Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Chính sách BĐKH Tiểu luận chuyên ngành quản lí tài nguyên môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.96 KB, 17 trang )

LỜI CẢM ƠN
Không có thành công nào mà không gắn liền với sự hỗ trợ, dù giúp đỡ ít hay
nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong suốt thời gian từ khi bắt
đầu học ở giảng đường đại học đến nay, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm,
giúp đỡ của các Thầy Cô, gia đình và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn tới Cô Hoàng Lưu Thu Thủy
đã giúp đỡ và dẫn dắt em trong quá trình học môn học “Chính sách biến đổi khí
hậu”. Cô đã giúp em biết thêm và những chính sách, hội nghị và thương thảo trên
thế giới về vấn đề biến đổi khí hậu.
Do kiến thức còn hạn chế và nhiều bỡ ngỡ, vì vậy em không tránh khỏi
những thiếu sót là điều chắc chắn, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của các Thầy Cô và các bạn sinh viên trong lớp để kiến thức của em trong lĩnh vực
này được củng cố và hoàn thiện hơn.
Sau cùng, em xin kính chúc Cô thật dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục
thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Trân trọng.

TP. Thái Nguyên, Ngày 29 tháng 11 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Nông Thanh Bưởi


LỜI MỞ ĐẦU
Biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện nay đang thay đổi theo chiều hướng xấu.
Nguyên nhân của sự biến đổi này là do nhiệt độ của bầu khí quyển tăng lên
dưới sự tác động của con người (90% là do con người gây ra, IPCC). Điều
này làm thay đổi các quy luật của khí quyển và những biểu hiện của thời tiết
trên phạm vi toàn cầu. Sự biến đổi này sẽ làm trầm trọng thêm mức độ tác
động của thiên tai tới cuộc sống và các hoạt động sản xuất. Hàng trăm triệu
người có thể phải lâm vào nạn đói, thiếu nước và lụt lội tại vùng ven biển do


trái đất nóng lên. Nếu xét đến rủi ro và tác động với biên độ rộng hơn thì
thiệt hại (hàng năm) được ước tính vào khoảng 20% GDP hoặc lớn hơn.
Ngược lại, chi phí cho hành động giảm phát thải khí nhà kính, nhằm tránh
những tác động xấu nhất của BĐKH, có thể chỉ giới hạn trong phạm vi 1%
GDP hàng năm. Biến đổi khí hậu sẽ tác động đến tất cả các quốc gia trên thế
giới, những nạn nhân nhạy cảm nhất bao gồm các quốc gia và các tầng lớp
dân chúng nghèo nhất, sẽ phải hứng chịu sớm nhất và nặng nề nhất, mặc dù
họ lại góp phần nhỏ nhất trong việc tạo ra các nguyên nhân BĐKH. Những
phí tổn do các hiện tượng thời tiết cực trị gây ra, trong đó phải kể đến lũ lụt,
hạn hán, bão, đã bắt đầu gia tăng ngay cả đối với những nước giàu.
Việt Nam là quốc gia nằm trên bán đảo lớn của Biển Đông thông ra Thái
Bình Dương, được đánh giá là một trong năm quốc gia bị ảnh hưởng nhiều
nhất bởi sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ
trung bình năm ở Việt Nam tăng khoảng 0,70C, mực nước biển đã dâng
khoảng 20 cm. Theo tính toán, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng
lên 30C và mực nước biển có thể dâng 1 m vào năm 2100. Nếu mức nước
biển dâng 1 m, khoảng 40 ngìn km2 đồng bằng ven biển nước ta sẽ bị ngập
hàng năm. Trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
bị ngập hầu như hoàn toàn. Và sẽ có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực
tiếp, tổn thất đối với GDP khoảng 10%. Nếu nước biển dâng 3 m sẽ có
khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất đối với GDP lên tới


25%. Hậu quả của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam rất nghiêm trọng, là
nguy cơ hiện hữu làm mòn đi khả năng thực hiện các mục tiêu xóa đói, giảm
nghèo cho việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền
vững của đất nước.
Trong bối cảnh đó chúng ta cần có những biện pháp và chính sách hỗ trợ
trong việc giảm thiểu tác động của con người đến tự nhiên và gây ra biến đổi
khí hậu để bảo vệ ngôi nhà chung, bản thân và tạo một tương lai tốt đẹp hơn

cho các thế hệ sau này của chúng ta.
Có thể thấy rằng vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu nói chung và ở Việt
Nam nói riêng đang là một vấn đề cấp bách. Cần được quan tâm và giáo dục
cho các thế hệ tương lai. Môn học “Chính sách biến đổi khí hậu” phần nào
sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về tình hình và các hoạt động trên thế giới nhằm
giảm thiểu các tác động của con người đến biến đổi khí hậu trên trái đất nói
chung và Việt Nam nói riêng.


