Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Giáo dục tình cảm cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi thông qua các trò chơi đóng vai theo chủ đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 70 trang )

Lôøi caûm ôn
Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
Cô giáo Ths. Nguyễn Thị Thùy Vân, đã tận tình hướng dẫn em trong
suốt quá trình thực hiện.
Em chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa sư phạm Tiểu
học – Mầm non, Trường Đại Học Quảng Bình đã tận tình truyền đạt
kiến thức trong những năm em học tập. Với vốn kiến thức được tiếp thu
trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu
khóa luận mà còn là hành trang quí báu để em bước vào nghề một cách
vững chắc và tự tin.
Kính chúc quý Thầy, Cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự
nghiệp của mình.
Đồng Hới, Tháng 5 năm 2016


Tác giả: Lê Thị Hương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết
quả trong luận văn là trung thực, được các tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được
công bố trong bất kì một công trình nào khác.
Đồng Hới, Tháng 5 năm 2016
Tác giả: Lê Thị Hương


MỤC LỤC



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TT
1
2
3
4
5
6
7


Kí hiệu, chữ viết tắt
GDMN
ĐVTCĐ
MN
MG
MGL
MGN
MGB

Nghĩa đầy đủ
Giáo dục mầm non

Đóng vai theo chủ đề
Mầm non
Mẫu giáo
Mẫu giáo lớn
Mẫu giáo nhỡ
Mẫu giáo bé


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
TT

Tên bảng / biểu đồ


Tên bảng / biểu đồ
BIỂU
ĐỒ

2.1
2.2
2.1
2.2

Nhận thúc về vai trò của giáo dục tình cảm đối với hình
thành nhận thức của trẻ

Vai trò của trò chơi ĐVTCĐ đến quá trình giáo dục tình
cảm của trẻ
Vai trò của các chủ đề chơi đối với giáo dục tình cảm
cho trẻ
Khả năng nhận biết về xúc cảm, tình cảm của trẻ trong
MQH thực, MQH chơi khi tham gia các trò chơi đóng

Trang
30
31
32
34


vai theo chủ đề
Khả năng thể hiện xúc cảm, tình cảm của trẻ trong
BẢNG

2.3
2.4
2.5
2.6
2.7

MQH Thực, MQH chơi khi tham gia vào các trò chơi

ĐVTCĐ
Khả năng thể hiện xúc cảm tình cảm của trẻ qua trò chơi
ĐVTCĐ
Các hình thức tổ chức trò chơi ĐVTCĐ nhằm giáo dục
tình cảm cho trẻ
Biện pháp tổ chức trò chơi ĐVTCĐ nhằm giáo dục tình
cảm cho trẻ.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giáo dục tình cảm
cho trẻ

36
38

39
40
41


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trẻ em là niềm vui, hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân tộc,
đất nước. Bảo vệ và chăm sóc trẻ em không chỉ là trách nhiệm của gia đình trẻ mà còn
là trách nhiệm của toàn xã hội. Trong các nội dung giáo dục toàn diện cho trẻ thì giáo
dục tình cảm xã hội là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng vì nó ảnh đến các
mặt giáo dục khác. Tình cảm của trẻ có ảnh hưởng đến cách nhìn nhận, thái độ của trẻ

với mọi người xung quanh và với chính bản thân trẻ. Hơn nữa đối với trẻ mà nói việc
hình thành những dấu ấn ban đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng. Từ thực tế, nhiều
công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học, giáo dục học cho thấy trong những năm
đầu của cuộc dời đứa trẻ có hệ thần kinh mềm dẻo, non yếu và dễ uốn nắn. Do đó thời
gian này rất thuận lợi cho việc hình thành những nét cơ bản của cá tính và biểu hiện
cảm xúc nhất định, hình thành cho trẻ những phẩm chất tâm lý nhân cách con người.
Giáo dục tình cảm là một bộ phận của giáo dục đạo đức cho trẻ. Mục tiêu giáo
dục tình cảm cho trẻ lứa tuổi mầm non nhằm hướng tới hình thành và phát triển những
xúc cảm tình cảm tốt đẹp cho trẻ đối với mọi người xung quanh, nhằm hình thành
nhân cách con người ở trẻ nhỏ. Đối với trẻ mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo,
qua chơi trẻ được phát triển chức năng tâm lý và hình thành nhân cách. Khi chơi trẻ có
thêm nhiều cơ hội khám phá môi trường xung quanh, qua đó kích thích tính tò mò, khả

năng quan sát, năng lực phán đoán, trí tưởng tượng… của trẻ. Chính vì lẽ đó mà nhiều
nhà giáo dục đã gọi: “trò chơi là trường học của cuộc sống”. Trẻ cần chơi như cần ăn
no, mặc êm, cần được yêu thương. Trò chơi nuôi dưỡng tâm hồn trẻ mà không có gì có
thể thay thế được.
Như vậy, trường mầm non là môi trường thuân lợi nhất để trẻ phát triển.ở đây
trẻ không những được chăm sóc được trò chuyện tiếp xúc với bạn bè,cô giáo mà còn
được vui chơi để thoả mãn ước muốn làm người lớn với khả năng thực lực của mình.
Trong khi chơi đứa trẻ học cách sử dụng đồ vật, đồ chơi do con người sáng tạo ra. Học
những quy tắc ứng xử giữa người với người trong xã hội tức là trẻ học cách làm người.
Trẻ mẫu giáo có thể tham gia nhiều loại trò chơi như trò chơi đóng vai theo chủ
đề, trò chơi đóng kịch, các trò chơi có luật…Mỗi loại trò chơi đều có tác dụng phát
triển một mặt nhất định của trẻ. Nhưng trung tâm của hoạt động vui chơi đối với trẻ

đóng vai theo chủ đề là loại trò chơi chủ yếu tạo ra nét đặc trưng trong trò chơi,trong
đời sống tâm lý, tình cảm của trẻ mẫu giáo.
Tại sao trẻ mẫu giáo thích chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề, bởi qua chơi trẻ
được hòa nhập vào các mối quan hệ trong xã hội, trẻ hiểu được bản thân mình và dầ
hát triển tình cảm tích cực giữa trẻ và bạn chơi. Từ những mối quan hệ yêu thương gần
1


gũi giữa các vai chơi, người chơi. Trẻ phát triển tình cảm của mình một cách tự nhiên,
tích cực hơn. Do vậy trò chơi nói chung và việc phát triển tình cảm cho trẻ mẫu giáo
nhỡ thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề nói riêng thực sự cần thiết cho trẻ.
Tuy nhiên thực tế hiện nay ở các trường mầm non chưa khai thác được hết vai

trò của trò chơi đóng vai theo chủ đề đối với sự phát triển tình cảm, xúc cảm cho trẻ
mẫu giáo.Vậy vấn đề cấp thiết là phải tăng cường giáo dục tình cảm cho trẻ thông qua
trò chơi đóng vai theo chủ đềvà cần phải có sự hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể để tạo cho trẻ
cảm giác thoải mái, hứng thú, có như vậy chúng ta mới thực sự tạo cho trẻ niềm vui,
niềm hạnh phúc trong hoạt động vui chơi để từ đó phát triển nhân cách nói chung, đời
sống tình cảm nói riêng.
Từ lý luận và thực tiễn với khả năng và niềm say mê hứng thú của mình tôi đã
chọn nghiên cứu đề tài :“Giáo dục tình cảm cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua
các trò chơi đóng vai theo chủ đề”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và khảo sát thực trạng giáo dục tình cảm cho trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua các trò chơi đóng vai theo chủ đề. Đề xuất một số biện

pháp nâng cao hiệu quả giáo dục tình cảm cho trẻ thông qua các trò chơi đóng vai theo
chủ đề ở trường mầm non.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu.
- Trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) ở trường MN Nam Lý – Đồng Hới.
- Giáo viên trường MN Nam Lý – Đồng Hới.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục tình cảm cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua các trò ch ơi đóng vai
theo chủ đề ở trường Mầm non Nam Lý – Đồng Hới – Quảng Bình.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu xây dựng được biện pháp tổ chức trò chơi ĐVTCĐ phù hợp với trẻ Mẫu
giáo 5 – 6 tuổi thì trò chơi ĐVTCĐ sẽ thực sự trở thành phương tiện phát triển tình

cảm có hiệu quả đối với trẻ Mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về trò chơi ĐVTCĐ và việc giáo dục tình cảm cho
trẻ cho trẻ Mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua trò chơi ĐVTCĐ.
- Khảo sát, phân tích thực trạng giáo dục tình cảm cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở
trường Mầm non.

