Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm thủy hải sản vn trên thị trường mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.77 KB, 77 trang )

Chuyên đề thực tập
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT
HÀNG THUỶ SẢN VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ
1.1. Lý luận chung vê cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1. Cạnh tranh
1.1.1.1.Khái niệm
Cạnh tranh luôn tồn tại không chỉ trong tự nhiên giữa các loài để dành
lấy sự sống, mà cạnh tranh còn diễn ra gay gắt, quyết liệt hơn trong xã hội loài
người. Cạnh tranh diễn ra trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế.
Và cạnh tranh là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường hiện
nay. Có rất nhiều khái niệm về cạnh tranh, các học giả thuộc trường phái tư
sản cổ điển thì cho rằng: "Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi
phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường một dư địa
hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so
với khả năng của mình".
Theo định nghĩa khác thì cạnh tranh là cuộc đấu tranh đối kháng giữa
các nhà sản xuất hàng hóa nhằm nhằm giành điều kiện thuận lợi nhất về sản
xuất và tiêu thụ hàng hóa nhằm thu lợi nhuận tối đa.
Theo từ điển kinh doanh của Anh (1992) khái niệm cạnh tranh được
định nghĩa như sau: “Cạnh tranh (competion) là sự ganh đua, sự kình địch
giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài
nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”. Trong kinh
doanh cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa, dịch vụ để giành
lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế. Có thể nói rằng, mục đích trực tiếp của
hoạt động cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể là giành lợi thế để hạ thấp


Chuyên đề thực tập
giá các yếu tố đầu vào, và nâng giá đầu ra sao cho mức chi phí là thấp nhất, lợi
nhuận là cao nhất. Cạnh tranh giúp phân bổ các nguồn lực xã hội một cách tối
ưu nhất. Cạnh tranh là yếu tố thúc đẩy quá trình tích lũy và tập trung tư bản


không giống nhau ở các doanh nghiệp. Cạnh tranh còn là môi trường phát
triển mạnh mẽ cho các doanh nghiệp có khả năng thích nghi cao, những doanh
nghiệp có khả năng thích nghi với điều kiện thị trường thấp sẽ bị đào thải.
Cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực cho sự phát triển.
Các khái niệm cạnh tranh kể trên đều chưa thực sự đầy đủ. Ngoài ra, ở
mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì quan niệm và nhận thức về cạnh tranh là
khác nhau và phạm vi cũng như cấp độ cũng khác nhau.
Xét theo hướng tiếp cận của đề tài này, khái niệm cạnh tranh có thể
được hiểu như sau:
Cạnh tranh là một quá trình tranh đấu, các chủ thể kinh tế ganh đua
nhau và tìm mọi biện pháp để đạt được mục tiêu mục tiêu trước mắt cũng như
mục tiêu lâu dài đã được đề ra. Vậy thì, thực chất của cạnh tranh là sự tranh
giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị trường. Mỗi chủ thể đều
mong muốn có lợi ích về mình. Người bán thì muốn tối đa hoá lợi nhuận bằng
cách bán với giá cao còn người mua thì muốn tối đa hoá lợi ích của mình bằng
cách mua hàng hoá tốt và rẻ ( lợi ích tiêu dùng ). Giữa người bán diễn ra sự
cạnh tranh gay gắt vì mục tiêu lợi nhuận, họ tìm cách giảm chi phí và giành
khách hàng về mình.
Cạnh tranh hàng hóa là hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người
sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhằm
giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Mục
tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận tối đa, bảo đảm sự tồn tại và


Chuyên đề thực tập
phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh. Tuy nhiên, điều kiện của thị trường
để thực hiện mục tiêu đó lại có hạn. Do đó, người sản xuất kinh doanh phải
tìm cách giành khách hàng bằng sản phẩm, dịch vụ tốt, giá cả hợp lý và tạo
được uy tín với khách hàng.
Như vậy, cạnh tranh hàng hoá là quy luật khách quan của nền sản xuất

hàng hoá, nền sản xuất càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng
người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt, quyết liệt kết quả của
cạnh tranh sẽ loại dần những hàng hoá kém chất lượng không được khách
hàng chấp nhận và tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của những hàng
hoá có chất lượng tốt. Có thể nói rằng cạnh tranh giữa những người bán quyết
liệt sẽ có lợi hơn cho khách hàng, được sử dụng hàng hóa tốt với giá rẻ, được
nhận những dịch vụ tốt trước, trong và sau bán.
Trong phạm vi của đề tài sẽ xem xét tới cạnh tranh hàng hóa chi tiết
hơn.
• Vai trò, phân loại cạnh tranh hàng hóa
Cạnh tranh hàng hóa có những vai trò sau:
Cạnh tranh hàng hoá là động lực cho sự phát triển kinh tế. Một mặt nó
giúp loại bỏ những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, mặt khác nó tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả có cơ hội phát triển.
Cạnh tranh hàng hoá rút ngắn khoảng cách từ sản xuất tới tiêu dùng,
do cạnh tranh ngày càng quyết định các doanh nghiệp phải tìm hiểu nghiên
cứu nhu cầu để có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách nhanh nhất
và hiệu quả nhất. Doanh nghiệp sẽ tìm mọi cách để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu
của khách hàng.


Chuyên đề thực tập
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải cắt giảm chi phí sản xuất sản
phẩm, tăng năng suất nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, cũng
như cung cấp cho khách hàng những sản phẩm tốt với giá rẻ hơn đối thủ cạnh
tranh. Để đạt được mục tiêu, doanh nghiệp buộc phải sử dụng hợp lý nguyên
liệu đầu vào, tránh lãng phí. Đồng thời, đổi mới công nghệ sản xuất, mua sắm
dây chuyền công nghệ hiện đại nhằm tăng năng suất chất lượng sản phẩm.
Như vậy, cạnh tranh hàng hoá buộc các doanh nghiệp phải sử dụng tài nguyên
có hiệu quả hơn và phải áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất.

