của Tô Hoài bao giờ cũng
có được vẻ đẹp trong sáng, đáng trân trọng trong cảnh đời đen tối thời kì này. Ờ đề tài nào và đối
tượng khám phá nào, thế giới nghệ thuật của Tô Hoài trước cách mạng đều thấm đượm tính nhân
văn và mang dấu ấn khá sâu đậm về một quãng đời của ông. Ồng quan niệm Những sáng tác của tôi
đều miêu tả tâm trạng tôi, gia đình tôi, làng tôi, mọi cái của mình quanh mình. Những nghèo đói,
cùng túng, đau đớn. Phần nào nhẹ nhàng hay xót xa, hay nghịch ngợm và đá chút khinh bạc là phần
nào con người và tư tưởng tiểu tư sản của tôi.” (Một quãng đường)
Sau Cách mạng tháng Tám


×