2


- Xây dựng một số biện pháp tổ chức trò chơi ĐVTCĐ nhằm phát giáo dục tình

cảm cho trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường Mầm non.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
6.1. Giới hạn về khách thể nghiên cứu
- Thực hiện nghiên cứu trên 30 trẻ ở 2 lớp: MGL A 15 trẻ và ở lớp MGL B 15
trẻ. Trường Mầm non Nam Lý - TP Đồng Hới - Quảng Bình.
- Khách thể điều tra: 20 Giáo viên ở Trường Mầm non Nam Lý - Đồng Hới - Quảng
Bình (12 giáo viên lớp MGL, 4 giáo viên MGN, 4 giáo viên MGB)
6.2. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu một số biện pháp tổ chức trò chơi ĐVTCĐ nhằm phát triển tình
cảm cho trẻ Mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở Trường Mầm non Nam Lý.
6.3. Thời gian nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu từ 16/01 đến tháng 5/2016

7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hoá, hệ thống
hoá những vấn đề lí luận liên quan đến nội dung nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Dự giờ, quan sát và ghi chép lại cách tổ chức trò chơi ĐVTCĐ ở trường mầm
non. Đặc biệt quan tâm đến các biện pháp tổ chức trò chơi ĐVTCĐ của giáo viên
nhằm phát triển tình cảm cho trẻ 5 - 6 tuổi.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng Ankét
Sử dụng phiếu điều tra Ankét để tìm hiểu thực trạng tổ chức trò chơi ĐVTCĐ
nhằm giáo dục tình cảm cho trẻ 5– 6 tuổi ở Trường Mầm non.

7.2.3. Phương pháp đàm thoại
Trao đổi với giáo viên về một số vấn đề về sự phát triển tình cảm, xúc cảm của
trẻ.
Đàm thoại với trẻ 5 – 6 tuổi để tìm hiểu về biểu hiện tình cảm của trẻ.
7.2.4.Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Nghiên cứu sản phẩm của giáo viên, cụ thể là các kế hoạch tổ chức trò chơi
ĐVTCĐ cho trẻ 5 – 6 tuổi để tìm hiểu thực trạng giáo dục tình cảm cho trẻ.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng một số phép thống kê để xử lý thông tin thu thập được trong quá trình
nghiên cứu nhằm khẳng định độ tin cậy của đề tài.

3



8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Góp phần hệ thống hóa lý luận về trò chơi ĐVTCĐ và sự phát triển tình cảm
của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
- Đánh giá thực trạng tổ chức trò chơi ĐVTCĐ nhằm phát triển tình cảm của trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở Trường Mầm non Nam Lý.
- Xây dựng được một số biện pháp tổ chức trò chơi ĐVTCĐ nhằm phát triển
tình cảm cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
9. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Khóa luận gồm các phần:
Mở đầu

Chương 1. Một số vấn đề lí luận về sự phát triển tình cảm của trẻ mẫu giáo 5 –
6 tuổi và trò chơi đóng vai theo chủ đề.
Chương 2. Thực trạng giáo dục tình cảm cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua
các trò chơi đóng vai theo chủ đề ở trường Mầm non Nam Lý – Đồng Hới – Quảng
Bình.
Chương 3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục tình cảm cho trẻ mẫu
giáo 5 – 6 tuổi thông qua các trò chơi đóng vai theo chủ đề.
Kết luận và kiến nghị.

4



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
TÌNH CẢM CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI VÀ TRÒ CHƠI
ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ
1.1. TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Tâm lý học trẻ em là một khoa học chuyên nghiên cứu về sự hình thành và phát
triển tâm lý trẻ em. Từ khi tâm lý học mầm non ra đời cho đến nay đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu về nhân cách và chức năng tâm lý của trẻ trong độ tuổi mầm
non. Trong đó, lĩnh vực giáo dục tình cảm cho trẻ là một trong những lĩnh vực được
nhiều nhà tâm lý học trong nước và ngoài nước tiếp cận, tìm hiểu nghiên cứu, cụ thể
Ở nước ngoài với quan điểm trò chơi là niềm vui sướng của tuổi thơ là phương

tiện phát triển toàn diện cho trẻ. Theo J. A. Kômenxki “trò chơi là hoạt động cần thiết
là phương tiện phát triển toàn diện cho trẻ”. Bên cạnh đó, vấn đề hình thành thói quen
về biểu hiện xúc cảm, tình cảm cho trẻ cũng được các nhà khao học quan tâm và đề
câp đến trong một số công trình nghiên cứu theo một số khía cạnh khác nhau như
Nghiên cứu về tiềm năng phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo, về năng lực hoạt động và
sự ảnh hưởng của quá trình đến sự phát triển tình cảm tâm lý của trẻ, đặc biệt là hình
thành nhân cách tốt cho trẻ. Các công trình nghiên cứu như:
A.N.Leonchiev với: Cuốn sách Sự phát triển tâm lý trẻ em.
L.X Vưgôtxki với: Sự phát triển chức năng tâm lý cao cấp.
Đ.B. Elconhin với: Tâm lý học trò chơi.
H.Wallon với: Những nguồn gốc tính cách trẻ em.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam

Ở Việt Nam đã có những công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận của việc giáo
dục trẻ mẫu giáo thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề như:
Nguyễn Thị Nhất, Nguyễn Khắc Viện với: Tâm Lý trẻ em
Nguyễn Ánh Tuyết với: Giáo dục hành vi văn hóa cho trẻ em, giáo dục trẻ mẫu
giáo trong nhóm bạn bè.
Nhiều tác giả khác như Đỗ Mộng Liên, Nguyễn Thị Quỳnh Hoa, Trương Kim
Oanh, Lê Thị Hòa...Đã biên soạn các hoạt động vui chơi và cách tổ chức trò chơi đóng
vai theo chủ đề nhằm giáo dục tình cảm cho trẻ ở trường mẫu giáo.
Trần Trọng Thủy với: Sự phát triển nhân cách của trẻ.
Có thể nói rằng có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, chú ý đến vấn đề nhằm
giáo dục tình cảm cho trẻ thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề. Họ đã chỉ ra tiềm
năng của trí tuệ, cảm xúc, tình cảm của trẻ thông qua trò chơi ĐVTCĐ. Tuy nhiên

chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về việc giáo dục tình cảm thông qua trò chơi
5


ĐVTCĐ cho trẻ MG 5 - 6 tuổi. Do đó bản thân tôi thực hiện đề tài này không ngoài
mong muốn góp phần nhỏ công sức nhỏ bé của mình vào việc nâng cao hiệu quả giáo
dục tình cảm cho trẻ MG 5 - 6 tuổi thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN
1.2.1. Khái niệm chung về tình cảm
Là thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối với những sự vật,hiện tượng
của hiện thực khách quan, phản ảnh ý nghĩa của chúng trong mối liên hệ giữa nhu cầu
và động cơ của họ. Tình cảm là sản phẩm cấp cao của sự phát triển các qúa

trình cảm xúc trong điều kiện xã hội.
Nó còn được phân thành hai dạng, tình cảm cấp thấp và tình cảm cấp cao. Tình
cảm cấp thấp: Là tình cảm liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu sinh vật của cơ
thể (như nhu cầu về mặt sinh học)
Tình cảm cấp cao là tình cảm liên quan đến những thoã mãn những nhu cầu
mang tính chất xã hội và nó nói lên thái độ của con người đối với những mặt khác
nhau của đời sống xã hội.
1.2.2. Phân loại tình cảm
*Tình cảm trí tuệ
Là những tình cảm nảy sinh trong quá trình hoạt động trí óc, liên quan đến sự
thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu nhận thúc của con người như: ham học hỏi, tìm
hiểu, nhạy cảm với cái mới.

- Tình cảm trí tuệ của trẻ phát triển, mỗi nhận thức mới đều kích thích niềm vui,
hứng thú, sự say mê thích thú của trẻ; tính tò mò ham hiểu biết, làm nảy sinh nhiều
xúc cảm tích cực; trong vui chơi, học tập, lao động tự phục vụ nhiều thành công thất
bại củng cố sự phát triển tình cảm trí tuệ ở trẻ.
* Tình cảm đạo đức
Là loại tình cảm liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu đạo
đức của con người biểu hiện thái độ của con người đối với các yêu cầu đạo đức, hành
vi đạo đức (tình mẫu tử,tình bạn bè...)
Do lĩnh hội được ý nghĩa các chuẩn mực hành vi tốt, xấu. Qua vui chơi giao
tiếp với mọi người; do các thói quen nếp sống tốt được gia đình, các lớp mẫu giáo xây
dựng cho trẻ...Trẻ ý thức được nhiều hành vi tốt đẹp cần thực hiện để vui lòng mọi
người.