1.1.1.2 Phân loại cạnh tranh
Tùy vào giác độ nghiên cứu, có thể phân loại cạnh tranh theo các
tiêu thức chủ yếu sau:
* Xét theo chủ thể cạnh tranh:
Xét theo chủ thể cạnh tranh sẽ có các loại hình:
Thứ nhất: Cạnh tranh giữa người bán với người mua: Là cuộc cạnh
tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. Người bán luôn mong muốn bán
hàng hoá của mình với giá cao nhất, còn người mua lại muốn mua ở mức giá
thấp nhất.
Thứ hai: Cạnh tranh giữa những người mua: Là cuộc cạnh tranh trên
cơ sở quy luật cung cầu. Khi cung một loại hàng hoá dịch vụ nào đó nhỏ hơn
mức cầu thì cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra quyết liệt hơn. Gía cả hàng hoá và dịch
vụ đó sẽ tăng nhanh. Kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao,
tuy nhiên người mua lại phải chịu thiệt thòi.
Thứ ba: Cạnh tranh giữa những người bán: Là cuộc cạnh tranh gay go
và quyết liệt nhất. Cuộc cạnh tranh này thường diễn ra trong trường hợp cung


Chuyên đề thực tập
lớn hơn cầu. Thực chất cạnh tranh giữa những người bán là sự giành giật các
lợi thế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ nhằm thu được lợi nhuận
lớn nhất.
* Xét theo sự khác biệt về sở hữu tư liệu sản xuất của chủ thể kinh tế:
Các thành phần kinh tế đều nằm trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, có
mối liên hệ thống nhất và mâu thuẫn với nhau. Chính từ sự thống nhất và mâu
thuẫn này làm nảy sinh cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế với nhau.
* Xét theo tính chất của phương thức cạnh tranh:
Để cạnh tranh thành công không ít các chủ thể kinh tế đã dùng các biện
pháp cũng như thủ đoạn để đạt được mục tiêu của mình. Họ dùng các thủ
đoạn phi pháp nhằm tiêu diệt đối phương chứ không phải bằng nỗ lực thực sự

của chính mình gọi là cạnh tranh không lành mạnh(Healthy Competion). Cạnh
tranh mà sử dụng các thủ đoạn phi pháp nhằm tiêu diệt đối thủ cạnh tranh gọi
là cạnh tranh không lành mạnh( Unfair Competion)
1.1.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh
sản phâm thủy hải sản của quốc gia
Trong quá trình nghiên cứu về cạnh tranh, người ta đã sử dụng khái
niệm năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh được xem xét ở các góc độ
khác nhau như năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh
nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ... Ở luận văn này, sẽ
chủ yếu đề cập đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm .
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp cho cả
doanh nghiệp, ngành và quốc gia như sau: “Sức cạnh tranh là khả năng của


Chuyên đề thực tập
các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu
nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.” Định nghĩa này đã phản
ánh được khái niệm cạnh tranh quốc gia trong mối liên hệ gắn kết với hoạt
động cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và mức
sống nhân dân.
Năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh tranh; Anh: Competitive
Power) khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng
nghiệp (Từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB Từ điển Bách khoa Hà
Nội).
Theo định nghĩa này, có thể hiểu sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh
khả năng cạnh tranh, tính cạnh tranh đều có nội dung tương tự nhau và hiểu
tên của chúng một cách nhất quán trong đề tài này là "năng lực cạnh tranh".
Các cấp độ của cạnh tranh:

- Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
- Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ phân biệt trên đây có mối tương quan
mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
Trong phạm vi đề tài sẽ xem xét chủ yếu tới năng lực cạnh tranh của
sản phẩm mà cụ thể là năng lực cạnh tranh của sản phâm thủy hải sản


Chuyên đề thực tập
Khái niệm năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa là gì?
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ là cơ sở tạo nên sức cạnh
tranh của doanh nghiệp, của ngành và thể hiện tập trung ở các yếu tố: giá cả,
chất lượng, hệ thống phân phối và thương hiệu của doanh nghiệp.
Một hàng hóa được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng được
nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính độc
đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì.... hơn hẳn so với những sản phẩm
hàng hóa cùng loại. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa lại được
quyết định bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Không thể có năng lực
cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa cao trong khi doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh sản phẩm đó có năng lực cạnh tranh thấp.
Cạnh tranh về giá cả là một công cụ quan trọng để nâng cao năng lực
cạnh tranh của hàng hóa. Nếu hai hàng hóa cùng loại và có chất lượng như
nhau, thì hàng hóa nào được bán với giá thấp hơn sẽ thu hút được nhiều khách
hàng hơn. Giá cả hàng hóa được quyết định bởi giá thành của nó. Muốn hạ giá
thành sản phẩm thì doanh nghiệp phải cải tiến tổ chức quản lý sản xuất, đổi
mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, khai thác nguồn nguyên liệu đầu
vào với chi phí thấp...
Cạnh tranh về chất lượng là nội dung thứ hai có tính then chốt trong các

biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa. Hàng hóa có công dụng
như nhau, giá cả bằng nhau thì người tiêu dùng sẽ mua hàng hóa có chất lượng
cao hơn. Ngày nay hàng hóa có sức cạnh tranh cao phải là những hàng hóa
"xanh và sạch", đáp ứng được những yêu cầu khắt khe về vệ sinh an toàn thực
phẩm, về bảo vệ môi trường của các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật, EU…
Việc xây dựng thương hiệu tốt cũng giúp doanh nghiệp thu hút ngày càng


Chuyên đề thực tập
nhiều khách hàng và thâm nhập thành công thị trường các nước nhập khẩu.
Thương hiệu là một tài sản vô hình có ảnh hưởng quan trọng đến quyết định
mua hàng của người tiêu dùng. Thương hiệu nổi tiếng sẽ ăn sâu vào trí nhớ
người tiêu dùng và với sức mạnh của thương hiệu, sản phẩm tạo ra giá trị gia
tăng (GTGT) không chỉ ở giá mà còn ở niềm tin người tiêu dùng.
Cạnh tranh về hệ thống phân phối, dịch vụ bán hàng ngày càng đóng vai
trò quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, đặc
biệt trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế tất yếu trong nền kinh
tế thế giới hiện nay. Khâu phân phối sản phẩm có ý nghĩa quan trọng, là cầu
nối giữa người sản xuất với người tiêu dùng. Trong điều kiện hàng hóa được
sản xuất từ nhiều doanh nghiệp với các chủng loại đa dạng và phong phú như
hiện nay, thì công tác tiếp cận thị trường, giới thiệu sản phẩm phải được chú
trọng đúng mức. Hệ thống phân phối được thiết kế hợp lý, phân định được
kênh phân phối chủ lực và các kênh phân phối phụ trợ có ý nghĩa quan trọng
trong việc giảm chi phí tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của hàng hóa trên thị trường
.1.2.Mặt hàng thủy sản và nâng cao NLCT mặt hàng thủy sản
1.2.1.Đặc điểm của mặt hàng thủy sản
Sản phẩm thủy hải sản bao gồm sản phẩm thủy hải sản tự nhiên dược đánh bát
từ biển hoặc những vùng nước ngọt trong đất liền và các sản phẩm thủy hải
sản nuôi trồng. Thuật ngữ "sản phẩm thủy hải sản " bao gồm các loài cá. động