PHẦN I: CHÍNH SÁCH CÔNG
1.1 Định nghĩa
Chính sách là một công cụ quan trọng của quản lý. Mọi tổ chức, mọi cấp quản
lý đều phải sử dụng các công cụ quản lý như chiến lược, kế hoạch, chính sách và
quyết định quản lý để tác động lên đối tượng quản lý theo một cách thức nào đó
nhằm đạt tới mục tiêu mong muốn.
Hiểu một cách đơn giản thì chính sách là một chương trình hành động do các
nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó. Một số chính sách có thể được
đề ra và thực hiện trong phạm vi một doanh nghiệp, một tổ chức, một cộng đồng
nhỏ, các chính sách như vậy chỉ liên quan đến lợi ích của một số ít người. Các
chính sách khác có thể do chính phủ, một bộ hay chính quyền cấp tỉnh đề ra, có
liên quan đến lợi ích rộng lớn hơn.
Nhìn chung lại, có thể coi chính sách là một công cụ của quản lý đề điều hành
các hoạt động kinh tế - xã hội theo những mục tiêu nhất định.
Ở đây chúng ta đi sâu nghiên cứu về các chính sách có tác động đến đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội của nhiều người hoặc của toàn quốc gia, đó là chính sách
công.
Chính sách công là những chính sách do nhà nước đề ra, có phạm vi tác động
rộng lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội trên phạm vi quốc gia, một địa
phương, một nghành, một nhóm người hay một cộng đồng xã hội.
Nhà nước ta là chủ thể chủ yếu ban hành chính sách công, thông qua đó, nhà

nước thực hiện vai trò quản lý đối với đất nước. Có thể nói, các chính sách công
là những bộ phận hợp thành của toàn bộ chiến lược phát triển đất nước. Vì vậy,
khi đánh giá sự phát triển của một quốc gia, chúng ta phải xem xét tổng thể các
chính sách công của quốc gia đó để thấy được định hướng phát triển chung của
quốc gia.


Chính sách công được nhà nước đề ra như một chương trình hành động trong
một thời gian lâu dài để giải quyết một vấn đề nhất định. Do đó, chính sách
thường bao gồm một loạt các quyết định quản lý có quan hệ với nhau cùng tác
động lên vấn đề đó theo mục tiêu mà nhà nước đặt ra.
Như vậy có thể phát triển định nghĩa của chính sách công như sau: Chính sách
công là một tập hợp các quyết định hành động của nhà nước nhằm giải quyết một
vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định.
Chính sách công do nhà nước đề ra và tổ chức thực thi nên chính sách công
luôn phản ánh bản chất của nhà nước đó.
Ở nước ta, các chính sách công do nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đề ra. Nhà nước ta là nhà nước của giai cấp công nhân dựa trên nền tảng
liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Đảng lãnh đạo nhà nước và
toàn dân xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Đảng ta là người đề xướng đường lối chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta là
nhà nước do Đảng lãnh đạo, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, các
chính sách công của nhà nước là những bộ phận hợp thành, là sự cụ thể hóa
đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ
lợi ích của nhân dân.
*Chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Đây là một trong những mục tiêu của Chiến lược quốc gia về biến đổi khí
hậu vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đây cũng được xem như động thái
cấp thời để Việt Nam ứng phó với nguy cơ biến đổi khí hậu - thách thức nghiêm

trọng nhất đối với toàn nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng.
Những con số được các chuyên gia cảnh báo cho thấy VN là một trong
những nước sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Cụ thể nếu mực
nước biển dâng cao 1m, sẽ có khoảng 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long,
11% diện tích Đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng


ven biển sẽ bị ngập. Trong đó, TPHCM sẽ bị ngập trên 20% diện tích; khoảng 10 12% dân số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP...
Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu cũng cho thấy VN coi biến đổi khí
hậu là một thách thức nặng nề song cũng là cơ hội cho phát triển bền vững. Tại Hội
nghị cấp cao Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP17/CMP7) tại thành phố
Durban, Nam Phi diễn ra từ 28.11 - 9.12.2011, Trưởng đoàn VN - Thứ trưởng Bộ
TNMT Trần Hồng Hà - đã có cuộc gặp song phương với Phó đặc phái viên về biến
đổi khí hậu của Tổng thống Hoa Kỳ Jonathan Pershing trao đổi về việc triển khai
hợp tác giữa VN và Hoa Kỳ trong việc thực hiện sáng kiến “Phát triển phát thải
cácbon thấp” (LEDS).
Tại cuộc gặp với Thứ trưởng Bộ Tài chính Nhật Bản Naoko Ishii, Thứ
trưởng Trần Hồng Hà cũng thảo luận tăng cường hợp tác giữa Nhật Bản và VN
trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt là việc Nhật Bản hỗ trợ tài
chính cho chương trình hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu tại VN.
Biến đổi khí hậu đã ảnh hưởng không nhỏ đến VN. Vì vậy ngoài việc thực
hiện từng bước 4 mục tiêu lớn của chiến lược, trước mắt VN phải tập trung chủ
động ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu. Đây là 1 trong 10 nhiệm vụ chiến
lược của Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. Cụ thể đến năm 2015, phải hoàn
thành việc xây dựng hệ thống giám sát biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Nâng thời hạn dự báo bão, không khí lạnh lên đến 3 ngày với độ chính xác
ngang mức tiên tiến của khu vực Châu Á để có thể cảnh báo sớm, giảm thiểu thiệt
hại về người và tài sản. Đồng thời rà soát, xây dựng các quy hoạch phát triển, quy
chuẩn xây dựng trong vùng thường xuyên bị thiên tai phù hợp với điều kiện gia
tăng thiên tai do biến đổi khí hậu; củng cố, xây dựng các công trình phòng, chống

thiên tai trọng điểm cấp bách; nghiên cứu và triển khai các giải pháp cụ thể để
phòng, chống hiệu quả thiên tai, lũ quét và sạt lở ở vùng núi.
Bên cạnh đó một việc hết sức cấp thiết là nâng cao chất lượng rừng, trồng
rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc bảo đảm khai thác hiệu quả các loại rừng để
duy trì và nâng cao khả năng phòng, chống thiên tai, chống sa mạc hóa, xâm thực,
suy thoái đất; tăng cường bảo vệ, quản lý và phát triển rừng ngập mặn, các hệ sinh
thái đất ngập nước; phấn đấu đến 2020 nâng độ che phủ của rừng lên 45%.

2.Đăc trưng của chính sách công
- Chính sách công là một quá trình hành động nhằm giải quyết một vấn đề nhất định.

Đặc điểm của chính sách công là chúng được đề ra và được thực hiện nhằm giải


quyết một hoặc một số vấn đề đang đặt ra trong đời sống xã hội. Chính sách công
chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại hoặc có nguy cơ chắc chắn xuất hiện một vấn
đề cần giải quyết. Chẳng hạn, các chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu được
ban hành khi vấn đề biến đổi khí hậu hiện nay trở thành mối đe dọa, nguy cơ đối
với đời sống, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta, cũng như trên toàn thế
giới.
- Việc giải quyết những vấn đề bức xúc nói trên nhằm vào những mục tiêu mà nhà

nước mong muốn đạt được. Các mục tiêu có thể là định tính hoặc định lượng, là
mục tiêu lâu dài, có tính chiến lược hay những mục tiêu trung hạn hoặc ngắn hạn
nhằm giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước trong thời gian một vài
năm.
- Chính sách công không chỉ thể hiện dự định của nhà hoạch định chính sách về một

vấn đề nào đó, mà còn bao gồm những hành vi thực hiện các dự định nói trên.
- Chính sách công trước hết thể hiện dự định của các nhà hoạch định chính sách


nhằm làm thay đổi và phát triển một lĩnh vực nhất định. Song, nếu chính sách chỉ
là những dự định, dù được ghi thành văn bản và được cấp có thẩm quyền thông
qua thì nó vẫn chưa phải là một chính sách. Chính sách công còn phải bao gồm
các hành vi thực hiện những dự định nói trên và đưa lại những kết quả thực tế.
- Nhiều người thường hiểu chính sách công một cách đơn giản là những chủ trương

