Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

skkn day tư hoc chinh thuc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.56 KB, 26 trang )

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN DẠY QUA VIỆC HƯỚNG
DẪN TỰ HỌC CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG THCS
QUẢNG CHÂU
PhÇn thø nhÊt : Më ®Çu
1.Lý do chọn đề tài
Vấn đề tự học tự đào tạo của người học đã được Đảng, Nhà nước quan tâm quán
triệt sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị quyết Trung ương V khóa 8 từng nêu rõ: “
Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng
tạo của học sinh, Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, phát
triển mạnh mẽ phong trao tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong
toàn dân”.
Trên tinh thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự học, tự đào tạo là vấn đề mấu chốt có
vị trí cực kì quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo của đất nước. Trong
khuôn khổ bài viết này tôi muốn tập trung đề cập những vấn đề liên quan đến
khái niệm tự học, nội dung hoạt động tự học, các hình thức dạy tự học, đặc biệt
là quan tâm đến các biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh . Để từ đó
thúc đẩy quá trình rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh, góp phần vào công
cuộc đổi mới phương pháp dạy học, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo
của nhà trường.
Như vậy, năng lực tự học của học sinh vừa là yêu cầu, vừa là điều kiện để
nâng cao chất lượng đào tạo. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa
học, có chất lượng, hiệu quả là trách nhiệm của giáo viên, học sinh và toàn bộ
lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của tự học, trong những năm qua nhà trường
luôn quan tâm đến quản lý hoạt động tự học của học sinh. Tuy nhiên, chất
lượng tự học của học sinh còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng
cao của xã hội . Nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng đầu vào thấp, học sinh
chưa có kỹ năng và phương pháp học tập khoa học, hợp lý. Trong khi đó, việc
đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên còn chậm, chủ yếu vẫn là truyền
thụ kiến thức trong chương trình, chưa tập trung nhiều đến đổi mới phương
1




pháp dạy học. Công tác quản lý hoạt động tự học chủ yếu vẫn là quản lý hành
chính, chưa thực sự có hình thức tổ chức và biện pháp quản lý phù hợp. Từ
những tồn tại trên, việc tìm ra các biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng
tự học của học sinh nhà trường là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối với trường
THCS Quảng Châu trong giai đoạn hiện nay. Do đó tôi chọn đề tài: " NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG MÔN DẠY QUA VIỆC HƯỚNG DẪN PP TỰ HỌC CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG
THCS ”

PhÇn thø hai : Néi dung nghiªn cøu
1. Thùc tr¹ng (vÊn ®Ò nghiªn cøu)
1.1.Những vấn đề lý luận về tự học.
"Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực
tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm
ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức
của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của bản thân
chủ thể". [35]
"Tự học là công việc tự giác của mỗi người do nhận thức được đúng đắn vai
trò quyết định của nó đến sự tích lũy kiến thức cho bản thân, cho chất lượng
công việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ xã hội". [17, tr.1]
Những quan điểm trên về tự học tuy khác nhau, nhưng đều chung bản chất đó
là sự tự giác và kiên trì cao; sự tích cực, độc lập và sáng tạo của người học
trong học tập. Do đó, có thể khái quát chung: Tự học là hoạt động độc lập, chủ
yếu mang tính cá nhân của người học trong quá trình nhận thức, học tập để cải
biến nhân cách, nó vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của quá trình đào tạo.
Hoạt động tự học được coi là hoạt động có tổ chức của người học, diễn ra dưới
các dạng khác nhau:
- Tự học diễn ra dưới sự điều khiển trực tiếp của người dạy và những phương
tiện kỹ thuật trên lớp, trong đó người học phát huy hết những năng lực, phẩm

chất như nghe giảng, ghi chép bài, phân tích, khái quát hoá .v.v. để tiếp thu
những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà người dạy định hướng cho.
Ở dạng tự học này giáo viên đóng vai trò chủ đạo, do đó thông qua việc thiết
2


kế bài giảng, giáo viên phải tạo điều kiện phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh.
- Tự học diễn ra dưới sự điều khiển gián tiếp của người dạy, lúc này người học
phải tự sắp xếp thời gian, điều kiện cơ sở vật chất để tự học, tự củng cố, tự đào
sâu những tri thức hoặc tự hình thành những kỹ năng, kỹ xảo theo yêu cầu của
nội dung đã được hướng dẫn.
Đây là dạng tự học diễn ra ngoài giờ lên lớp dưới sự quản lý của các lực lượng
giáo dục trong và ngoài nhà trường. Các lực lượng trong nhà trường chủ yếu
đóng vai trò gián tiếp thông qua yêu cầu các nội dung tự học, còn lực lượng
trực tiếp quản lý hình thức tự học này chính là xã hội và gia đình học sinh.
- Tự học độc lập nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết riêng, mở rộng tri thức ở
bên ngoài. Đây là dạng tự học ở mức độ cao nhất, đòi hỏi tính tự giác cao của
người học nên biện pháp quản lý tốt nhất là quản lý nhiệm vụ học tập hay sản
phẩm người học hoàn thành.
Như vậy, phạm vi của tự học là rất rộng, đề tài không nghiên cứu các biện
pháp quản lý dạng hoạt động tự học độc lập của học sinh mà chỉ tập trung
nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trong và
ngoài thời gian lên lớp, dưới sự tổ chức của nhà trường thông qua sự điều
khiển trực tiếp hay gián tiếp của giáo viên.
Vị trí vai trò của tự học: đánh giá về vai trò, tầm quan trọng của tự học, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Về cách học tập phải lấy tự học làm cốt”.
Quá trình tự học như thế có thể hiểu là sự chuyển hoá quá trình giáo dục thành
quá trình tự giáo dục, là sự biến đổi bản thân trở nên có thêm giá trị bằng nỗ lực
của chính mình để chiếm lấy giá trị bên ngoài, là một hành trình nội tại được