* Tình cảm thẩm mỹ
Là những tình cảm liên quan đến nhu cầu thẩm mỹ nhu cầu vế cái đẹp nó biểu
hiện thái độ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực xung quanh. Trẻ biểu hiện rõ
như sau:

6


Rất thèm khát sự trìu mến yêu thương đồng thời lo sợ trước những thái độ thờ
ơ lạnh nhạt của những người xung quanh đối với mình. Trẻ vui mừng khi được yêu
thương, đau buồn khi bị ghét bỏ. Trẻ bộc lộ tình cảm đối với người xung quanh:
Đối với người thân: Trẻ thường thể hiện sự quan tâm thông cảm với họ, tré

muốn làm một việc gì đó để an ủi chăm sóc họ.
Đối với bạn bè: Trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm, biết đoàn kết thương
yêu. Qua các tiết học nghệ thuật tạo hình, âm nhạc, tìm hiểu môi trường xung quanh
Cùng với những nhận thức về cái đẹp tự nhiên, hài hoà về bố cục, sắp xếp trong gia
đình và lớp học. Trẻ ý thức rõ nét về cái đẹp cái xấu theo chuẩn (lúc đầu theo chuẩn
của bé dần dần phù hợp với đánh giá của những người xung quanh) xúc cảm thẩm mỹ,
óc thẩm mỹ phát triển.
1.2.3. Khái quát đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Do sự tăng trưởng đáng kể về thể chất, sự phong phú về đời sống xã hội cũng
như hoạt động, trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) đã đạt được mức độ phát triển phong phú
về nhiều mặt của chức năng tâm lý như: cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tưởng, chú ý,
trí nhớ, ngôn ngữ, ý chí, xúc cảm, tình cảm.

*Cảm giác, tri giác
Những thuộc tính và quan hệ bên ngoài của sự vật hiên tượng được trẻ tiếp
nhận chính xác hơn, giúp cho việc định hướng vào thế giới xung quanh thuận lợi hơn.
Đối với trẻ mẫu giáo lớn bắt đầu khảo sát và mô tả đối tượng có trình tự và tỉ mỉ hơn
cùng với khả năng tri giác có chủ định (khả năng quan sát đối tượng)
Trẻ có thể phân phối chú ý vào 2 - 3 đối tượng cùng một lúc tuy nhiên thời gian
phân phối chú ý chưa bền vững.
Sự phân tán chú ý của trẻ trong giai đoạn này vẫn còn thể hiện mạnh mẽ, nhiều
khi trẻ không tự chủ được do đó cô giáo cần thay đổi đồ chơi, trò chơi hấp dẫn hơn.
Cần luyện tập các phẩm chất chú ý cho trẻ qua các trò chơi và các tiết học.
*Tư duy
Để đáp ứng nhu cầu nhận thức đang phát triển mạnh ở trẻ mẫu giáo lớn cho nên

bên cạnh việc phát triển tư duy trực quan hình tượng vẫn cần phát triển một tư duy
trực quan hình tượng mới đó là tư duy trực quan – sơ đồ là yếu tố đầu tiên làm bậc
đệm để phát triển tư duy cao hơn.
*Tưởng tượng
Các hoạt động tưởng tượng đã dần dần tách khỏi đồ vật hiện có, nội dung tưởng
tượng phong phú hơn so với trẻ mẫu giáo nhỡ vì trẻ đã có sự tiếp xúc nhiều hơn với
thế giới bên ngoài. Chuyển từ tưởng tượng tái tạo sang tưởng sáng tạo được thể hiện rõ
nhất trong các hoạt động mang tính sáng tạo như: vẽ, nặn, chơi xây dựng…Trẻ có khả
năng hành động theo ý đồ, định hướng của mình.
7



Cuối tuổi mẫu giáo trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ được phát triển khá mạnh
với sự hỗ trợ đắc lực của tri giác. Nếu trẻ có khả năng quan sát tốt sự vật và hiện tượng
xung quanh thì quá trình tưởng tượng nhất là tưởng tượng sáng tạo sẽ phát triển thuận
lợi, bởi tri giác là nguồn cung cấp chất liệu cho hoạt động của trí tưởng tượng sáng tạo.
*Chú ý
Chú ý không chủ định chiếm ưu thế, chú ý có chủ định đang được phát triển do
trẻ đã xác định đối tượng cần chú ý, biết đặt ra mục đích cho sự chú ý của mình, biết
hướng ý thức của mình vào đối tượng để phục vụ cho mục đích của hoạt động. Khả
năng phân phối, sức tập trung, sự di chuyển của chú ý đều tăng lên đặc biệt là đối với
những đối tượng hấp dẫn, sinh động.
*Trí nhớ
Đặc trưng trí nhớ của trẻ mẫu giáo là tính trực quan, máy móc và không chủ

định. Tuy nhiên, vào cuối tuổi mẫu giáo, trí nhớ của trẻ có một bước biến đổi về chất
đó là trí nhớ có chủ định xuất hiện và phát triển. ngôn ngữ đóng một vai trò đặc biệt
quan trọng trong sự phát triển trí nhớ có chủ định của trẻ 5 - 6 tuổi, nhờ đó mà trẻ nắm
được tên và hiểu được ý nghĩa của sự vật, hiện tượng cần nhớ, đặt mục đích và tìm
phương tiện giúp ghi nhớ và nhớ lại những điều cần nhớ.
*Ngôn ngữ
Ở giai đoạn lứa tuổi này sự phát triển ngôn ngữ diễn ra với tốc độ nhanh cả về
ngữ âm, ngữ pháp, ngữ điệu, vốn từ, cấu trúc ngữ pháp, hầu hết trẻ đã biết sử dụng
thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hằng ngày để giao tiếp, khả năng ngôn ngữ của
trẻ liên quan chặt chẽ với sự phát triển trí tuệ và những trải nghiệm của trẻ. Vốn từ của
trẻ phong phú, trẻ hiểu được một số từ khái quát, biết sử dụng một số từ ghép gợi cảm
và những từ có nghĩa đối lập như to đùng, bé xíu...chính ngôn ngữ mạch lạc là phương

tiện làm cho tư duy của trẻ phát triển lên một bước mới đó là sự nảy sinh các yếu tố
của tư duy logic, nhờ đó mà toàn bộ sự phát triển tâm lý nói chung, tư duy của trẻ nói
riêng được nâng lên một trình độ mới cao hơn.
Tuy nhiên, khả năng ngôn của từng cá nhân trẻ ở độ tuổi này vẫn còn có sự
khác biệt lớn về mức độ phong phú của từ, về cách diễn đạt lệch lạc, nói đúng ngữ
pháp và thể hiện lời nói đúng với hoàn cảnh giao tiếp. Vì vậy cô giáo cần chú ý cung
cấp vốn từ và tích cực hóa vốn từ cho trẻ.
*Ý chí
Do có khả năng làm chủ được nhiều hành vi và được người lớn giao cho nhiều
việc nhỏ vì vậy mà trẻ đã xác định được mục đích của hành động, dần dần tách động
cơ ra khỏi mục đích với sự cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Khả năng kiểm soát, điều
khiển, điều chỉnh hành vi của trẻ tốt hơn so với lứa tuổi trước. Tính kế hoạch cũng bắt

8


đầu xuất hiện tinh thần trách nhiệm, bổn phận…được hình thành và được trẻ ý thức
từng bước một.
*Xúc cảm, tình cảm
Tiếp nối những đặc điểm của trẻ 4 - 5 tuổi, xúc cảm, tình cảm của trẻ 5 - 6 tuổi
đa dạng, phong phú, ổn định và sâu sắc hơn: Các sắc thái tình cảm được biểu hiện đa
dạng hơn với nhiều đối tượng khác nhau theo mức độ phong phú, phức tạp tăng dần
của các mối quan hệ giao tiếp (với người thân, người lạ, cô giáo, bạn bè...), tuy tình
cảm có ổn định hơn so với trẻ 4 - 5 tuổi nhưng đặc tính chung vẫn là dễ hình thành, dễ
thay đổi, dễ dao động và mang tính tình huống các loại tình cảm cấp cao (tình cảm trí

tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ…) đều phát triển.
1.2.4. Sự phát triển xúc cảm, tình cảm của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Trong lứa tuổi ấu nhi cũng như lứa tuổi mẫu giáo thì tình cảm thống trị tất cả
các mặt trong các hoạt động tâm lý của đứa trẻ, đặc biệt ở lứa tuổi MGL thì đời sống
tình cảm của trẻ có bước chuyển biến mạnh mẽ, vừa phong phú vừa sâu sắc hơn so với
các lứa tuổi trước đó, sự phát triến xúc cảm, tình cảm của trẻ có các biểu hiện như sau:
Tính đồng cảm và tính dễ xúc cảm đối với con người và cảnh vật xung quanh.
Đây là thời điểm rất thuận lợi để giáo dục lòng nhân ái ở trẻ. Tuy nhiên, ở những đứa
trẻ sống trong một hoàn cảnh bất lợi, lại chịu ảnh hưởng của lối giáo dục sai lầm thì
cũng dễ nãy sinh tính ích kỉ, tham lam, độc ác và những tình cảm tiêu cực khác cho dù
đó chỉ là những biểu hiện rất bột phát. Ở thời điểm mà nhân cách vừa mới bắt đầu
được hình thành thì những dấu ấn không đẹp vẫn có thể để lại di chứng cho các giai