mà nhà nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu không có việc thực thi
chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì những chủ trương đó chỉ là
khẩu hiệu mà thôi.
- Xét theo nghĩa rộng, chính sách công bao gồm những việc nhà nước định làm và

không định làm. Điều đó có nghĩa là không phải mọi mục tiêu của chính sách
công đều dẫn tới hành động, mà nó có thể là yêu cầu chủ thể không được hành
động. Chẳng hạn chính sách thả nỗi giá cả hoặc lãi xuất xác định việc nhà nước


không can thiệp vào sự lên xuống của giá cả và lãi suất, để cho chúng biến động
theo cơ chế thị trường, theo quan hệ cung – cầu trên thị trường.
- Chính sách công là một quá trình do nhiều người, nhiều tổ chức tham gia. Việc đề

ra và thực thi chính sách công, cũng như việc phân tích và đánh giá chính sách
công là công việc chung của nhiều người, nhiều tổ chức. Bởi vì, chính sách công
không phải là một quyết định đơn lẻ chỉ có tác động đến một số ít đối tượng, mà
nó là một quá trình giải quyết một vấn đề rộng lớn của xã hội, chẳng hạn vấn đề
ứng phó với biến đổi khí hậu... Để giải quyết vấn đề đó, cần phải huy động sự
tham gia của nhiều người, nhiều tổ chức trong việc nghiên cứu đề ra các chính
sách, giải pháp, phân tích và đánh giá chính sách công.
- Điều đánh lưu ý là chính sách công không phải chỉ do các tổ chức công của nhà


nước thực hiện, mà nó là nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi tổ chức và mọi thành
viên có liên quan đến lĩnh vực mà chính sách công đó điều tiết.
- Chính sách công được nhà nước đề ra nhằm phục vụ lợi ích chung của nhiều người

hoặc của quốc gia. Tuy nhiên, trên thực tế có tình trạng là một chính sách công
đem lại lợi ích cho nhóm dân cư này nhiều hơn so với nhóm dân cư khác, thậm
chí có nhóm còn bị thiệt thòi.
- Ở nước ta, các chính sách công của nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của đại đa số

nhân dân lao động, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ trong một số trường
hợp, chính sách công động chạm đến lợi ích cục bộ của một số cá nhân, nhưng lợi
ích của một số cá nhân này lại làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của quốc gia
hoặc của mọi người khác, khi đó chính sách công phải đứng trên lợi ích của đa số
để giải quyết vấn đề. Chẳng hạn, chính sách hạn chế phát thải khí nhà kính sẽ
động chạm đến lợi ích của những kẻ lạm dụng mua bán trái phép phát thải khí
nhà kính. Song, những kẻ này lại là mối hại to lớn đối với lợi ích chung của quốc


gia, vì vậy chính sách công phải đứng trên lợi ích của quốc gia để giải quyết vấn
đề.
- Chính sách công có phạm vi tác động rộng. Chính sách công được ban hành nhằm

điều tiết hoạt động của một hoặc nhiều nghành, một hoặc nhiều lĩnh vực, một
hoặc nhiều địa phương, một cộng đồng dân cư hay một quốc gia. Chính sách
công có thể tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để thực hiện vai trò
quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực đó. Có những lĩnh vực chịu tác động của
một vài hoặc nhiều chính sách công của nhà nước. Tuy nhiên cũng có những hoạt
động chưa được điều tiết bằng chính sách công của nhà nước, đó là những
khoảng trống chính sách. Xu hướng chung là các khoảng trống này sẽ dần dần
được lấp đầy, bởi vì nhà nước ngày càng mở rộng phạm vi điều hành, quản lý của

mình đối với toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.


PHẦN II: CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA VỀ TĂNG
TRƯỞNG XANH TRONG THỜI KỲ 2011 – 2020
TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2050
2.1 Quan điểm của chiến lược
- Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo
phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện
Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu.
- Tăng trưởng xanh phải do con người và vì con người, góp phần tạo việc làm,
xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
- Tăng trưởng xanh dựa trên tăng cường đầu tư vào bảo tồn, phát triển và sử dụng
hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện nâng cao
chất lượng môi trường, qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế.
- Tăng trưởng xanh phải dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ hiện đại, phù hợp
với điều kiện Việt Nam.
- Tăng trưởng xanh là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền,
các Bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp và tổ chức xã hội.
- Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở
thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng
khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội.