“cắm mốc” bởi kiến thức, phương pháp tư duy và thực hiện tự phê bình để tự
hiểu bản thân mình.
Các lý luận trên không có nghĩa là xem nhẹ vai trò, trách nhiệm của giáo viên
trong quá trình dạy học mà giáo viên đóng vai trò chủ đạo, kích thích, động
viên, dẫn đường cho học sinh học tập có hiệu quả và đúng cách. Thông qua tự
học giúp học sinh nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và nghề nghiệp trong
3


tương lai; giúp học sinh không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập
khi còn học trong trường, đồng thời giúp học sinh rèn luyện nhân cách, hình
thành nền nếp làm việc khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức kiên trì, óc
phê phán và hứng thú học tập; không ngừng làm phong phú, hoàn thiện thêm
vốn hiểu biết của mình, giúp họ tránh được lạc hậu trước sự “bùng nổ thông tin”
trong thời đại hiện nay.
Tự học đối với học sinh còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm giúp các em
rèn luyện thói quen lao động trí óc, khả năng suy nghĩ, phán đoán độc lập, rèn
luyện phẩm chất tự giác, tự giáo dục, ý thức chấp hành nội quy, kỷ luật của nhà
trường , xây dựng thái độ, đạo đức của người học sinh ,kỹ năng tự hoàn thiện
bản thân để có thể vận dụng linh hoạt trong thực tiễn sau này.
Từ những phân tích trên có thể thấy tự học đóng vai trò quyết định đến sự hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh, bởi nhân cách người học sinh chính
là phẩm chất và năng lực được hình thành và phát triển trong quá trình đào tạo
tại nhà trường phổ thông.
Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học.
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự
học. Trong quá trình hoạt động dạy học (DH) giáo viên (GV) không chỉ dừng lại
ở việc truyền thụ những tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu học sinh ghi nhớ mà
quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho học sinh tự mình khám phá ra
những qui luật, thuộc tính mới của các vấn đề khoa học. Giúp học sinh không chỉ

nắm bắt được tri thức mà còn biết cách tìm đến những tri thức ấy. Thực tiễn cũng
như phương pháp dạy học hiện đại còn xác định rõ: càng học lên cao thì tự học
càng cần được coi trọng, nói tới phương pháp dạy học thì cốt lõi chính là dạy tự
học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học.
Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh
mẽ cho quá trình học tập.
Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự
chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Đó là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của giáo dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo
4


dục mới mong đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với
mọi thị trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực
(hình thành từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân
cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu
hiện sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân người học trong quá trình
nhận thức thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho
mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú người học mới có được sự tự giác say
mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích
cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu nhiên giữa
hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập.
Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để
khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích
ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học
mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp
nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả
những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người
học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã
học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày

càng được nâng cao. Với những lí do nêu trên có thể nhận thấy, nếu xây dựng
được phương pháp tự học, đặc biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng tạo
sẽ khơi dậy năng lực tiềm tàng, tạo ra động lực nội sinh to lớn cho người học.
1.2 Thùc tr¹ng (vÊn ®Ò nghiªn cøu)
Cách dạy của giáo viên .Trong thực tế dạy học hiện nay việc áp dụng phương
pháp dạy học hướng dẫn học sinh tự học của giáo viên ở tất cả các môn học nói
chung còn gặp rất nhiều lúng túng và khó khăn. Cách học của học sinh vẫn đơn
giản là cố gắng hoàn thành hết số bài tập GV giao về nhà (bằng mọi cách có
thể), và học thuộc trong vở ghi đối với các môn học thuộc. Đối với giáo viên thì
chỉ quen thuộc với cách kiểm tra bài cũ đầu giờ cốt sao cho đủ số lần điểm
miệng. Việc kiểm tra định kỳ chỉ đơn giản là thực hiện theo phân phối chương
5


trỡnh, trc khi kim tra s gii hn cho hc sinh mt phn kin thc..

a s giỏo viờn thng quan nim kin thc l mc ớch ca quỏ trỡnh dy hc
nờn ch quan tõm n phng phỏp truyn th kin thc ca bi ỳng vi ni
dung

SGK.

Mt s giỏo viờn cha cú k nng son bi, vn ỏp dng mt cỏch rp khuụn,
mỏy múc li dy hc "truyn thng" ch yu gio thớch, minh ho tỏi hin, lit kờ
kin thc theo SGK l chớnh, ớt s dng cõu hi tỡm tũi, tỡnh hung cú vn
coi nh rốn luyn thao tỏc t duy, nng lc thc hnh, ớt s dng cỏc phng tin
dy hc nht l cỏc phng tin trc quan dy hc v t chc cho hc sinh
nghiờn cu tho lun trờn c s ú tỡm ra kin thc v con ng chim lnh
kin


thc

ca

hc

sinh.

Thc t, giỏo viờn thng son bi bng cỏch sao chộp li SGK hay t thit k
bi ging, khụng dỏm khai thỏc sõu kin thc, cha sỏt vi ni dung chng
trỡnh, hng dn hc sinh vn dng kin thc gii quyt nhng vn t nh n
ln trong thc t i sng v sn xut. Khi dy thng nng v thụng bỏo, khụng
t chc hot ng hc tp cho cỏc em, khụng d kin c cỏc bin phỏp hot
ng,

khụng

hng

dn

c

phng

phỏp

t

hc.