đoạn phát triển sau này, vì vậy cần phải uốn nắn ngay.
Sự phát triển tình cảm của trẻ mẫu giáo còn được thể hiện ra ở nhiều mặt đời
sống tinh thần của trẻ (trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ). Các loại tình cảm này nếu đều ở một
thời điểm phát triển thuận lợi nhất, đặc biệt là tình cảm thẩm mĩ. Tình yêu cái đẹp
trong thiên nhiên, trong cuộc sống và nghệ thuật thực chất đó là tình cảm được khêu
gợi lên bởi những cảm xúc về cái đẹp của con người, của tình người. Trẻ MGL biết
rung cảm khá nhạy bén trước những cái đẹp trong thế giới xung quanh. Có thể nói đây
là thời kì phát triển những xúc cảm thẩm mĩ, tức là những xúc cảm tích cực, đều này
sinh khi trẻ tiếp xúc trực tiếp với cái đẹp khiến trẻ thấy gắn bó tha thiết với con người
và cảnh vật xung quanh, kích thích trẻ làm những điều tốt lành đem lại niềm vui cho
mọi người.
Quan sát trong cuộc sống hằng ngày chúng ta dễ nhận thấy trẻ MG đặc biệt là

từ 4 tuổi trở đi, dễ vui sướng, ngỡ ngàng khi nhìn thấy những vẻ đẹp tưởng chừng như
đơn giản của một bông hoa đang nở hay của một bản nhạc du dương...Trẻ nhận thức
thế giới và tỏ thái độ với những sự vật xung quanh mình thường là những xúc cảm
9


thẩm mĩ này. Đây là thời điểm thuận lợi cho việc giáo dục thẩm mĩ mang lại một hiệu
quả to lớn đối với sự phát triển toàn diện nhân cách của trẻ, khó có gì có thể so sánh
nổi. Thông qua giáo dục thẩm mĩ mà giáo dục các mặt khác, đặc biệt là giáo dục đạo
đức cho trẻ. Như vậy trong tình cảm đạo đức chứa đựng tình cảm thẩm mĩ có thể gọi
chung đó là tình cảm thẩm mic đạo đức. Đây cũng là một mặt phát triển khá mạnh ở
trẻ MGL có khả năng thúc đẩy các mặt khác cùng phát triển theo. Có thể nới cái đẹp là

dòng suối nuôi dưỡng lòng tốt và trí thông minh. Chính vì vậy mà trong giáo dục tình
cảm cho trẻ MGL cần tạo ra cho trẻ môi trường không chỉ tiện lợi để kích thích các
mặt hoạt động của trẻ mà còn là môi trường tạo dựng cái đẹp. Từ đồ dùng, đồ chơi,
việc trang trí lớp học, cách xưng hô...Tất cả đều cần được cô giáo quan tâm sao cho
thật đẹp mắt để dễ gợi lên ở trẻ những xúc cảm thẩm mĩ, đạo đức. Hơn thế nữa cô giáo
không nhất thiết sử dụng những cái đẹp xung quanh cho trẻ cảm thụ mà còn tạo ra cái
đẹp và khuyến khích các cháu làm ra cái đẹp. Điều quan trọng hơn nữa là người lớn
cần nuôi dưỡng trẻ em những nhu cầu muốn làm cho mình trở nên đẹp (trong nét mặt,
cử chỉ, điệu bộ và trong sinh hoạt hằng ngày) để đem lại niềm vui cho ba mẹ, cho cô
giáo, cho bạn bè và những người xung quanh.
Sự phát triển “tính hợp lí” trong tình cảm của trẻ MG không chỉ thể hiện ở thái
độ với người lớn mà còn ở thái độ với bản thân mình. Sự lĩnh hội các chuẩn mực đạo

đức, các quy tắc ứng xử, sự hình thành ý thức lở lứa tuổi MG bắt đầu gây ra niềm vui
sướng tự hào, nổi đau khổ, xấu hổ ngay khi chỉ có một mình trẻ mà không có sự ghóp
mặt của người lớn. Trong lứa tuổi này, những biểu hiện bên ngoài của tình cảm cũng
được biến đổi căn bản. Thứ nhất là vì đứa trẻ biết kiềm chế những biểu hiện mạnh mẽ
và đột ngột trong tình cảm của mình. Thứ hai là vì trẻ nắm được hình thức thể hiện sắc
thái tình cảm một cách tế nhị bằng ánh mắt, nụ cười, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt...Dần dần
trẻ đã điều khiển được những xúc cảm bột phát đó, không những chỉ cố nén trong
những trường hợp cần thết mà đôi khi trẻ còn biết sử dụng tình cảm của mình tác động
tới những người xung quanh nhằm thông báo cho họ biết thái độ của mình về một việc
gì đó.
Tình cảm của trẻ không những bộc lộ với những người thân thích hay các nhân
vật trong truyện mà còn đối với cả những con vật, sự vật, đồ vật và cả hiện tượng thiên

nhiên. Trẻ thường gán cho chúng những sắc thái cúc cảm của con người, xót thương
cho một cây hoa bị vặt trụi lá, thương cho con chim nhỏ bị ướt mưa...Dường như ở đâu
trẻ cũng thấy tình người.
Từ những biểu hiện của sự phát triển tình của trẻ 5 – 6 tuổi nêu trên, chúng ta
có thể nhận định rằng: đời sống tình cảm của trẻ MGL phát triển khá mãnh liệt, nổi bật
lên là sự đồng cảm (dễ cảm thông và sẵn sàng chia sẽ niềm vui, nổi buồn với người
10


khác) và tính dễ xúc cảm (nhạy cảm với những rung động của người khác) đối với con
người cũng như cảnh vật xung quanh. Đây là một thời điểm giáo dục thuận lợi lòng
nhân ái cho trẻ MGL.

1.2.5. Trò chơi đóng vai theo chủ đề.
1.2.5.1. Khái niệm chung về trò chơi ĐVTCĐ cho trẻ
Trò chơi ĐVTCĐ hay còn gọi là trò chơi giả bộ, có tính tượng trưng độc đáo,
mô tả lại những sự việc diễn ra trong cuộc sống sinh hoạt của trẻ. Đây là một hoạt
động chủ đạo vui chơi của trẻ em lứa tuổi mẫu giáo, giúp trẻ hình thành kỹ năng và
phát triển nhân cách.
Khi trẻ lên ba tuổi trẻ bắt đầu có ý thức về bản thân mình, biết phân biệt mình
với người khác trong cộng đồng nhỏ. Mối quan hệ giữa trẻ em với người lớn mang
tính chất mới (hoạt động cùng nhau được thay thế bằng việc thực hiện những nhiệm vụ
độc lập theo lời chỉ dẫn của người lớn). Quan hệ giữa trẻ và bạn bè cùng lứa tuổi được
hình thành. Trẻ bắt đầu để ý và bắt chước người lớn về mọi mặt. Trẻ muốn tự khẳng
định mình bằng cách tập làm người lớn. Nhưng trên thực tế, trẻ chưa có đủ năng lực,

kỹ năng kỹ xảo, cần thiết với những công việc của người lớn. Mâu thuẫn diễn ra gay
gắt giữa một bên là nhu cầu một bên là khả năng của trẻ ba tuổi.
Trò chơi ĐVTCĐ ra đời thay thế cho hoạt động với đồ vật ở lứa tuổi vườn trẻ
giúp trẻ giải quyết mâu thuẫn này. Trò chơi giúp trẻ tái tạo lại đời sống lao động của
người lớn cùng với những mối quan hệ xã hội, làm trẻ thỏa mãn khát vọng được sống
như người lớn.
Trong trò chơi trẻ được phân những vai khác nhau như vai bác sỹ - bệnh nhân,
vai cô giáo - học sinh, vai mẹ con, vai người bán hàng - người mua hàng…
Trò chơi đóng vai theo chủ đề là một loại hoạt động trò chơi mà trẻ em mô
phỏng lại một mảng nào đó của cuộc sống người lớn trong xã hội bằng việc nhập vào
các vai, tức là ướm mình vào một người nào đó để hành động theo chức năng của họ
trong mối quan hệ xã hội. Bản chất của trò chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề là một

mô hình hoá những quan hệ xã hội, mà trẻ chịu sự chi phối của chúng. Đó là quan hệ
giữa người lớn với nhau trong xã hội, cách cư xử, hành vi ứng xử, văn minh được trẻ
em quan tâm và trở thành đối tượng hành động của chúng.
1.2.5.2. Cấu trúc của trò chơi ĐVTCĐ của trẻ mẫu giáo
Trò chơi cuộc sống của người lớn, tại sao trẻ em, nhất là trẻ MG lại thích trò
chơi, trẻ muốn tự mình làm mọi việc như người lớn, bắt đầu từ đây mà hoạt động vui
chơi, trung tâm là trò chơi đóng vai theo chủ đề là loại trò chơi phổ biến nhất ở trẻ
MG, nhưng đó là cấu trúc tương đối phức tạp. Việc phân tích cấu trúc trò chơi này cho
thấy rõ những đặc điểm hình thành nhân cách ban đầu của trẻ MG.
11