vật thân mềm. loài giáp xác và ba nhóm động vật chính sống trong nước được
sử dụng làm thực phẩm phục vụ mục đích kinh doanh thương mại. Định
nghĩa này loại trừ các loài động vật có vú sống dưới nước, ếch và các động vật
sống trong nước khác cần được bảo vệ bởi các biện pháp cụ thể: bị hạn chế


Chuyên đề thực tập
hoặc cấm sử dụng vì mục đích thương mại. Định nghĩa này cũng không bao
gồm các loài cổ cảnh do những loài này hiển nhiên không được sử dụng làm
thực phẩm nhưng được kinh doanh Ở một thị trường khác biệt.
Theo triển vọng toàn cầu, tôm biển loại nhỏ là nhóm sản phẩm quan trọng
nhất trong kinh doanh, tiếp theo là cá hồi, cá moruy, cá meluc, cá êfin và cá
ngừ Califonia. Một cách phân loại thường được sử dụng khác là loại sống gần
mặt nước biển (sống tự nhiên Ở biển), loại sống Ở sâu dưới lòng biển (khu
vực ven biển) và

cá nước ngọt; động vật chân đầu (động vật chân đầu như

mực và các loài động vật chân đầu khác như trai); và các loài giáp xác (tôm
biển loại nhỏ. tôm panđan và các loài giáp xác khác như cua và tôm hùm).
1.2.2.. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh hàng thủy sản
xuất khẩu
Cũng như các thuật ngữ kinh tế khác, khái niệm xuất khẩu hàng hóa được
phân tích dưới các góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, khái quát về xuất
khẩu hàng hóa được hiểu là việc bán hàng hóa cho nước ngoài trên cơ sở dùng
tiền làm phương tiện thanh toán. Mục đích của hoạt động xuất khẩu hàng hóa
là khai thác lợi thế của các quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Thực
chất của hoạt động xuất khẩu hàng hóa là sự trao đổi lao động kết tinh vào
hàng hóa giữa các quốc gia. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia phát
huy được thế mạnh của mình để sản xuất những mặt hàng có lợi thế so sánh để

bán ra thị trường quốc tế và nhập khẩu về những sản phẩm phục vụ cho sản
xuất và tiêu dùng mà trong nước không có thế mạnh sản xuất.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế ngày càng mở rộng và có tác động mạnh
mẽ đến tất cả các nền kinh tế trên thế giới như hiện nay, quá trình phân công


Chuyên đề thực tập
lao động trên phạm vi quốc tế ngày càng trở nên sâu sắc. Điều đó dẫn đến các
quốc gia, các doanh nghiệp ngày càng có nhiều cơ hội để tham gia vào thị
trường thế giới, tập trung sản xuất và xuất khẩu ra thế giới những mặt hàng
mình có lợi thế. Nhưng mặt khác, tính gay gắt trong cạnh tranh giữa các quốc
gia, các doanh nghiệp trong xuất khẩu những chủng loại hàng hóa tương tự
nhau ra thị trường thế giới, cũng ngày càng tăng lên. Để hàng hóa xuất khẩu
của doanh nghiệp thâm nhập và đứng vững trên thị trường quốc tế, tất yếu
phải nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng, từ đó có các biện pháp thích hợp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Mỗi chủng loại
hàng hóa xuất khẩu có những đặc điểm riêng, do vậy để nâng cao năng lực
cạnh tranh của một chủng loại hàng xuất khẩu, thì một mặt phải chú ý đến các
yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung, mặt
khác phải hết sức chú trọng đến các yếu tố đặc thù đối với chủng loại hàng
hóa đó.
Thủy sản là một ngành sản xuất nông nghiệp chuyên môn hóa hẹp, với các sản
phẩm chủ yếu phục vụ cho nhu cầu ăn - một nhu cầu thiết yếu của con người,
các sản phẩm của ngành thủy sản rất đa dạng như các loài tôm, cá, nhuyễn thể
và các loại thủy sản đặc biệt khác. Xuất khẩu thủy sản là việc bán ra nước
ngoài những hàng hóa thủy sản được khai thác, nuôi trồng, chế biến ở trong
nước. Cũng như việc xuất khẩu các hàng hóa khác, xuất khẩu thủy sản có tác
dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, mang lại nguồn thu ngoại tệ,
góp phần tăng tích lũy vốn cho người sản xuất, người xuất khẩu và cho nền
kinh tế nói chung. Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu chịu ảnh

hưởng của các nhân tố tác động đến hàng hóa xuất khẩu nói chung và những
nhân tố riêng có, phù hợp với đặc thù của ngành thủy sản. Các yếu tố ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu có thể được chia


Chuyên đề thực tập
thành hai nhóm chủ yếu đó là các yếu tố thuộc môi trường cạnh tranh và các
yếu tố thuộc về hàng hóa.
1.2.2.1. Các yếu tố thuộc môi trường cạnh tranh
- Điều kiện tự nhiên: Các yếu tố về điều kiện tự nhiên thuận lợi như vị trí địa
lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao
khả năng cạnh tranh.Vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi
phí vận chuyển dẫn tới giảm giá bán hàng hóa. Hoặc tài nguyên thiên nhiên
phong phú giúp doanh nghiệp có được khối lượng hàng hóa đầu vào ổn định
với giá thấp. Đối với hàng thủy sản xuất khẩu, yếu tố về điều kiện tự nhiên có
tác động rất quan trọng đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Một quốc gia
có bờ biển dài, hệ thống sông hồ thuận lợi cho việc nuôi trồng, đánh bắt thủy
sản với những chủng loại sản phẩm đa dạng, phong phú, có GTGT cao thì
quốc gia đó có những lợi thế rất lớn để phát triển ngành thủy sản nói chung,
hàng thủy sản xuất khẩu nói riêng. Thủy sản là một ngành kinh tế gắn chặt
với điều kiện tự nhiên không chỉ trong khâu đánh bắt, chế biến mà còn ở cả
việc nuôi trồng, tạo nguồn giống và việc vận chuyển đến các thị trường tiêu
thụ.
- Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của hàng hóa nói chung và hàng thủy sản nói riêng. Hệ
thống cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống điện, nước, viễn thông, đường, cầu, bến
cảng đường sông, đường biển, đường hàng không, kho tàng, bến bãi… Cơ sở
hạ tầng phát triển sẽ giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng
hóa, từ đó góp phần giảm chi phí đầu vào, hạ thấp giá thành sản phẩm.
Ngược lại, nếu cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu, chất lượng dịch vụ thấp, giá

cả đắt thì sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và xuất khẩu hàng hóa.