Mt khỏc, phng phỏp dy hc ph bin hin nay vn theo "li mũn", giỏo viờn
truyn t kin thc, hc sinh th ng lnh hi tri thc. Thm chớ cú giỏo viờn
cũn c hay ghi phn ln ni dung lờn bng cho hc sinh chộp ni dung SGK.
Vic s dng cỏc phng tin dy hc: phiu hc tp, tranh nh, bng hỡnh, bn
trong ch dựng khi thi giỏo viờn hay cú on thanh tra, kim tra n d, cũn
cỏc

tit

hc

thụng

thng

hu

nh

"dy

chay"..
Do vic truyn t kin thc ca giỏo viờn theo li th ng nờn rốn luyn k
nng t hc cng nh vic hng dn t hc ca giỏo viờn cho hc sinh khụng
c chỳ ý lm cho cht lng gi dy khụng cao.
Những năm gần đây, số giáo viên cao tuổi thờng giảng dạy dựa vào kinh
nghiệm là chính, việc tự học ít. Số giáo viên có trình độ đào tạo chuẩn lại phải
6



dạy kiêm nhiệm những môn trái ban, do đó gặp nhiều khó khăn trong việc truyền
thụ kiến thức một cách sâu rộng. Một phần không nhỏ giáo viên chỉ truyền thụ
kiến thức sách vở, việc mở rộng nâng cao kiến thức cho học sinh còn hạn hẹp,
làm cho bài giảng thiếu sinh động, khô khan, trong khi yêu cầu bài giảng cần sự
hiểu biết kiến thức sách vở và kiến thức thực tế cuộc sống và sự phát triển xã
hội.Việc sử dụng lối mòn kiến thức, sự hiểu biết thông tin và sức ỳ quá lớn trong
việc câu nệ vào SGK, sao chép giáo án cũ, kiến thức bất cập làm cho bài giảng
đơn điệu, kém tính thuyết phục.
Thực trạng việc tự học, tự bồi dỡng của giáo viên còn sơ sài, hạn chế và
đơn điệu. Nhiều giáo viên cho rằng chỉ cần tham gia các lớp học bồi dỡng do
Phòng Giáo dục tổ chức là đủ .Việc tự học, nâng cao kiến thức, cập nhật thông
tin, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ chỉ thể hiện ở một bộ phận nhỏ giáo viên
thực sự say mê với nghề. Việc dự giờ, đánh giá và đúc rút kinh nghiệm nhiều khi
còn nặng tính hình thức hoăc cốt dự cho đủ số giờ quy định, còn việc dự giờ
nhằm đóng góp cho bạn và rút ra bài học cho mình thì còn khá thờ ơ. Bên cạnh
đó, việc chủ động tìm kiếm các thông tin trong sách báo, tài liệu tham khảo
nhằm bổ xung cho bài dạy còn rất hạn chế. Đôi lúc, việc nghiên cứu, chuẩn bị
cho bài giảng còn cha thực sự nghiêm túc ở một số bộ phận giáo viên.
Việc đổi mới phơng pháp dạy học còn mang nặng tính hình thức, gò bó, gợng ép.
Nhiều khi chỉ thực sự thể hiện khi có giờ dự, giờ thanh tra, kiểm tra.
Việc sử dụng TBDH thiếu thờng xuyên và hớng dẫn học sinh sử dụng đồ dụng
TBDH còn lúng túng , thiếu tự tin và hiệu quả thấp.
Thc trng hc ca hc sinh:
Mt b phn hc sinh .Vn n gin l c gng hon thnh ht s bi tp GV
giao v nh (bng mi cỏch cú th), v hc thuc trong v ghi i vi cỏc mụn
hc thuc . Qua quỏ trỡnh giỏo dc, tụi nhn thy rng a s cỏc hc sinh
yu kộm l nhng hc sinh cỏ bit, vo lp khụng chu chỳ ý chuyờn tõm
vo vic hc, v nh thỡ khụng xem bi, khụng chun b bi, c n gi hc
thỡ cp sỏch n trng, nhiu khi hc sinh cũn khụng bit ngy ú hc

7


môn gì, vào lớp thì không chép bài vì lí do là không có đem đồ dùng tập
học của môn đó.
Còn một bộ phận không ít học sinh thì không xác định được mục đích của việc
học, học để có điều kiện đi chơi, đến lớp thì lo chọc phá bạn bè, gọi đến thì
không biết trả lời, đang giờ học thì xin ra ngoài để chơi. Học sinh chưa tự giác
học, chưa có động cơ học tập, chưa có quyết tâm học tập .Nhiều học sinh đuối
sức trong học tập, không theo kịp các bạn (thiếu kiến thức, kỹ năng, khả năng để
học tập lớp đang học, sinh ra chán học, sợ học .
-

Học sinh không có thời gian cho việc tự học: Với một vùng nông

thôn nghèo, đa số người dân sống bằng nghề làm ăn xa để kiếm sống. Tuy
nhiên, các bậc phụ huynh cứ nghĩ học sinh đến trường, học những gì giáo
viên giảng là đủ rồi mà còn chưa chú ý đến vấn đề tự học của học sinh.
Một số bộ phận học sinh thì cha mẹ đi làm, phải làm công việc nhà, chăm
sóc em nhỏ… Một số học sinh đi học thất thường, ham chơi, la cà quán xá .Học
sinh chưa có phương pháp học tập khoa học, hầu hết là học thụ động, lệ thuộc
vào các loại sách bài giải (chép bài tập vào vở nhưng không hiểu gì cả ), học
vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức, trong thi cử thì quay cóp và tài
liệu .Học sinh yếu không chịu đi học phụ đạo
-

Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể phủ

nhận, với chương trình học tập hiện nay, để có thể học tốt, đặc biệt là các môn
như Toán, Văn, Anh văn… để việc học tập có kết quả đòi hỏi trước đó học sinh

phải vốn kiến thức nhất định. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều học sinh đã không có
được những vốn kiến thức cơ bản ngay từ lớp nhỏ, từ đó càng lên các lớp lớn
hơn, học những kiến thức mới có liên quan đến những kiến thức cũ thì học sinh
đã quên hết cho nên việc tiếp thu kiến thức mới trở thành điều rất khó khăn đối
với các em.
-

Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn

trong học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin. Khả năng
8


chỳ ý v tp trung vo bi ging ca giỏo viờn khụng bn, li suy ngh, cũn
trụng ch thy cụ gii giỳp, trỡnh t duy, vn kin thc c bn lp di cũn
hn ch . c chm, c sai, vit chm, vit sai c bit l mụn ngoi ng
.Khụng bit lm tớnh, yu cỏc k nng tớnh toỏn c bn, cn thit ..
-

Việc học của hs còn nặng đối phó, học vẹt ( Kiểm tra thì học không thì

thôi , thậm chí nhiều hiện tợng trốn học để chơi trò điện tử ). Văn hoá "mạng"
đang là nỗi băn khoăn của nhiều bậc phụ huynh và xã hội (Những bài học kinh
nghiệm hiệu quả Góc học tập, Nhóm học tập , bạn đi về và khẩu hiệu Đi
truy về trao sáng xào ,tôí học Xõy dng k hoch hc tp không đợc kế
thừa , phát huy trong điều kiện mớí ),
2. Những giải pháp.
2.1.Đổi mới phơng pháp dạy học.( Theo tinh thần giờ dạy giỏi là giờ hớng dẫn
học sinh tự học tốt nhất ).
-. i mi v quan nim ,nhn thc cho cỏn b GV v ỏp dng cỏc PPDH mi

nõng cao hiu qu hiu qu dy hc.Tng cng duy trỡ t l thớch hp vic
sinh hot cỏ nhõn, sinh hot nhúm gia tit hc chớnh khúa vi tit hc thờm
bui chiu bi dng hc sinh gii v ph o hc sinh yu kộm. Tổ chuyên
môn phối hợp với đoàn đội tổ chức câu lạc bộ môn học, Nhà tờng chỉ đạo
đoàn đội phối kết hợp đoàn địa phơng thăm và kiểm tra gúc hc tp việc tự
học ở nhà của học sinh . Phối hợp với ban văn hóa xã xây dựng nề nếp thói
quen tự học buổi tối ở nhà thông qua tiếng loa chất lợng.
-Tng cng cỏc TB dy hc mua sm thờm TB mi . Nõng cao nng lc s
dng TB cho GV theo c trng tng b mụn.
-i mi KTG theo hng gim thiu kim tra vic thuc lũng kin thc
,tng cng kim tra k nng vn dng kin thc trong cỏc tỡnh hung thc tin.
2.2.1.Xõy dng ng c hc tp.
- T chc hi tho mi lp vi ni dung: Xỏc nh mc ớch ụng c hc tp
v ph bin kinh nghim hc tp. ng c hc tp phi tr li cõu hi hc
9


làm gì ? ( Đó là : Học để để ngày mai lập thân lập nghiệp và vì trách nhiệm báo
đáp với cha mẹ gia đình và phục vụ quê hương đất nước hoặc Học để biết, học
để làm, học để chung sống với người khác và học để khẳng định mình – đó là 4
trụ cột của UNETCO Tổ chức giáo dục thế giới xác định cho giáo dục trong thế
kỷ 21 )
- Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý thức tốt về nhu cầu học tập.
Người học tự xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn là việc cần làm đầu
tiên. Bởi vì, thành công không bao giờ là kết quả của một quá trình ngẫu hứng
tùy tiện thiếu tính toán. Nhu cầu xã hội và thị trường lao động hiện tại đặt ra cho
mỗi người những tố chất cần thiết chứ không phải là những điểm số đẹp, những
tờ giấy khen như vật trang sức vào đời mà không có thực lực vì động cơ học tập
lệch lạc. Có động cơ học tập tốt khiến cho người ta luôn tự giác say mê, học tập
với những mục tiêu cụ thể rõ ràng với một niềm vui sáng tạo bất tận.

Trong rất nhiều động cơ học tập của học sinh, có thể khuôn tách thành hai nhóm
cơ bản:
- Các động cơ hứng thú nhận thức.
- Các động cơ trách nhiệm trong học tập.
Thông thường các động cơ hứng thú nhận thức hình thành và đến được với
người học một cách tự nhiên khi bài học có nội dung mới lạ, thú vị, bất ngờ,
động và chứa nhiều những yếu tố nghịch lí, gợi sự tò mò. Động cơ này sẽ xuất
hiện thường xuyên khi GV biết tăng cường tổ chức các trò chơi nhận thức, các
cuộc thảo luận hay các biện pháp kích thích tính tự giác tích cực từ người học. vi
du………………………..
Động cơ nhiệm vụ và trách nhiệm thì bắt buộc người học phải liên hệ với ý thức
về ý nghĩa xã hội của sự học. Giống như nghĩa vụ , trách nhiệm đối với gia đình,
thầy cô, uy tín danh dự trước bạn bè…Từ đó các em mới có ý thức kỉ luật trong
học tập, nghiêm túc tự giác thực hiện mọi nhiệm vụ học tập, những yêu cầu từ
GV, phụ huynh, tôn trọng mọi qui định của nhà trường và sự điều chỉnh của tập
thể.