Cấu trúc trò chơi đóng vai theo chủ đề gồm có:
* Chủ đề và nội dung chơi
Trò chơi đóng vai theo chủ đề đã phản ánh cuộc sống xung quanh rất đa dạng
với các mảng hiện thực hết sức phong phú. Các mảng hiện thực được phản ánh vào trò
chơi coi là chủ đề của trò chơi. Do đó chủ đề của trò chơi cũng mang tính muôn mầu,
muôn vẻ.
Cụ thể như: Chủ đề sinh hoạt gia đình, chủ đề bán hàng, chủ đề bệnh viện, chủ
đề dạy học…Phạm vi hiện thực mà trẻ tiếp xúc càng rộng bao nhiêu thì các chủ đề của
trò chơi càng đa dạng phong phú bấy nhiêu. Số lượng chủ đề chơi của trẻ được tăng
dần cùng với sự phát triển của chúng.
Chủ đề chơi được phát triển không chỉ theo số lượng mà còn được phức tạp hoá
dần và được mở rộng ra. Chẳng hạn cũng là trò chơi theo chủ đề sinh hoạt gia đình,

nhưng ở trẻ MGB thường chỉ thể hiện rất đơn giản như: Mẹ cho con ăn, mẹ bế con,
cho con ngủ, còn đến MGN – MGL không chỉ dừng ở quan hệ mẹ con mà còn mối
quan hệ với những nhân vật khác nữa: Mẹ đưa con đi học gặp cô giáo, mẹ đưa con đi
siêu thị, mẹ đưa con đi khám bệnh, đi chơi công viên. Như vậy cùng một chủ đề chơi
nhưng ở mỗi lứa tuổi trẻ lại tái tạo các mặt rất khác nhau của hiện thực cuộc sống, ở
lứa tuổi sau thì càng sâu sắc, phong phú hơn lứa tuổi trước.
Chính vì thế bên cạnh các chủ đề chơi ta phải chú ý đến mặt nội dung chơi. Nội
dung của trò chơi là những hoạt động của người lớn mà đứa trẻ nhận thức được và
phản ánh vào trò chơi của mình. Đó là những hoạt động của người lớn với các đồ vật,
mối quan hệ giữa người với người, những yếu tố đạo đức thẩm mỹ.
Chẳng hạn, trò chơi: “Lái tàu hoả” ở các độ tuổi khác nhau thì diễn ra khác
nhau. Với MGB chỉ dừng lại ở chỗ bắt trước hành động của người lái tàu, người đi tàu.

Nổi lên ở đây là hành động thực của người lớn với các đối tượng mà trẻ bắt trước
được. Việc tái tạo lại những hành động ấy trở thành nội dung cơ bản trong trò chơi của
MGB. Cùng với trò chơi này ở MGL thì nổi bật lên hàng đầu là mối quan hệ xã hội,
giữa những người trên tàu hoả: ai là người lái tàu, ai là nhân viên trên tàu, ai là hành
khách và quan hệ của họ ra sao…Bên cạnh đó trẻ còn quan tâm đến những mối quan
hệ bên trong như về mặt tình cảm, đạo đức của những mối quan hệ đó.
Chính vì vậy với nội dung trò chơi ta cần phải xem xét khía cạnh tích cực hay
tiêu cực của mảng hiện thực mà trẻ em tái tạo bởi lẽ đời sống xã hội người lớn hết sức
phong phú và phức tạp. Bên cạnh những việc tốt, người tốt còn có bao yếu tố tiêu cực
xen lẫn vào. Điều này cũng được phản ánh nhạy bén vào trò chơi của trẻ em. Nếu
không quan tâm giáo dục thì trẻ có thể chơi những trò chơi tiêu cực như: say rượu, bố
mẹ cãi nhau hoặc cảnh đánh chửi nhau…

12


Vai trò của người giáo dục không những giúp trẻ có được những chủ đề chơi
ngày càng phong phú, rộng lớn mà còn giúp trẻ nắm được những hành động của người
lớn trong cuộc sống thực, hiểu được những mối quan hệ qua lại giữa người lớn trong
xã hội theo chức năng của mỗi người và đặc biệt là giúp trẻ biết phân biệt được cái
xấu, cái đẹp, cái đúng, cái sai trong những quan hệ ấy, nhằm giúp trẻ tái tạo được cái
hay, cái đẹp trong mảng hiện thực xung quanh và tránh bắt chước hành vi sai trái thô
bạo mà trong xã hội vẫn còn tồn tại.
* Vai chơi và hành động chơi
Như chúng ta đã biết, trò chơi đóng vai theo chủ đề xuất hiện là để thoả mãn

nhu cầu của trẻ muốn được giống người lớn. Trong thực tế, trẻ chưa thực hiện một
chức năng xã hội của một người nào đó mà trẻ đã trông thấy bằng cách nhập vào một
vai tức là ướm mình vào vị trí của người lớn và bắt chước hành động của người đó, vai
chơi là yếu tố quan trọng để tạo nên trò chơi. Đóng vai có nghĩa là tái tạo hành động
của một người lớn với đồ vật trong những mối quan hệ nhất định với những người
xung quanh. Trong vui chơi trẻ nhận làm một chức năng xã hội của một người nào đó,
thường là chức năng mang tính chất nghề nghiệp như lái xe dạy học, chữa bệnh, bán
hàng… Đây chính là con đường để trẻ thâm nhập vào cuộc sống của người lớn xung
quanh.
Muốn trở thành một vai trò trong trò chơi, điều quan trọng nhất là phải biết thực
hiện hành động của vai đó. Ví dụ: Bác sĩ phải biết khám bệnh, người bán hàng là phải
biết bán hàng… Những hành động này phải xuất phát từ hành động thực tế mà trẻ đã

trông thấy trong cuộc sống đời thực hay nghe kể lại, nhưng thao tác của hành động lại
phụ thuộc vào đồ chơi. Chẳng hạn trong trường hợp trẻ lấy gậy thay cho con ngựa, khi
đó thao tác của trẻ phải phù hợp với cái gậy chứ không phải là con ngựa. Điều này
chứng tỏ hành động chơi và cả thao tác chơi đều phải phù hợp với điều kiện thực tế.
Vai chơi trong trò chơi, quy định hành động của trẻ đối với đồ vật và cả hành động của
trẻ đối với bạn cùng chơi.
Tuy nhiên đây chỉ là hành động mô phỏng, nó không hoàn toàn giống như hành
động của người lớn, bởi vì mục đích của hành động chơi không nhằm vào kết quả mà
nhằm vào chính quá trình chơi. Do đó hành động chơi không đòi hỏi phải có thao tác
đúng kỹ thuật mà chỉ cần phỏng theo hình thức của nó và mang tính khái quát.
Chính tính khái quát mang tính ước lệ của hành động chơi cho phép trẻ tiến
hành trò chơi trong các điều kiện các đồ chơi khác nhau. Ví dụ: Khi làm đoàn tàu trẻ

có thể dùng ghế xếp thành dãy mà cũng có thể dùng nhiều khối gỗ xếp thành hàng…
*Những mối quan hệ qua lại của trẻ trong trò chơi
13