Chuyên đề thực tập
Cản trở nghiêm trọng nhất từ cơ sở hạ tầng đối với năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là hệ thống dịch vụ độc quyền, áp đặt giá quá cao với chất
lượng dịch vụ thấp, năng suất lao động và hiệu quả sử dụng phương tiện kém.
Tỷ trọng chi phí về cơ sở hạ tầng trong một đơn vị sản phẩm có ảnh hưởng
đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nếu chi phí về điện, nước, viễn thông,
thông tin liên lạc cao quá mức so với các nước trong khu vực và trên thế giới
nó sẽ làm giảm các lợi thế cạnh tranh khác như điều kiện tự nhiên, lao động,
sự ổn định chính trị xã hội v.v... Hệ thống cơ sở hạ tầng lạc hậu và yếu kém sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả đầu vào và do đó ảnh hưởng đến giá bán sản
phẩm.
- Kinh tế: Trước hết, tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách
kinh tế của một quốc gia có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của những chính
sách kinh tế của Chính phủ, do vậy các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược
kinh doanh phù hợp với các chính sách kinh tế để nâng cao hiệu quả hoạt
động. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của Chính phủ được sử dụng
để điều tiết nền kinh tế, có tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Để tăng tổng cầu và tạo ra sự cạnh tranh cho các doanh nghiệp,
Chính phủ có thể tăng chi tiêu hoặc giảm thuế, hoặc Chính phủ có thể dùng
chính sách mở rộng tài chính và nới lỏng tiền tệ. Chính sách thương mại "mở"
hay "đóng" sẽ có tác dụng thúc đẩy hay hạn chế khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Để thực hiện chính sách thương mại
"mở cửa", Chính phủ cần thỏa thuận để ký các hiệp định thương mại song
phương và đa phương với các nước, tham gia hội nhập thương mại quốc tế.
Việc hội nhập thương mại quốc tế sẽ buộc các doanh nghiệp phải nâng cao



Chuyên đề thực tập
năng lực cạnh tranh của mình, bởi vì mức độ cạnh tranh trên thị trường quốc
tế gay gắt hơn rất nhiều so với cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước.
- Chính trị: Môi trường chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế
đất nước nói chung, đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng. Sự
ổn định về chính trị ở từng quốc gia cũng như mối quan hệ chính trị tốt với
các quốc gia khác sẽ tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh
nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu. Các quan điểm, chính sách của Chính
phủ tác động mạnh mẽ đến hoạt động của doanh nghiệp trong việc xác định
phạm vi, lĩnh vực, mặt hàng đối với từng thị trường và các đối tác khác nhau.
Sự hậu thuẫn của Chính phủ thông qua mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là
nhân tố không thể không tính đến trong chiến lược mở rộng thị trường xuất
khẩu của các doanh nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh được
thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh thì việc tìm hiểu về hệ thống chính trị
cũng như tình hình chính trị tại các thị trường mà doanh nghiệp đó hướng tới,
là rất cần thiết. Sự can thiệp của Chính phủ các nước sẽ diễn ra với những mức
độ khác nhau đối với doanh nghiệp của các quốc gia, cho nên để thành công
trong kinh doanh tại nước ngoài, các doanh nghiệp phải tìm hiểu xem chính
phủ nước đó được thành lập và hoạt động theo nguyên tắc nào, chính sách
ngoại thương, chính sách bảo hộ ngành kinh tế, bảo vệ người tiêu dùng… sẽ
ảnh hưởng như thế nào đến chiến lược xuất khẩu tại thị trường đó?
- Luật pháp, văn hóa xã hội: Luật quốc tế và luật của từng quốc gia có ảnh
hưởng trực tiếp đến tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp tham gia thương mại quốc tế. Mỗi quốc gia đều có hệ thống luật pháp
riêng điều chỉnh cho các hoạt động thương mại quốc tế, do vậy để tạo điều
kiện và môi trường kinh doanh thuận lợi, các nước thường tiến hành ký các
hiệp định thương mại, hiệp ước. Để đưa hàng hóa xuất khẩu thâm nhập vào



Chuyên đề thực tập
các thị trường trên thế giới, đặc biệt là thị trường của các nước phát triển, có
sức mua lớn, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thông hiểu chế độ luật pháp ở các
quốc gia đó. Đối với hàng thủy sản xuất khẩu, việc tìm hiểu các quy định về
chính sách bảo hộ ngành sản xuất, các quy định của pháp luật về chất lượng
sản phẩm, đặc biệt là tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, về chính sách thuế
đối với các chủng loại sản phẩm cụ thể… là rất cần thiết đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu.
Đối với yếu tố văn hóa, xã hội: Các tập tục truyền thống, quan điểm sống, thói
quen, tỷ lệ dân số, tỷ lệ sinh đẻ… đều là các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu
thị trường và do đó ảnh hưởng đến nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Nếu các doanh nghiệp nắm bắt tốt các thị hiếu, thói quen, tập quán
tiêu dùng thì họ sẽ có cơ hội để gia tăng thị phần hàng hóa của họ. Các khu
vực khác nhau có thị hiếu tiêu dùng và nhu cầu khác nhau do vậy đòi hởi
doanh nghiệp phải có sự am hiểu nhất định về văn hóa của nước sở tại để từ
đó có chiến lược kinh doanh phù hợp với từng hoàn cảnh của môi trường mới
1.2.2.2. Các yếu tố thuộc về hàng hóa
- Giá cả hàng hóa là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh
của hàng hóa. Doanh nghiệp muốn có sức cạnh tranh cao thì doanh nghiệp đó
phải xây dựng được cách thức tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu
quả bằng cách hạ giá thành sản phẩm, giảm giá bán nhằm thu hút được nhiều
người tiêu dùng. Để có thể hạ giá thành sản phẩm, doanh nghiệp phải tích cực
tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào với giá thấp, nhân công rẻ, đồng thời
phải đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào trong sản
xuất, giảm thiểu các khoản chi phí khác. Xuất khẩu thủy sản là khâu cuối
trong chuỗi các công đoạn từ nuôi trồng, đánh bắt đến chế biến, xuất khẩu. Do