10


Cả hai động cơ trên không phải là một quá trình hình thành tự phát, cũng
chẳng được đem lại từ bên ngoài mà nó hình thành và phát triển một cách tự giác
thầm lặng từ bên trong. Do vậy người GV phải tùy đặc điểm môn học, tùy đặc
điểm tâm sinh lí lứa tuổi của đối tượng để tìm ra những biện pháp thích hợp
nhằm khơi dây hứng thú học tập và năng lực tiềm tàng nơi học sinh. Và, điều
quan trọng hơn là tạo mọi điều kiện để các em tự kích thích động cơ học tập của
mình.
Đối với phần đông những người trẻ, việc tạm gác những thú vui, những trò giải
trí hấp dẫn nhất thời để toàn tâm toàn sức cho việc học là hai điều có ranh giới vô
cùng mỏng manh. Nó đòi hỏi sự quyết tâm cao và một ý chí mạnh mẽ cùng nghi

lực đủ để chiến thắng chính bản thân mình. Đối với người trưởng thành, khi mục
đích cuộc đời đã rõ, ý thức trách nhiệm đối với công việc đã được xác định và sự
học đã trở thành niềm vui thì việc xác định động cơ thái độ học tập nói chung
không khó khăn như thế hệ trẻ. Tuy nhiên không phải là hoàn toàn không có. Vì
suy cho cùng ai cũng có những nhu cầu riêng và từ đó có những hứng thú khác
nhau. Vấn đề là phải biết kết hợp biện chứng giữa nội sinh và ngoại lực, tức là
hứng thú nhận thức, hứng thú trách nhiệm được đánh thức, khơi dậy trên cơ sở
những điều kiện tốt từ bên ngoài. Trong đó người thầy đóng vai trò chủ đạo.
2.2.2./ Xây dựng kế hoạch học tập
Đối với bất kì ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ
và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải
được xác định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm
chí từng môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời
điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình.
Nếu việc học dàn trải thiếu tập trung thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau
khi đã xác định được trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách hợp lí logic
về cả nội dung lẫn thời gian,. Điều đó sẽ giúp quá trình tiến hành việc học được
trôi chảy thuận lợi.
2.3. Dạy phương pháp tự học cho học sinh
2.3.1. Tự mình nắm vững nội dung tri thức
11


Trên lớp học, phải biết chú ý lắng nghe lời thầy giảng, tập trung tư tưởng theo
dõi một cách không thụ động , biết đề xuất những thắc mắc, những chỗ chưa
hiểu được rõ để thầy giải đáp, cùng với người thầy xây dựng bài giảng. Thầy chú
ý phát huy năng lực trí tuệ của trò, trò biết tự phát huy để hưởng ứng.Trò là chủ
thể là thế, trò không phải nhân vật thụ động, tiếp thu máy móc. Kinh nghiệm của
các


học

sinh

giỏi

……………

……………………………………………………... Nếu nói bí quyết để học giỏi
cũng bắt đầu từ đây. Chúng ta thường thấy có những học sinh, con nhà nghèo về
nhà thường phải làm việc giúp đỡ gia đình nhưng vẫn học giỏi, chính là đã biết
cách học như trên , họ đã hiểu bài, thuộc bài ngay tại lớp. Đã từ lâu, các thầy
giáo giảng dạy có kinh nghiệm cũng đã đề ra phương pháp dạy và học đạt yêu
cầu này.
Thời gian tự học ở nhà cũng rất quan trọng, đây là lúc học sinh có nhiều thời giờ
suy ngẫm, đào sâu vấn đề, tiếp tục đề xuất những thắc mắc để thầy giải đáp, suy
nghĩ liên hệ hoặc vận dụng vào thực tế. Đây cũng là cách để tri thức khắc sâu
trong bộ óc, khó bị quên lãng và trở thành hữu ích, là cách học kết hợp với hành
mà Bác Hồ luôn luôn nhắc nhở. Việc học ở nhà còn phải làm tốt việc chuẩn bị
trước theo yêu cầu của từng bài giảng. Những học sinh xuất sắc thường phải học
theo

hướng

này

……………




……………………………………………………….. Những em nhà nghèo học
giỏi phải tranh thủ thời gian và cách học này đã giúp các em thành công. Trong
việc đẩy mạnh phương pháp tự học ,cũng cần chú ý đến sự tương trợ, giúp đỡ
nhau trong học tập tức là vấn đề “học thầy không tày học bạn” như ông cha ta đã
từng đúc kết. Vấn đề này trước đây nhiều trường đã làm có kết quả tốt. Trường
THCS Quảng Châu đã tổ chức cho học sinh học theo nhóm, bố trí học sinh giỏi
kèm học sinh yếu. Phòng giáo dục Quảng xương trong những năm qua , từ giữa
tháng 11/06 đã yêu cầu giáo viên giỏi phụ đạo, tổ chức học sinh giỏi kèm học
sinh yếu. Kết quả kết thúc học kỳ một, số học sinh yếu môn toán giảm 4,5%, số
học sinh yếu môn tiếng Việt giảm 3,1% so với đầu năm (Qua báo cáo tông kết
năm học ngày 2/6/07). Đây là một cách phát động quần chúng học sinh cùng
12