Trò chơi là một hoạt động chung đầu tiên và cơ bản của trẻ MG, trong đó có hai
mối quan hệ qua lại giữa những trẻ cùng tham gia trò chơi đó là quan hệ thực và quan
hệ chơi.
Những quan hệ chơi: Đó là những quan hệ qua lại của các vai trong trò chơi
theo một chủ đề nhất định mô phỏng lại mối quan hệ của người lớn trong xã hội như
quan hệ giữa mẹ và con trong trò chơi gia đình, quan hệ giữa người mua và người bán
trong trò chơi bán hàng…Đó là những quan hệ được trẻ quan tâm và trở thành đối

tượng hành động của chúng.
Những quan hệ thực: Đó là những quan hệ qua lại giữa những trẻ là những
người cùng tham gia vào trò chơi, những người bạn cùng thực hiện một cộng việc
chung, trẻ tập hợp nhau thành nhóm để bàn bạc với nhau về chủ đề chơi, về việc phân
vai, thoả thuận với nhau về quy tắc, hành vi của vai này, vai nọ và giải quyết các vấn
đề nảy sinh trong quá trình chơi.
Trò chơi đóng vai theo chủ đề là mô hình của những quan hệ xã hội của người
lớn và là phương tiện định hướng cho trẻ em vào những mối quan hệ ấy. Trong đó trò
chơi đóng vai theo chủ đề, các quan hệ được hiện ra rõ rệt. Việc thực hiện hành động
của vai chơi là phải tạo ra các mối quan hệ với các vai khác nhau, sức sống của trò
chơi đóng vai theo chủ đề là ở chỗ nó tạo ra được những mối quan hệ giữa các vai. Đó
chính là bản chất xã hội của trò chơi đóng vai theo chủ đề.

Trò chơi của trẻ đó chính là cái xã hội người lớn thu nhỏ lại và cũng chứa đầy
những mối quan hệ phức tạp. Những mối quan hệ xã hội được mô phỏng vào trò chơi
có một đặc điểm đáng lưu ý là nó làm nảy sinh luật lệ hành động của các vai, buộc trẻ
phải tuân theo như là những quy tắc xã hội (luật chơi), chơi như thế đứa trẻ tự nguyện
chấp nhận những chuẩn mực của cuộc sống xã hội, của những quan hệ giữa người lớn
với nhau, giữa trẻ em với người lớn, giữa trẻ với trẻ…Chẳng hạn khi chơi trò chơi
“bán hàng” người mua phải trả tiền (dù tiền chỉ là mảnh giấy nhỏ) mới được lấy hàng,
vì nếu không tuân theo luật lệ ấy thì bị coi là đồ ăn cắp. Như vậy luật lệ hành động của
các vai được nảy sinh từ các mối quan hệ được xác lập giữa những đứa trẻ tham gia
vào trò chơi. Những trò chơi theo nhóm như vậy làm bộc lộ lên những mối quan hệ xã
hội rõ ràng và hành vi của trẻ phải phục tùng các luật lệ do các mối quan hệ đó quy
định sự phát triển đó là điều kiện quan trọng nhất để nhận biết chính nguyên lý của

luật chơi và đó cũng là cơ sở làm nảy sinh ra bản thân: “Trò chơi có luật”.
* Đồ chơi và hoàn cảnh chơi
Để một buổi hoạt động vui chơi được tiến hành đúng luật có kết quả tốt trước
hết phải có đồ chơi, có 2 loại đồ chơi:

14


Một loại là do người lớn làm cho trẻ, mô phỏng theo những đồ vật thực, như con
búp bê, đồ dùng nấu ăn bằng nhựa, đồ chơi bác sĩ, các loại phương tiện giao thông…
Một loại là những vật thay thế cho đồ vật thực, trong khi thực hiện hành động
của vui chơi trẻ không có được những đồ vật tương ứng. Để cho hành động được tiến

hành theo chủ đề và nội dung chơi đã được đặt ra, trẻ cần phải lấy các đồ vật khác để
thay thế cho các đồ vật thực tương ứng. Chẳng hạn trẻ dùng cái gối thay cho em bé
dùng ghế thay cho toa tàu, dùng gậy thay cho con ngựa…
Do đồ chơi không: phải là đồ vật thực tương ứng với hành động của vai mà chỉ
là vật thay thế nên khi trẻ thao tác với đồ vật thay thế thì những thao tác này khôn
tương ứng với hành động chơi từ đó buộc trẻ phải tượng tưởng ra một hoàn cảnh chơi
tương ứng, chẳng hạn khi đóng vai người lái xe do không có “vô lăng” thực mà chỉ là
vật thay thế bằng chiếc ghế, trẻ cầm vào thành ghế thay cho vô lăng mồm kêu “píp
píp” thay cho tiếng còi ôtô, từ đó nảy sinh ra một hoàn cảnh tưởng tượng ở trong đầu
đứa trẻ đang lái ôtô.
Nhiều công trình nghiên cứu trò chơi của trẻ Mẫu Giáo đã nhận định rằng: Do
đồ chơi là vật thay thế nên thao tác chơi của trẻ không trùng khớp với hành động chơi,

đó là lý do làm nảy sinh hoàn cảnh tưởng tượng (tức là hoàn cảnh chơi). Từ đó cần
phải nhấn mạnh rằng hành động chơi không được sinh ra từ hoàn cảnh tưởng tượng
mà ngược lại, hoàn cảnh tưởng tượng lại trùng khớp với hành động của vai. Nói cách
khác hoạt động chơi của trẻ đã tạo ra kết quả là hoàn cảnh tưởng tượng
(A.N.Lêonchiep) có nghĩa là hoạt động chơi làm nảy sinh trí tưởng tượng chứ không
phải trí tưởng tượng có trước khi chơi, mà nó là kết quả của hoạt động chơi. Điều đó
được chứng minh bằng nhiều thực nghiệm và quan sát. Ta dễ dàng nhận thấy khi trẻ
không chơi thì không tưởng tượng ra hoàn cảnh chơi.
Như vậy là nếu trẻ không được chơi thì không nảy sinh ra hoàn cảnh chơi
tưởng tượng.
1.2.5.3. Đặc điểm của trò chơi ĐVTCĐ
Trò chơi này được coi là trò chơi đóng vai theo chủ đề trước hết là vì trò chơi

này bao giờ cũng có chủ đề. Chủ đề của trò chơi muôn màu muôn vẻ, trẻ tái hiện lại
những sinh hoạt của người lớn. Chẳng hạn chủ đề “Gia đình”, “Bán hàng”, “Bác sĩ”…
Trong khi chơi phản ánh cuộc sống xung quanh rất đa dạng với các mảng hiện thực hết
sức phong phú. Các mảng hiện thực được phản ánh vai trò chơi được gọi là chủ đề
chơi. Phạm vi hiện thực mà trẻ tiếp xúc càng rộng bao nhiêu thì các chủ đề của trò
chơi càng phong phú bấy nhiêu. Trong khi chơi, mọi hoạt động của trẻ đều xoay quanh
chủ đề của trò chơi dựa vào những biểu tượng sinh động của chính các cháu về cuộc
sống đang diễn ra hàng ngày. Trẻ càng lớn thì chủ đề chơi càng trở nên sâu rộng.
15


Để trò chơi đóng vai theo chủ đề được thực hiện trẻ cần phải đóng vai tức là

ướm mình vào vị trí của một người lớn nào đó và bắt trước hành động của họ như là
để thực hiện các chức năng xã hội. Vui chơi là yếu tố quan trọng để tạo nên trò chơi,
trong vui chơi, trẻ thường thực hiện một công việc nào đó mang tính chất nghề nghiệp
như lái xe, bán hàng, dạy học, chữa bệnh…
Đóng vai là con đường để trẻ thâm nhập vào cuộc sống của người lớn xung
quanh. Trò chơi đóng vai theo chủ đề có thành công hay không điều đó phụ thuộc
phần lớn vào việc trẻ có đóng được vai hay không?
Trò chơi đóng vai theo chủ đề là loại trò chơi mô phỏng cuộc sống xung quanh
của người lớn mà hoạt động của họ trong xã hội lại không mang tính chất riêng lẻ và
đơn độc. Trong xã hội, hoạt động của mỗi con người bao giờ cũng liên quan đến nhiều
người khác, nghĩa là hoạt động của con người bao giờ cũng mang tính hợp tác. Sự hợp
tác giữa nhiều người trong một cộng đồng hoặc giữa nhóm này với nhóm khác là đặc