Chuyên đề thực tập

vậy, cạnh tranh về giá của sản phẩm thủy sản xuất khẩu phụ thuộc vào việc hạ
thấp chi phí ở các công đoạn trước đó. Trong hoạt động đánh bắt thủy sản thì
phải đầu tư đổi mới các phương tiện đánh bắt, các phương tiện bảo quản hiện
đại nhằm giảm thiểu tỷ lệ thối hỏng sau đánh bắt. Đối với hoạt động nuôi
trồng, phải chú trọng đến đầu tư thâm canh có trọng điểm, chọn giống nuôi
tốt, có năng suất cao. Đối với khâu chế biến phải đầu tư các dây chuyền chế
biến hiện đại, nâng cao năng suất lao động nhằm gia tăng hiệu suất thu hồi,
nâng cao tỷ lệ hữu ích của sản phẩm. Đối với lưu thông hàng hóa phải có các
phương án bảo quản, vận chuyển hợp lý nhằm giảm thiểu chi phí.
- Chất lượng hàng hóa: Với cùng một loại hàng hóa, nhưng hàng hóa nào có
chất lượng cao hơn, có thể là giá đắt hơn cũng sẽ được người tiêu dùng ưu tiên
mua. Vì vậy, chất lượng hàng hóa là yếu tố quan trọng hàng đầu để các doanh
nghiệp sử dụng để cạnh tranh với những doanh nghiệp khác. Chất lượng hàng
thủy sản phụ thuộc vào một số yếu tố: điều kiện tự nhiên, điều kiện kỹ thuật,
trình độ công nghệ sản xuất; nếu doanh nghiệp áp dụng các quy trình sản xuất
hiện đại để nuôi trồng hay chế biến thì sẽ có lợi thế hơn nhiều so với các
doanh nghiệp áp dụng quy trình sản xuất lạc hậu, sản phẩm làm ra sẽ tốt hơn
đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Cơ cấu hàng thủy sản
phải đa dạng, phù hợp với tập quán phong tục, thị hiếu tâm lý người tiêu dùng
của nước nhập khẩu. Hàng thủy sản là hàng thực phẩm, có ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khỏe người tiêu dùng, do vậy vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm là vấn
đề mà các doanh nghiệp phải quan tâm hàng đầu trong việc nâng cao sức cạnh
tranh về chất lượng của hàng hóa.
- Kiểu cách, mẫu mã của hàng hóa và thương hiệu sản phẩm: Sản phẩm với tư
cách là hàng hóa sẽ được xem xét trên các chỉ tiêu về mức độ thỏa mãn đối
với nhu cầu của người tiêu dùng về một số yêu cầu về hình thức bao bì, nhãn


Chuyên đề thực tập
mác sản phẩm. Bao bì mẫu mã đẹp cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết

phù hợp với thói quen tiêu dùng và văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc, phù
hợp với mỗi lứa tuổi là yếu tố rất quan trọng trong cạnh tranh bằng sản phẩm,
đặc biệt là đối với các sản phẩm thực phẩm, nó ảnh hưởng trực tiếp tới quyết
định tiêu dùng của người mua. Việc xây dựng thương hiệu tốt cũng giúp
doanh nghiệp thu hút ngày càng nhiều khách hàng và thâm nhập thành công
thị trường các nước nhập khẩu. Một sản phẩm thủy sản xuất khẩu chỉ có thể
đứng vững và phát triển trên thị trường quốc tế khi nó có một thương hiệu
mạnh, có nghĩa là hình ảnh của nó đã được nhiều khách hàng kiểm nghiệm và
tin tưởng. Có thương hiệu trên thị trường doanh nghiệp sẽ dễ thu hút thêm
khách hàng mới, mở rộng thêm thị trường, thu về nhiều lợi nhuận.
- Hệ thống phân phối, dịch vụ bán hàng: hệ thống phân phối được thiết kế hợp
lý, đa dạng hóa các kênh phân phối tương ứng với các cơ cấu sản phẩm đa dạng,
phân định được kênh phân phối chủ lực có ý nghĩa quan trọng trong việc tối thiểu
hóa chi phí dành cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Một hệ thống phân phối hợp
lý bao gồm mạng lưới các đại lý, các cơ sở trung tâm bán hàng giúp doanh
nghiệp đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa với các hình thức bán buôn và bán
lẻ vừa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và phù hợp với khả năng thanh
toán, vừa phù hợp với tập quán, phong tục của các địa phương. Hoạt động dịch
vụ trước, trong và sau khi bán hàng tốt cũng là điều kiện thuận lợi giúp doanh
nghiệp cạnh tranh có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.
Trước khi bán hàng, các doanh nghiệp cần có các biện pháp thâm nhập thị
trường, tìm hiểu và nghiên cứu thị trường để có định hướng đúng đắn trong việc
phát triển các loại sản phẩm. Đồng thời doanh nghiệp sử dụng các biện pháp
như quảng cáo tiếp thị, trưng bầy giới thiệu sản phẩm để thu hút khách hàng.
Trong khi bán hàng, doanh nghiệp phải tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng


Chuyên đề thực tập
về phương tiện vận chuyển, phương thức thanh toán nhanh gọn, thực hiện
chính sách khuyến mại… Sau khi bán hàng, doanh nghiệp cần có dịch vụ hậu

mãi tốt, đồng thời chú trọng đến việc thu thập các thông tin, các nhận xét của
khách hàng đối với sản phẩm của mình, để có sự điều chỉnh kịp thời cả về đầu
tư sản xuất và chiến lược tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu.
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến NLCT thủy sản của Việt nam trên thị
trường Mỹ/
1.3.1. Tiềm năng sản xuát
• Điều kiện tự nhiên
Việt Nam với bờ biển dài, hệ thống sông ngòi dày đặc đi sâu vào lãnh
thổ quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho ngành thủy sản phát triển.
Việt nam có bờ biển dài 3260 km, 12 đầm, phá, 112 của sông, lạch,
trong đó 47 cửa có độ từ 1,6 – 3,0 m để đưa tàu cá có công suất 140cv ra vào
khi có thủy triều; có hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ có
thể xây dựng được các cơ sở hạ tầng khai thác xa bờ, nuôi trồng thủy sản và
bảo vệ an ninh tổ quốc.
Biển Việt nam bao gồm 2 vùng chính: (1) vùng nội thủy và lãnh hải
rộng 226000 km2, (2) vùng biển đặc quyền kinh tế rộng 1000.000 km 2. Có
nhiều vũng, vịnh kín gió cho tàu thuyền trú đậu và để nuôi hải sản. Các đảo
Bạch Long Vĩ, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, Hòn Khoai, Thổ Chu,
… thuộc những ngư trường lớn rất thuận lợi cho khai thác thủy hải sản. (Theo
Wikipedia)
 Đặc điểm môi trường và tiềm năng nguồn lợi


Chuyên đề thực tập
Diện tích vùng ven biển và vùng biển của đất nước ta gấp 3 lần diện
tích đất liền, trải dài trên 13 vĩ độ, vùng ven biển và biển Việt nam được chia
thành 4 khu vực môi trường:
+ Môi trường nước mặn xa bờ:
Là vùng nước ngoài khơi thuộc vùng đặc quyền kinh tế. Vùng biển tiếp
giáp với Thái Bình Dương ở phía Đông và phía Nam, đồng thời tiếp giáp với 2

lục địa Âu - Á nên chế độ khí hậu vừa mang tính chất biển vừa mang tính chất
lục địa. Ngoài khơi lại có 3 trũng sâu điển hình: trũng Bắc Hoàng Sa, trũng Á
kinh tuyến kéo dài từ ngang Đà Nẵng về phía Nam, trũng Palawan. Vùng lòng
chảo nước sâu nằm ở trung tâm biển Đông. Tất cả các vùng trên tạo nên một
lợi thế to lớn cho ngành thủy sản nước ta.
Xét về nguồn lợi hải sản có thể liệt kê 3 loại chính là: cá nổi ngoài khơi,
cá đáy biển sâu và cá rạn san hô.
Cá nổi ngoài khơi gồm những loài cá có kích thước lớn hoặc vừa, sống
ở những vùng nước sâu, di động xa, điển hình cho đối tượng đánh bắt cá là cá
thu, cá ngừ, họ cá chuồn và chỉ vào gần bờ sinh sản kiếm ăn, chúng sống tập
trung thành đàn ở tầng nước trên.
Cá đáy biển sâu, điển hình là cá chào mào, cá bàn chân, cá đèn lồng, cá
mú làn khoảng 1.432 loài, chiếm 69% tổng số loài. Một số loài trong nhóm
này là đối tượng quan trọng của nghề kéo đáy. Tuy nhiên giá trị kinh tế của
chúng không cao.
Cá rạn san hô có khoảng 340 loài, chiếm 16,6% tổng số loài, kích
thước thường nhỏ và vừa, màu sắc rực rỡ.
+ Môi trường nước mặn gần bờ:


Chuyên đề thực tập
Là vùng sinh thái quan trọng nhất đối với các loài thủy sinh vật vì có
nguồn thức ăn cao nhất do các cửa sông lạch đem phù sa và các loại chất vô
cơ, hữu cơ hòa tan làm thức ăn tốt cho các loài sinh vật bậc thấp để rồi chúng
trở thành thức ăn cho tôm cá. Ở vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ có sản
lượng khai thác cao nhất, chiếm tới hơn 60% tổng sản lượng khai thác của cả
nước.
Vịnh Bắc Bộ với trên 3.000 hòn đảo nên nhiều bãi triều quanh đảo có
thể nuôi các loài nhuyễn thể có giá trị cao như: trai ngọc, vẹm, hầu sông, hầu
biển, bào ngư, sò huyết…

Nguồn lợi hải sản ước tính: 75 loài tôm, 25 loài mực, 7 loài bạch tuộc,
653 loài tảo biển có giá trị kinh tế cao, 90 loài rong kinh tế, 289 loài san hô và
2.100 loài cá (trong đó có trên 130 loài cá có giá trị kinh tế cao).
Cá biển Việt Nam rất đa dạng, phân bố theo mùa vụ rõ ràng nhưng số
lượng loài trong một giống không nhiều, số lượng cá thể trong một loài không
lớn. Đa số cá biển phân bố rộng rãi ở vùng biển lân cận và vùng biển thuộc
khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, chủ yếu sống sát đáy bùn vùng biển miền
Trung. Thành phần cá tầng đáy rất phong phú, mỗi mẻ lưới kéo đáy trên dưới
30 loài khác nhau gồm cả cá đáy và cá nổi nhưng chủ yếu vẫn là cá nổi.
+ Môi trường nước lợ:
Là vùng nước cửa sông, ven biển và rừng ngập mặn, đầm phá, nơi có sự
pha trộn nước biển và nước ngọt từ các dòng sông đổ ra. Phụ thuộc vào mùa
(mùa mưa, mùa khô) và thủy triều, nồng độ muối của môi trường nước lợ luôn
thay đổi, điều đó thích hợp với những loài sinh vật thủy sinh có khả năng thích
nghi, trong đó có nhiều loại thủy sản có giá trị kinh tế cao như tôm he, tôm
nương, tôm tảo, cá đối, cá vược, cá tráp, cá trai, cua biển, rau câu.