chung sức với thầy giáo và nhà trường giải quyết vấn đề chất lượng. Học sinh
kém học bạn, hỏi bạn cũng dễ dàng, thoải mái hơn do đó dễ tiến bộ. Học sinh
giỏi giúp đỡ bạn thì tự mình cũng giỏi thêm. Mặt khác tinh thần đoàn kết trong
lớp học cũng được tăng tiến. Ta không sợ sự tiêu cực, học thì ít, đàm đúm, chơi
bời thì nhiều hoặc tụ tập để chép bài của nhau, một khi có sự theo dõi, chỉ đạo
chặt chẽ. Những cách học trên, tưởng như không có gì mới nhưng thực ra vẫn xa
lạ và khó thực hiện với không ít học sinh hiện nay. ở trong lớp, những học sinh
này thường không tập trung nghe giảng, hiểu bài lơ mơ, có em nghịch ngợm
hoặc hay nói chuyện, ít tham gia vào việc xây dựng bài.. Bố mẹ lo cho con, phải
cho con đi học thêm, thành tràn lan, có em tiến bộ nhiều, nếu biết hối cải, có em
tiến bộ chẳng là bao.
Thay đổi phương pháp học của học sinh đòi hỏi sự nỗ lực, tâm huyết của giáo
viên và nhà trường và phải xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho các em, thì
học mới say mê, thay đổi phương pháp dạy và kiểm tra của giáo viên nhất là đổi
mới vấn đề thi cử, ra đề của các cấp có thẩm quyền vì người ta thưòng nói: dạy
học, thi cử như thế nào thì học sinh học như thế. Khối lượng kiến thức và các kĩ

năng được hình thành nhanh hay chậm, nắm bắt vấn đề nông hay sâu, rộng hay
hẹp, có bề vững không… tùy thuộc vào nội lực của chính bản thân người học
trong bước mang tính đột phá này. Nó bao gồm các hoạt động:
2.3.2 Tiếp cận thông tin: Những hoạt động đã được xác định như: tiếp cận
thông tin giáo khoa , tài liệu học tập ,nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu từ
Internet, ngoại khóa , hội thảo, làm thí nghiệm, quan sát,… Trong hoạt động này
rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh hoạt. Xã
hội hiện đại đang khiến phần lớn học sinh rời xa sách ( tài liệu thông tin học tập )
và chỉ quan tâm đến các phương tiện nghe nhìn khác. Đơn giản vì nó thỏa mãn
trí tò mò, giúp cho tai nghe mắt thấy tức thời. Đó là chưa kể đến sự nhiễu loạn
thông tin mà nếu không vững vàng thì HS sẽ rất dễ sa vào những cạm bẫy thiếu
lành mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân cách, tâm hồn. Trong lúc
từ cổ chí kim, muốn làm chủ tri thức nhân loại thì con đường tốt nhất của mọi
người là đọc sách. Đọc sách là phương pháp tự học rẻ tiền và hiệu quả nhất. Khi
13


làm việc với sách ta phải sử dụng năng lực tổng hợp toàn diện và có sự xuất hiện
của hoạt động của trí não, một hoạt động tối ưu trong quá trình tự học. Do vậy,
rèn luyện thói quen đọc sách là một công việc không thể tách rời trong yêu cầu
tự học. Ngoài việc tiếp nhận tri thức còn phải biết đối thoại, gợi mở, thắc mắc
hay đề xuất những vấn đề cần lưu ý sau khi đọc sách, hoặc chí ít là học cách viết,
lối diễn đạt từ những cuốn sách hay.
2.3.3. Xử lí thông tin: Vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông
tin tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập,
thảo luận, xử lí các tình huống, viết bài thu hoạch, báo cáo thực hành, tường
thuật… học sinh thường gặp rất nhiều khó khăn.. Trong khâu này việc lựa chọn
và thay đổi hình thức tư duy để tìm ra cách thức tối ưu nhất cho đối tượng nghiên
cứu cũng rất cần thiết.
2.3.4. Trao đổi, phổ biến thông tin: Việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông

tin tri thức hay diển ngôn theo yêu cầu thông qua các hình thức: hội thảo, báo
cáo, thảo luận nhóm, thuyết trình, tranh luận… là công việc cuối cùng của quá
trình tiếp nhận tri thức. Hoạt động này giúp người học có thể hình thành và phát
triển kĩ năng trình bày (bằng lời nói hay văn bản) cho người học. Giúp người học
chủ động, tự tin trong giao tiếp ứng xử, phát triển năng lực hợp tác và làm việc
nhóm tốt.
2.3.5. Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập:
Việc nhìn nhận kết quả học tập được thực hiện bằng nhiều hình thức: Dùng
các thang đo mức độ đáp ứng yêu cầu của GV, bản thân tự đánh giá, sự đánh giá
nhận xét của tập thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục tiêu đặt ra
ban đầu… Tất cả đều mang một ý nghĩa tích cực, cần được quan tâm thường
xuyên. Thông qua nó người học tự đối thoại để thẩm định mình, hiểu được cái gì
làm được, điều gì chưa thỏa mãn nhu cầu học tập nghiên cứu để từ đó có hướng
khắc phục hay phát huy.
Muốn hoạt động học tập có hiệu quả nhất thiết học sinh phải chủ động tự giác
học tập bất cứ lúc nào có thể bằng chính nội lực của bản thân. Vì nội lực mới
chính là nhân tố quyết định cho sự phát triển. Ngoài ra, rất cần tới vai trò của
14


người thầy với tư cách là ngoại lực trong việc trang bị cho học sinh một hệ
thống tri thức, kĩ năng, thái độ cùng với phương pháp tự học cụ thể, khoa học.
Nhờ đó hoạt động tự học của học sinh mới đi vào chiều sâu thực chất.
2.3.6. Dạy cách lập kế hoạch học tập(Lên kế hoạch hợp lí và thực hiện nghiêm
túc)
Học sinh cần xác định rõ mục tiêu, mục tiêu càng rõ, kế hoạch càng chi tiết thì
khả năng hoàn thành càng cao. Hướng dẫn các em nên lên kế hoạch cho từng
tuần, thậm chí từng ngày để tránh không bỏ sót và dồn ứ công việc ngày này
sang ngày khác.
Các em nên chia công việc theo tính chất (quan trọng, ít quan trọng); mức độ