trưng của xã hội loài người. Bởi vậy để tiến hành trò chơi đóng vai theo chủ đề cần
phải có nhiều trẻ em cùng tham gia, cùng hoạt động với nhau nghĩa là có bạn để cùng
chơi do đó một “xã hội trẻ em” được hình thành. Tính hợp tác là một nét phát triển
mới một nét tiêu biểu trong hoạt động vui chơi của trẻ MG. Bản chất của trò chơi đóng
vai theo chủ đề là mô hình hoá những quan hệ xã hội mà trẻ chịu sự chi phối của
chúng. Ðó là những quan hệ giữa người lớn với nhau trong xã hội được trẻ em quan
tâm và trở thành đối tượng hành động của chúng.
Trong đó chơi đóng vai theo chủ đề, các mối quan hệ xã hội được bộc lộ ra rõ
rệt. Sức sống của trò chơi đóng vai theo chủ đề là ở chỗ nó tạo ra các mối quan hệ giữa
các vai chứ không phải là hành động đối với các đồ vật, đành rằng khi đóng vai trẻ
cũng hành động với đồ vật như người lớn. Hãy quan sát trò chơi theo chủ đề “Bệnh
viện”. Em bé đóng vai bác sĩ, đội mũ, mặc áo choàng, đeo khẩu trang, trong tay cầm

cái ống nghe (làm bằng nhựa) đặt lên ngực, lên lưng người bệnh, sau đó ngồi vào bàn
ghi đơn…
Chuỗi thao tác đó chỉ thuần về kỹ thuật, về nghĩa. Điều đó vẫn chưa nói lên bản
chất của trò chơi đóng vai theo chủ đề. Khâu quan trọng nhất của trò chơi này là hành
động ân cần của bác sĩ với “người bệnh”, bác sĩ vỗ nhẹ tay vào vai “người bệnh” nói
với giọng thương cảm, như: “Tôi đã khám bệnh cho bác rồi, bác hãy cầm lấy đơn ra
quầy thuốc mua về uống là khỏi ngay thôi mà” Đây chính là cái ý của trò chơi, là cái
bản chất nhất của nó. Đối mới là một mặt xã hội được thể hiện ở thái độ, động cơ ở
những mối quan hệ mà trẻ thiết lập được giữa các vai.
Mỗi trò chơi đều có 2 mặt: Mặt thứ nhất là động cơ có tính xã hội, mặt thứ hai
là mặt kỹ thuật (bao gồm các thao tác) tức là nghĩa trò chơi đóng vai theo chủ đề chủ
16



yếu là nhằm vào “ý” tức là nhằm vào hình thành động cơ của trẻ em được biểu hiện
trong những mối quan hệ xã hội (dù chỉ mô phỏng). Tất nhiên nó bao gồm cả mặt kỹ
thuật, những thao tác đối với đồ vật, nhưng mặt này chỉ hỗ trợ cho mặt thứ nhất.
Điều quan trọng trong trò chơi đóng vai theo chủ đề là ý nghĩa xã hội của nó
được thể hiện trong các quy tắc mà ai cũng phải tuân theo (những quy tắc này được trẻ
em mô phỏng vào trò chơi như mua hàng phải trả tiền, đi đường bên phải…) chơi như
thế trẻ tự chấp nhận những chuẩn mực của đời sống xã hội, của những quan hệ người
lơn với nhau, giữa trẻ em với người lớn… từng tí một, trẻ chuyển những quan hệ xã
hội khách quan vào trong nhân cách của mình, tạo ra đời sống nội tâm, tạo ra sự trải
nghiệm. Kết quả là tạo ra một cách nhìn nhận bản thân mình tức là sự hình thành ý

thức cá nhân, cốt lõi trong nhân cách mỗi người
Trò chơi đóng vai theo chủ đề mang tính biểu tượng cao, đó là chức năng ký
hiệu tượng trưng, Trong khi chơi mỗi đứa trẻ đều tự nhận cho mình một vai trò nào đó
và thực hiện những hành động của vai. Nhưng đấy chỉ là hành động nhụ ý “giả vờ” mà
thôi, từ vai chơi, hành động chơi, đến những đồ chơi đều là giả vờ, đều mang tính
tượng trưng, nhưng lại rất thực đối với trẻ em, vì nó đã phản ánh thực tế cuộc sống, sự
kiện này đã cho ra đời một chức năng mới của ý thức. Đó là chức năng ký hiệu, tượng
trưng nhờ đó trẻ có thể bước sang một loại hình mới của việc nhận thức thế giới hiện
thực, một loại hình đặc trưng của con người, đó là sự nhận thức hiện tượng thông qua
một hệ thống ký hiệu. Chức năng ký hiệu tượng trưng cho phép trẻ tách hành động
khỏi đồ vật thật mà hành động với những vật thay thế. Ví dụ: trẻ phi ngựa bằng chiếc
gậy, thì hành động đó mất đi ý nghĩa thực tiễn của nó mà biến thành một ký hiệu đánh

dấu việc cưới ngựa và chiếc gây ở đây chỉ đồ vật thay thế cho con ngựa. Khi bắt đầu
biết dùng đồ vật thay thế cũng là lúc trẻ biết dùng những ký hiệu tượng trưng để nhận
thức thế giới. Nhờ đó các chức năng tâm lý bậc cao (như tư duy, tưởng tượng, tình
cảm…) đều được phát triển tốt.
Trẻ mẫu giáo đã có kỹ năng tổ chức trò chơi và chơi một cách độc lập sáng tạo
hơn. Nội dung chơi của trẻ cũng phong phú phản ánh cuộc sống sinh động của người lớn.
Khả năng phối hợp giữa các nhóm chơi ngày càng tốt hơn làm cho giờ chơi
ngày càng sôi nổi và nhộn nhịp hơn. Đây là giai đoạn phát triển nhất của trò chơi đóng
vai theo chủ để.Trong khi chơi, khả năng tự tổ chức, tự đánh giá của trẻ ngày càng tốt
hơn. Đặc điểm khá nổi bật ở lứa tuổi mẫu giáo lớn là: trẻ đã ý thức được chơi chỉ là giả
vờ chứ không phải thật, do vậy tính tự do, tính sáng tạo trong khi chơi ngày càng cao.
1.2.5.4. Đặc điểm của trò chơi ĐVTCĐ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi

Trước tuổi mẫu giáo, trẻ chơi các trò chơi thao tác với đồ vật là chủ yếu, đến
cuối năm thư hai bắt đầu xuất hiện trò chơi mô phỏng, trẻ bắt chước một số hành động
17


của người lớn như giặt quần áo, quét nhà, đọc báo…Tất cả những điều này tạo điều
kiện cho trẻ chơi những trò chơi có vai ở lứa tuổi MG về sau này.
Vào tuổi MG trò chơi ĐVTCĐ xuất hiện, sự xuất hiện của trò chơi này gắn liền
với một số điều kiện sau đây: Trẻ biết thao tác thành thạo với đồ vật, đồ chơi, trẻ đã có
một số biểu tượng về cuộc sống của người lớn xung quanh và trẻ thường xuyên giao
tiếp với người lớn. Lúc này khả năng tự lập của trẻ đã phát triển hơn hai lứa tuổi trước
đó. Trẻ bước đầu đã biết đóng vai hành động phù hợp với vai chơi của mình.

Cuối năm thứ ba, trò chơi ĐVTCĐ của trẻ có bước tiến nhảy vọt, trẻ đã xác
định vai bằng lời (là mẹ, là bác sĩ…) sau khi đã thực hiện một vài hành động tương
ứng với vai chơi, trẻ biết xác định và hành động đúng với vai chơi. Cùng với việc nhập
vai, trẻ biết sử dụng chuyển hành động chơi từ vật này sang vật khác, biết sử dụng vật
thay thế trong khi chơi. Nội cung chơi vẫn là những hành động với đồ vật gắn liền với
việc trải nghiệm tình cảm của vai chơi (ví dụ: mẹ nấu bột cho con, mẹ ru con ngủ, bác
sĩ khám bệnh cho búp bê…). Trẻ thường chơi bên cạnh nhau, các hành động không
phụ thuộc vào nhau, trẻ chưa biết hòa thuận cùng chơi. Động cơ chơi của trẻ thường
gắn liền với hứng thú được hành động với đồ vật, đồ chơi khi chúng rơi vào tầm nhìn
của trẻ. Tóm lại vào cuối tuổi MGN trò chơi ĐVTCĐ trở nên hoàn thiện. Trẻ biết tự
điều khiển trò chơi của mình.
Vào tuổi mẫu giáo (5 – 6 tuổi), các nhóm chơi ổn định và bền vững trên cơ sở

của các nhóm chơi từ lớp nhỡ chuyển lên, dần dần xuất hiện nhiều trò chơi tập thể kéo
dài hằng tuần, hằng tháng, số lượng vai chơi đông, kéo theo sự chủ động và xuất hiện
chủ đề chơi mới, làm cho nội dung chơi trở nên đa dạng và phong phú hơn. Trẻ tự tổ
chức và điều khiển trò chơi không cần có sự hỗ trợ trực tiếp của người lớn, trẻ bắt đầu
chú ý đến chất lượng đóng vai, từ đó yêu cầu cụ thể cho mổi vai chơi, biết phân công
vai chơi nào cho ai là hợp lí, từ đó lựa chọn “thủ lĩnh” điều khiển trò chơi. Trong khi
chơi trẻ tích cực trao đổi, cùng nhau thỏa mãn bàn bạc dự định chơi, bổ sung phương
tiện chơi, dự kiến đưa thêm trò chơi mới…Giữa các nhóm chơi có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, phối hợp cùng nhau theo hướng một chủ đề chung dưới sự điều khiển
của “thủ lĩnh”. (Thủ lĩnh thường là một đứa trẻ giàu kinh nghiệm có khả năng thu hút
và điều khiển cuộc chơi). Trong quá trình chơi, trẻ biết nhận xét và đánh giá các bạn
khác cũng như biết nhận xét về bản thân mình.