Chuyên đề thực tập
Tổng diện tích tiềm năng nước lợ trên toàn quốc là 621.009 ha, bao gồm
84.652 ha ở các tỉnh phía bắc, 39.745 ha ở các ỉnh bắc trung bộ, 33.622 ha ở
các tỉnh Nam Trung Bộ, 25510 ha ở các tỉnh Đông Nam Bộ và 437.480 ha ở
các tỉnh Tây Nam Bộ. Rừng ngập mặn là một bộ phận quan trọng của vùng
sinh thái nước lợ có nguồn thức ăn chính từ thảm thực vật cho các loài động
vật thủy sinh, là nơi nuôi dưỡng chính cho ấu trùng của giống tôm he. Trong
rừng ngập mặn nước ta cũng như ở khu vực Đông Nam Á nói chung có
khoảng 230 loài giáp xác, 211 loài thân mềm, hàng trăm loài các và động vật
không xương khác.
Theo ước tính, có khoảng 390.000 ha mặt nước lợ có thể nuôi trồng
thủy sản, trong đó có 290.440 ha đang được sử dụng nuôi quảng canh. Các đối

tượng nuôi vùng nước lợ là tôm, vẹm, sò, cua, rong câu, cá rô phi… Tôm là
loại thủy sản được quan tâm nhất, đặc biệt là tôm sú, kế đến là tôm he, tôm
bạc thẻ và tôm nương.
+ Môi trường nước ngọt:
Bao gồm các ao hồ, sông suối, ruộng, hồ chứa tự nhiên trong đất liền.
Nuôi cá ao hồ nước ngọt là nghề nuôi truyền thống gắn với các hộ gia đình.
Theo thống kê chưa đầy đủ, tới năm 2008 đã có 92.700 ha diện tích ao hồ đã
được để nuôi trồng thủy sản, chiếm 70% tiềm năng ao hồ nhỏ và tập trung ở
Đồng bằng Sông Hồng, Đồng bằng Sông Cửu Long.
 Các vùng kinh tế thủy sản:
Căn cứ vào phân vùng kinh tế chung của cả nước, ngành thủy sản được
chia thành 7 vùng sinh thái các cụm kinh tế đó là:
+ Vùng Đồng bằng Sông Hồng
+ Miền núi và trung du Bắc Bộ


Chuyên đề thực tập
+ Vùng Bắc Trung Bộ
+ Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ
+ Tây Nguyên
+ Vùng Đông Nam Bộ
+ Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long
• Tiềm lực con người
Việt Nam thuộc những nước đông dân trên thế giới. Có khoảng 70%
dân số sống ở nông thôn, trong đó dân cư sống ở ven biển có nhịp độ tăng
trưởng cao hơn so với bình quân chung của cả nước (khoảng 2,2%).
Dân cư Việt Nam có lợi thế đặc biệt đó là dân số trẻ. Đối với dân cư
vùng ven biển, do tỷ lệ sinh đẻ cao, đời sống thấp kém, tuổi thọ không cao nên
tỷ trọng sức trẻ trong ngành thủy sản ngày một lớn. Hiện nay lợi thế này vẫn
chưa phát huy tốt vì trình độ văn hóa cũng như trình độ chuyên môn của lực

lượng lao động này còn thấp.
Như vậy với trạng thái dân hiện nay, số hộ và số nhân khẩu lao động
trong ngành thủy sản vẫn tăng đều qua các năm, có khả năng cung cấp đủ sức
lao động dồi dào cho ngành, đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của
ngành thủy sản tạo ra.


Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật
Khoa học công nghệ kỹ thuật trong nước được đưa vào hoạt động, ứng

dụng đem lại hiệu quả cao trong công tác nuôi trồng và chế biến thủy sản từ
đó giúp cho chất lượng và số lượng thủy sản tăng, giúp cho xuất khẩu hàng
thủy sản có nhiều thuận lợi hơn.


Chuyên đề thực tập
Những năm đầu, chúng ta thường sử dụng những tàu thuyền mang tính
chất thủ công để đánh bắt, nhưng đến những năm gần đây khối lượng tàu
thuyền máy ngày càng được sử dụng hơn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh
bắt. Việc hình thành và xây dựng cơ sở dịch vụ cho việc khai thác thủy sản
diễn biến trên 3 lĩnh vực đó là cơ khí đóng sửa thuyền, bến cảng và dịch vụ
cung cấp nguyên vật liệu; thiết bị và hệ thống tiêu thụ sản phẩm, tăng khả
năng phát triển thủy sản.
Về cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, điều kiện hạ tầng giao thông vận tải
cũng có ảnh hưởng lớn đến thương mại hàng thủy sản. Giao thông thuận tiện
sẽ giúp cho thương mại hàng thủy sản diễn ra nhanh chóng hơn, và chớp được
nhiều thời cơ hơn.
• Hàng rào kĩ thuật của quốc gia nhập khẩu
Rào cản kĩ thuật là các yêu cầu hàng hóa nhập khẩu phải đáp ứng một
hệ thống các tiêu chuẩn về: quy cách, mẫu mã bao bì nhãn mác, chất lượng, an

toàn mức độ ô nhiễm, an toàn đỗi với người lao động, quy định điều kiện đánh
bắt…Tùy theo tình hình kinh tế của từng quốc gia mà mỗi quốc gia lại áp
dụng những tiêu chuẫn kĩ thuật khác nhau. Các hàng hóa nhập khẩu vào các
nước này phải thỏa mãn các điều kiện mới được phép nhập khẩu vào đây cũng
là khó khăn đối với nước xuất khẩu nhưng tạo điệu kiện thúc đẩy phát triển về
chất lượng và mẫu mã với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam..

Mỹ là trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới. Mỹ là quốc gia có tài nguyên phong
phú, không những không bị ảnh hưởng nặng nề bởi hai cuộc đại chiến thế
giới, mà ngược lại nước Mỹ làm giàu từ các cuộc chiến tranh đó.


Chuyên đề thực tập
Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế lâu dài đã tạo cho Mỹ một sức mạnh
kinh tế khổng lồ và thu nhập cao cho người dân. Năm 2002, GDP của Mỹ là
10.450 tỷ USD, chiếm trên 21 % tổng thu nhập của toàn cầu. Giai đoạn 19941999 là thời kỳ nước Mỹ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tỷ lệ lạm phát và
tỷ lệ thất nghiệp thấp. Song từ năm 2000 trở lại đây tốc độ tăng trưởng GDP
thực tế của nước này không ổn định và thấp hơn so với mức bình quân của
thập kỷ 90. Các nhà sản xuất của Mỹ có năng lực cạnh tranh lớn và tiềm lực
kinh tế mạnh, nên họ đã tuyên truyền cho chính sách tự do hóa thương mại và
đầu tư, cũng vì thế Mỹ đã trở thành một thị trường lớn có sức hấp dẫn các
nước và các nhà đầu tư nước ngoài hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.
Người dân Mỹ có nguồn gốc từ nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới nên nhu
cầu rất đa dạng, phong phú. Những đặc điểm riêng về địa lý và lịch sử đã hình
thành nên một thị trường tiêu dùng khổng lồ và đa dạng nhất thế giới. Mỹ vốn
có thị trường quốc nội rất lớn và đây cũng là một thị trường nhập khẩu hàng
hóa lớn nhất thế giới. Do đó có thể nói, thị trường Mỹ có sức ảnh hưởng lớn
đến thị trường thế giới và cả nền kinh tế các nước trên thế giới. Mỹ là một thị
trường xuất nhập khẩu có dung lượng lớn, phong phú và đa dạng. Cơ cấu hàng
xuất khẩu của Mỹ bao gồm máy móc, thiết bị, các mặt hàng công nghiệp, thiết