(khó, dễ); thời gian (cần làm ngay, chưa cần làm ngay) để có sắp xếp phù hợp
trong kế hoạch làm việc của mình. Việc quan trọng làm trước, ít quan trọng làm
sau……….
Giấy nhớ cũng là trợ thủ đắc lực giúp em không quên. Ghi những công việc cần
làm lên giấy nhớ, tô đậm thời hạn cần hoàn thành, dán chúng vào góc học tập
của mình. Hoàn thành việc nào bạn xé ngay tờ giấy ghi công việc đó. Trên cơ sở
đề cương môn học, vào đầu mỗi môn học GV hướng dẫn học sinh lập kế hoạch
học tập sao phù hợp với điều kiện của mình ( Số lượng câu hỏi, thời gian hoàn
thành , phương pháp làm…). Tất nhiên có thể điều chỉnh khi điều kiện thay đổi.
Việc sử dụng và tận dụng tốt quĩ thời gian cũng cần được đặt ra để không phải bị
động trước khối lượng các môn học.
VD: Thời khóa biểu ở trường của bạn như sau:
Thứ 2
Chào cờ

Thứ 3
Sinh

Thứ 4
Văn

Thứ 5
Hóa

Thứ 6
Anh



Sử


Văn

Sinh

Toán

Văn

Toán

Địa

Anh

Toán

Toán

Toán



Địa

Văn

Toán

Kỹ thuật


GDCD

Sinh

Sinh hoạt

Thứ 7
Văn
Văn
Anh
Sinh

15


Thời khóa biểu ở lớp sẽ là một cơ sở để bạn lên lịch học ở nhà, với thời khóa
biểu

như

trên,

bạn



thể

lên


lịch

học



nhà

như

sau:

Buổi chiều
Thời gian Thứ 2
1h - 2h


Thứ 3
Sử

Thứ 4
Địa

Thứ 5
Anh

Thứ 6
Anh


Thứ 7
Anh

2h - 4h
Toán
15 phút nghỉ giải lao
4h15

Văn
6h15

Toán

Văn

Hóa, Văn

Toán

Sinh

Sinh



Sử, Địa

Anh

Hóa


Buổi tối, từ 8h – 11h là thời gian để ôn tập lại các môn học đã học buổi chiều.
Nếu bạn thấy môn học nào cần phải tập trung nhiều thời gian hơn, hãy dành trọn
cả buổi tối cho môn học ấy. Hoặc có thể dành trọn thời gian buổi tối trong tuần
cho việc ôn luyện các môn thi của bạn.
2.3.7. Dạy cách nghe giảng và ghi chép theo tinh thần tự học.
Mỗi người đều phải tự mình rèn luyện thói quen ghi chép để có thể có được
những thông tin cần thiết về môn học. Điều quan trọng trước tiên là GV cần
truyền đạt cho học sinh những nguyên tắc chính của hoạt động nghe – ghi chép.
Với các môn KHXH thường có dung lượng câu chữ nhiều, việc vừa chú ý theo
dõi để ghi nhận thông tin vừa mong muốn ghi chép thật đầy đủ khiến đôi lúc trở
thành một thách đố lớn. Các em thường mang lối học thụ động, quen tách việc
nghe và ghi chép ra khỏi nhau, thậm chí nhiều học sinh chỉ chờ GV đọc mới có
thể ghi chép được nội dung bài học nếu ngược lại thì đành bỏ trống vở khiến tâm
lí bị ức chế ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận kiến thức. Thực tế đó đòi hỏi
người học phải tập trung tư tưởng cao độ để có khả năng lĩnh hội vấn đề một
cách khoa học nhất. Phải rèn luyện để có khả năng huy động vốn từ, sử dụng tốc
độ ghi chép nhanh bằng các hình thức viết tắt, gạch chân, tóm lược bằng sơ đồ
hình vẽ những ý chính, các điểm quan trọng mà GV nhấn mạnh. Ngoài ra, trong
quá trình học tập trên lớp, nếu có vấn đề nào không hiểu cần đánh dấu để hỏi
ngay sau khi GV ngừng giảng nhằm đào sâu kiến thức và tiết kiệm thời gian.
16


Muốn tạo điều kiện cho học sinh nghe giảng và ghi chép tốt, GV cần lưu ý:
- Nội dung bài giảng phải mới mẻ, thiết thực, cần thiết có thể tạo ra những
tình huống giả định yêu cầu học sinh suy nghĩ …………. .
- Các câu hỏi, vấn đề đặt ra trong giờ giảng phải có sự chọn lọc kĩ lưỡng,
tập trung vào trọng tâm bài học như một cách phát tín hiệu cho học sinh xác
định nội dung chính.

- Đưa vào bài giảng những tình huống lí thú, những mẫu chuyện sinh động
lấy từ thực tế có liên quan trực tiếp đến đời sống từng đối tượng học sinh để
gây sự chú ý cũng như tạo cảm giác hứng thú cho người học. ………..
- Sau hoặc trong khi giảng bài có thể yêu cầu học sinh tự đặt ra những câu
hỏi, tình huống sát với nội dung bài học để thay đổi không khí, tăng cường sự
chú ý của cả lớp.
- Sự truyền cảm, mạch lạc trong lời giảng cũng là điều có ý nghĩa thu hút sự
chú ý của người học.
Tất cả những công việc này muốn thực hiện tốt phải có sự phối hợp nhịp
nhàng ăn ý của cả thầy và trò. Trong đó thầy đóng vai trò chủ đạo trong việc
hướng dẫn tổ chức còn trò với tư cách là chủ thể tích cực chủ động sáng tạo cả
trong lĩnh hội tri thức lẫn rèn luyện kĩ năng và bộc lộ quan điểm, thái độ.
2.3.8 Dạy cách học bài
GV cần giới thiệu và hướng dẫn cho học sinh tự học theo “bản đồ tư duy” .
BĐTD giúp HS học được phương pháp tự học: Việc rèn luyện phương pháp
học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là
mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học
kém, nhất là môn toán, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau
đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận
dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc
sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu
kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy
học HS sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và
phát triển tư duy. cách phân tích, tổng hợp, học vận dụng tri thức vào từng tình
17