1.2.6. Ý nghĩa của trò chơi ĐVTCĐ đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo
* Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo
Ở tuổi MG nhiều hoạt động phong phú đã xuất hiện như: (vui chơi, học tập, lao
động…) những hoạt động vui chơi mà trung tâm mà trò chơi đóng vai theo chủ đề
được coi là hình thức hoạt động coi là hình thức hoạt động chủ đạo. Vui chơi là hoạt
18


động chủ đạo không phải vì trẻ MG dành nhiều thời gian cho nó mà chính là trò ch ơi
đã gây ra những biến đổi về chất trong tâm lý của trẻ nó chi phối các dạng hoạt động
khác (học tập, lao động)…làm cho chóng mang màu sắc độc đáo của lứa tuổi MG.
Những hình thức trò chơi như trò chơi với đồ vật ở lứa tuổi thiếu nhi, trò chơi

có luật ở lứa tuổi học sinh hay người lớn là những dạng sơ khai hay biến dạng của trò
chơi. Trẻ MG cũng thích những loại trò chơi này nhưng hấp dẫn vẫn là trò chơi đóng
vai theo chủ đề là loại trò chơi mang đầy đủ ý nghĩa của việc chơi nó xuất hiện từ cuối
tuổi thiếu nhi nhưng chỉ đến lứa tuổi MGN, MGL mới đạt tới mức độ hoàn thiện.
Khi tham gia vào trò chơi ĐVTCĐ, trẻ được thoả mãn nguyện vọng được sống
và hoạt động như người lớn. Trò chơi này được mô phỏng lại hoạt động lao động của
người lớn và những mối quan hệ qua lại giữa họ trong xã hội, chẳng hạn trò chơi:
“Cửa hàng mua bán” mô phỏng lại quan hệ giữa người bán và người mua. Trong trò
chơi, lần đầu tiên những mối quan hệ giữa người với người được thể hiện khách quan
trước đứa trẻ. Qua trò chơi trẻ hiểu mỗi người trong xã hội đều có nghĩa vụ và quyền
lợi của mình. Rõ ràng trong trò chơi đóng vai theo chủ đề là một hình thức độc đáo của
sự tiếp xúc giữa trẻ với cuộc sống người lớn. Trong khi chơi trẻ tái tạo lại đời sống xã

hội và qua đó trẻ học cách làm người.
* Trò chơi ĐVTCĐ có ảnh hưởng mạnh tới sự hình thành tính chủ định của quá
trình tâm lý
Trong khi chơi, trẻ bắt đầu hình thành chú ý có chủ định và ghi nhớ có chủ
định. Khi chơi trẻ tập trung chó ý tốt hơn và ghi nhớ được nhiều hơn. Bởi vì bản thân
trò chơi đòi hỏi trẻ phải tập trung vào những đối tượng được đưa vào tình huống của
trò chơi và nội dung của chủ đề. Nếu đứa trẻ không chú ý và nhớ điều kiện của trò chơi
thì nó sẽ hành động lung tung và có nguy cơ bị các bạn cùng chơi đuổi đi. Để trò chơi
được thành công buộc đứa trẻ phải tập trung chó ý và ghi nhớ một cách có mục đích.
*Ảnh hưởng của trò chơi ĐVTCĐ tới sự phát triển của hoạt động trí tuệ của trẻ
Trong trò chơi đứa trẻ hành động với đồ vật thay thế mang tính chất tượng
trưng. Vật thay thế trở thành đối tượng của tư duy, trong khi hành động với vật thay

thế trẻ em học suy nghĩ về đối tượng thực. Dần dần những hành động chơi vơi các vật
thay thế được rút gọn và mang tính khái quát, nhờ đó hành động chơi này được chuyển
vào bình diện bên trong như vậy trò chơi góp phần rất lớn vào việc chuyển từ duy từ
bình diện bên ngoài (tư duy trực quan hành động) vào bình diện bên trong (tư duy trực
quan hình tượng). Trò chơi còn giúp cho trẻ tích luỹ biểu tượng làm cơ sở cho hoạt
động tư duy. Đồng thời những kinh nghiệm được rót ra từ các mối quan hệ qua lại
trong lúc chơi cho phép đứng trên quan điểm của người khác để tiên đoán hành vi

19


tương lai của họ và trên cơ sở đó mà lập kế hoạch hành động và tổ chức hành vi của

bản thân mình.
Khi tham gia vào trò chơi về những quan hệ với các bạn cùng chơi buộc trẻ
phải đem những hành động của mình phục tùng những yêu cầu nhất định bắt nguồn tù
ý đồ chung của cuộc chơi, do đó buộc trẻ phải điều tiết hành vi của mình theo quan hệ
giữa vai mình đóng với các vai khác sao cho phù hợp với những quy tắc của trò chơi,
qua trò chơi trẻ còn được hình thành những phẩm chất ý chí như mục đích, tính kỷ
luật, tính dũng cảm. Những đức tính này do nội dung trò chơi và vai chơi quyết định.
Nhờ có trò chơi ĐVTCĐ trẻ em không tự coi mình là chính mình như lúc còn 3
tuổi mà là người khác, như một nhân vật của đời sống xã hội, đảm nhiệm một chức
năng xã hội, Thế là bằng trò chơi trẻ em tự biến mình thành một nhân vật của xã hội,
một con ngýời nhý mọi ngýời, Trò chơi là phương tiện phát triển toàn diện nhân cách
của trẻ, qua việc phát triển các chức năng tâm lý: Đức- Trí, Thể- Mỹ.

Trò chơi ĐVTCĐ của trẻ mẫu giáo vì nó tạo ra những nét tâm lý đặc trưng cho
tuổi mẫu giáo mà nổi bật hơn hết là tính hình tượng và tính cảm xúc, khiến cho nhân
cách của trẻ mẫu giáo mang tính độc đáo khó tìm thấy ở các lứa tuổi khác. Khi đã xác
định được vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo thì việc tổ chức các trò chơi
cho trẻ là cực kỳ quan trọng và có ý nghĩa giáo dục to lớn. Tổ chức trò chơi chính là tổ
chức cuộc sống của trẻ, trò chơi là phương tiện để trẻ học làm người.
AX.Macaren đã viết: “Trò chơi có một ý nghĩa rất quan trọng đối với trẻ” ý
nghĩa này chẳng khác gì ý nghĩa của sự hoạt động, sự làm việc và sự phục vụ đối với
người lớn. Đứa trẻ thể hiện như thế nào trong trò chơi thì sau này phần lớn trường hợp
nó cũng thể hiện như thế trong cuộc sống. Vì vậy, một nhà hoạt động trong tương lai
trước tiên phải được giáo dục trong trò chơi. Toàn bộ lịch sử của mỗi người là một nhà
hoạt động hay một cán bộ, có thể quan niệm như một quá trình phát triển của trò chơi,

một sự chuyển dịch dần từ sự tham gia vào trò chơi là trường học của cuộc sống.
Trong hoạt động vui chơi, thì nhu cầu được chơi với nhau, được giao tiếp với
bạn bè là rất cần thiết, vì thế người lớn cần chú ý tạo điều kiện để trẻ được giao lưu
cùng nhau, được liên kết chia sẻ với nhau qua các chủ đề chơi. Từ đó những “xã hội
trẻ em” thực sự được hình thành. Những “xã hội trẻ em” này còn khác xa với xã hội
người lớn, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Thực và chơi, chơi và thực. Đó là cái tính độc đáo
của cái xã hội ấy. Nhưng chính những mối quan hệ đầu tiên trong bạn bè này lại có
một ý nghĩa rất lớn lao đối với cả một đời người sau này. ở đây trẻ vừa là sản phẩm
vừa là người tái tạo ra những mối quan hệ đó. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với
sự hình thành nhân cách.

20



×