bị vận tải các loại, hóa chất, nông sản, các loại hàng hóa khác. Các mặt hàng
tiêu dùng chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu hàng nhập khẩu của nước Mỹ.
Với sức mua lớn và đa dạng về chủng loại hàng hóa, Mỹ là một thị trường lý
tưởng cho tất cả các nước trên thế giới. Chất lượng hàng hóa nhập khẩu vào
Mỹ cũng rất linh hoạt, với nhiều phẩm cấp đáp ứng nhu cầu đa dạng của người
tiêu dùng.
Mỹ là thị trường rộng lớn và thu hút mạnh mẽ hàng hóa xuất khẩu của các
nước trên thế giới. Chính vì vậy, mức độ cạnh tranh trên thị trường này diễn ra


Chuyên đề thực tập
hết sức quyết liệt. Tuy được coi là thị trường mở nhưng Mỹ lại có nhiều hàng
rào kỹ thuật để cản trở doanh nghiệp của nước xuất khẩu nếu họ làm ảnh
hưởng đến lợi ích của người sản xuất nước Mỹ. Đồng thời, các quy định về vệ
sinh an toàn thực phẩm để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Mỹ cũng rất
chặt chẽ. Nhìn chung, chính sách thương mại của Mỹ thể hiện tính chất hai
mặt: một mặt, Mỹ muốn các nước khác mở rộng thị trường đối với hàng hóa
Mỹ, mặt khác, Mỹ lại có những chính sách hạn chế đối với một số nước và
khu vực xuất khẩu vào thị trường Mỹ do các mục đích kinh tế và phi kinh tế
của Mỹ. Hơn thế, chính sách thương mại của nước Mỹ với các đối tác là
không giống nhau, mà phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ về mặt chính trị giữa
Mỹ với các khu vực, các quốc gia trên thế giới.
Mỹ có hệ thống pháp luật thuộc loại phức tạp nhất trên thế giới, bao gồm hệ
thống luật liên bang, hệ thống pháp luật của mỗi bang hay khu hành chính. Mỹ
luôn sử dụng pháp luật quốc tế như là một vũ khí sắc bén để duy trì và củng cố
vai trò cường quốc số một trên thế giới. Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa,
quốc tế hóa ngày càng mở rộng như hiện nay thì chính sách của Mỹ có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến các quyết định của các tổ chức thế giới như WTO, IMF,
WB. Các quan điểm của Mỹ về tự do hóa thương mại quốc tế là rất rõ ràng.
Tự do hóa thương mại quốc tế được thực hiện thông qua các thỏa thuận đa

phương trong khuôn khổ WTO và tạo ra nhiều ảnh hưởng có lợi đối với nền
kinh tế thế giới. Tuy nhiên, được lợi nhiều nhất trong quá trình này là Mỹ và
các nước phát triển khác. Kể từ thời điểm thành lập WTO, Mỹ đã tích cực
tham gia vào công việc của tổ chức này, mở rộng lĩnh vực hoạt động và gia
tăng số thành viên. Mỹ cũng là nước tích cực theo đuổi chính sách đẩy mạnh
quá trình tự do hóa thương mại khu vực thông qua hình thức ký kết các hiệp
định thương mại khu vực. Mỹ đã ký hiệp định thương mại tự do với Canada


Chuyên đề thực tập
năm 1988, với Mêhicô năm 1992. Ngày nay khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
(NAFTA) đã liên kết vùng lãnh thổ khổng lồ với 370 triệu dân và chiếm hơn
20% thị phần trong nền kinh tế thương mại thế giới [3, tr. 7]. Mỹ cũng coi việc
gia nhập APEC của mình có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc thúc đẩy ngoại
thương Mỹ tăng trưởng. Ngoài việc thực hiện chính sách tự do hóa thương
mại thế giới trên cơ sở đa phương và khu vực, Mỹ còn tích cực sử dụng chiến
lược thỏa thuận song phương để điều tiết quan hệ với các đối tác thương mại
chính và có triển vọng.
Sử dụng hạn ngạch nhập khẩu hàng hóa cũng là nội dung phổ biến trong hệ
thống chính sách thương mại của Mỹ. Có thể chia hạn ngạch nhập khẩu của
Mỹ thành hai loại: hạn ngạch thuế quan và hạn ngạch tuyệt đối.
Hạn ngạch thuế quan quy định số lượng của mặt hàng đó được nhập vào Mỹ
với mức thuế giảm trong một thời gian nhất định. Không hạn chế về số lượng
nhập vào đối với mặt hàng này nhưng số lượng nhiều hơn mức quota được
phân bổ trong thời gian đó sẽ bị đánh thuế xuất nhập khẩu cao hơn. Hạn ngạch
tuyệt đối quy định số lượng một mặt hàng vượt quá hạn ngạch cho phép sẽ
không được nhập vào Mỹ trong thời hạn của quota. Hàng nhập quá số lượng
theo quota sẽ phải tái xuất hoặc lưu kho trong suốt thời hạn của quota.
Trong hệ thống chính sách thương mại của mình, Mỹ rất chú trọng đến việc sử
dụng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (gọi tắt là GSP) như là một công cụ

quan trọng trong việc cụ thể hóa chính sách ngoại thương của Mỹ đối với các
nước, các khu vực khác nhau. Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập là hệ thống
ưu đãi về thuế mà Mỹ dành cho các nước đang phát triển theo chế độ đơn
phương, không đòi hỏi có đi có lại, mức thuế ưu đãi hơn mức quy chế tối huệ
quốc (MFN). Những mặt hàng nhập của các nước đang phát triển, mặt hàng


×