huống thực tiễn, học nhận xét đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến thức… Bên
cạnh đó còn phải rèn luyện năng lực tư duy logic, tư duy trừu tượng, tư duy sáng
tạo để tìm ra những hướng tiếp cận mới các vấn đề . Ví dụ:


18


19


Làm việc nhóm .Một trong những hình thức giúp học sinh làm việc nhóm tốt
nhất là tạo cơ hội cho các em diễn đạt ngôn trực tiếp. Từ cách lấy dẫn chứng để
chứng minh một vấn đề, giải thích, phản biện, nêu quan điểm ý tưởng hay thuyết
trình, giới thiệu, tổng thuật một sự kiện hoặc đơn giản chỉ là sự bày tỏ chính kiến
trước một hiện tượng. Thông qua đó người dạy cũng có thể nắm được mức độ
nhận thức của học sinh để có sự bổ sung điều chỉnh hợp lí, kịp thời. Đảm bảo chất
lượng giờ giảng luôn được cải thiện theo hướng tích cực.
20


Phần thứ 3 : Kết quả đạt đợc và đề xuất kiến nghị.
Kt qu cht lng hc lc nm hc 2011-2012 so vi nm hc 2010-2011 .
loi gii

Loi

SL
426

T l

Loi khỏ


Loi trung bỡnh

SL

T l

SL

T l

Loi Yu ,kộm

Hc sinh t
gii cỏc cp

SL

T l

30

7%

130

30,5%

263

61,7%


21

4,9%

+10

+2,7%

-2

+1,9%

+37

+12,1%

-63

-13,2%

Huyn

So vi
nm hc
trc
(tng,
gim)

Hin nay, trong cỏc trng , mt b phn khỏ ln HS cũn th ng trong vic

tip nhn tri thc. Phng phỏp hc tp, nht l phng phỏp t hc luụn l bi
toỏn khú cho khụng ớt HS. Th nhng vn ny vn cha c quan tõm ỳng
mc. Do ỏp lc ca khi lng cụng vic luụn quỏ ti nờn GV ch mói lo thc
hin chc nng ca mỡnh m ớt quan tõm n rốn luyn k nng ton din trong
ú t hc cho HS trong ú k nng t hc. Vỡ vy, mi trng hc hin nay cn
a phng phỏp t hc vo mc tiờu o to. Bi l, nú khụng ch cn thit cho
H S khi cũn ngi trờn gh nh trng m c khi ra trng hũa nhp vi xó hi,
trong sut cuc i. Khi t hc, mi HS hon ton cú iu kin t nghin
ngm nhng vn ny sinh trong hc tp theo mt phong cỏch riờng vi nhng
yờu cu v iu kin thớch hp. iu ú khụng ch giỳp bn thõn HS nm c
vn mt cỏch chc chn v bn vng; ch ng bi dng phng phỏp hc
tp v k nng vn dng tri thc m cũn l dp tt rốn luyn ý chớ v nng lc
hot ng c lp sỏng to. ú l nhng phm cht m ch cú chớnh bn thõn HS
t rốn luyn kiờn trỡ mi cú c, khụng mt ai cú th cung cp hay lm thay
cho mỡnh. Thc t cng ó chng minh, mi thnh cụng ca HS trờn con ng
hc tp khụng bao gi l kt qu ca li hc tp th ng, i phú.
T ú, d nhn thy rng: cựng vi ũi hi ca xu th hi nhp ton
cu trờn tt c cỏc lnh vc v vi mt xó hi y bin ng nh xó hi nc ta
v s dng lao ng, v quỏ trỡnh o to ngy cng i vo chiu sõu thc cht
21

Tnh


thì hoạt động dạy học, đặc biệt là dạy cách học chắc chắn sẽ tìm được sự đồng
thuận cao của cộng đồng và là mảnh đất tốt cho bất kì ai có khát vọng học tập
suốt đời.
- §Ò xuÊt, kiÕn nghÞ víi c¸c cÊp.
Nhà trường THCS:
Trong giáo viên :Mở nhiều hơn các cuộc hội thảo chuyên đề về tăng cường đổi

mới phương pháp giảng dạy theo hướng hướng dẫn phương pháp tự học cho học
sinh
Trong học sinh: Tổ chức các buổi sinh hoạt trao đổi kinh nghiệm học tập giữa
các học sinh và giữa các lớp vơi nhau
Nhà trường cần phối hợp với hội khuyến học, hội phụ huynh, chi đoàn TN nơi
thôn xóm , ban văn hóa xã có kế hoạch quản lý việc học ở nhà của phụ huynh ,
tăng cường quản lý tốt hơn nữa các tụ điểm vui chơi giải trí và hạn chế các tệ
nạn xã hội.
- Các cấp quản lý GD cấp trên : Mở các chuyên đề về tăng cường đổi mới
phương pháp giảng dạy theo hướng hướng dẫn phương pháp tự học cho học sinh
và có tài liệu “ phương pháp tự học cho học sinh cấp THCS ”

22


1

1


2

2


3

3



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×