2.2 Chiến lược tăng trưởng xanh
1. Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo theo những chỉ tiêu chủ yếu sau:
Giai đoạn 2011 - 2020: Giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8 - 10% so với
mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 1 - 1,5% mỗi năm. Giảm lượng
phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với

phương án phát triển bình thường. Trong đó mức tự nguyện khoảng 10%, 10% còn
lại mức phấn đấu khi có thêm hỗ trợ quốc tế.
Định hướng đến năm 2030: Giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít
nhất 1,5 - 2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng
từ 20% đến 30% so với phương án phát triển bình thường. Trong đó mức tự
nguyện khoảng 20%, 10% còn lại là mức khi có thêm hỗ trợ quốc tế.


Định hướng đến năm 2050: Giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5 2%.
2. Xanh hóa sản xuất
Thực hiện một chiến lược “công nghiệp hóa sạch” thông qua rà soát, điều
chỉnh những quy hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên,
khuyến khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành
nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường, đầu tư
phát triển vốn tự nhiên; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm.
Những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 gồm: Giá trị sản phẩm ngành công
nghệ cao, công nghệ xanh trong GDP là 42 - 45%; tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh
doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường là 80%, áp dụng công nghệ sạch hơn 50%, đầu
tư phát triển các ngành hỗ trợ bảo vệ môi trường và làm giàu vốn tự nhiên phấn
đấu đạt 3 - 4% GDP.
3. Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững
Kết hợp nếp sống đẹp truyền thống với những phương tiện văn minh hiện
đại để tạo nên đời sống tiện nghi, chất lượng cao mang đậm bản sắc dân tộc cho xã
hội Việt Nam hiện đại. Thực hiện đô thị hóa nhanh, bền vững, duy trì lối sống hòa
hợp với thiên nhiên ở nông thôn và tạo lập thói quen tiêu dùng bền vững trong bối
cảnh hội nhập với thế giới toàn cầu.
Những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 gồm: Tỷ lệ đô thị loại III có hệ thống
thu gom và xử lý nước thải đạt quy chuẩn quy định: 60%, với đô thị loại IV, loại V
và các làng nghề: 40%, cải thiện môi trường khu vực bị ô nhiễm nặng 100%, tỷ lệ
chất thải được thu gom, xử lý hợp tiêu chuẩn theo Quyết định số 2149/QĐTTg diện tích cây xanh đạt tương ứng tiêu chuẩn đô thị, tỷ trọng dịch vụ vận tải

công cộng ở đô thị lớn và vừa 35 - 45%, tỷ lệ đô thị lớn và vừa đạt tiêu chí đô thị
xanh phấn đấu đạt 50%.

*Chiến lược tăng trưởng xanh được tổ chức thực hiện như sau:
1. Phân kỳ thực hiện chiến lược
a) Giai đoạn 2011 - 2020
- Tuyên truyền, nâng cao nhận thức, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
- Xây dựng cơ chế chính sách, bộ máy quản lý thực hiện chiến lược.
- Xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu và công cụ quản lý, bộ chỉ số tiêu
chuẩn, quy chuẩn về tăng trưởng xanh.
- Xác định các dự án trọng điểm về tăng trưởng xanh/các-bon thấp, xanh hóa
các ngành sản xuất, một số dự án thí điểm về quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát


triển kinh tế - xã hội “định hướng tăng trưởng xanh” cấp tỉnh, thành phố (kèm theo,
Phụ lục I: Danh mục chương trình, dự án ưu tiên giai đoạn 2011 - 2015).
b) Giai đoạn 2021 - 2030
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế và chính sách tăng trưởng xanh, điều chỉnh và
nâng quy mô triển khai trên cơ sở định kỳ theo dõi, đánh giá.
- Mở rộng quy mô thí điểm và nhân rộng các quy hoạch tổng thể, các
chương trình, dự án trọng điểm.
- Mở rộng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho phát triển nền kinh tế
xanh.
- Tiến hành kiểm toán môi trường ở các cấp độ (quốc gia, ngành, địa phương
và doanh nghiệp) và thực hiện hạch toán xanh trong các doanh nghiệp.
- Đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu kinh tế theo mô hình nền kinh tế xanh.
c) Giai đoạn 2031 - 2050: Căn cứ vào kết quả việc thực hiện chiến lược tăng
trưởng xanh giai đoạn 2012 - 2030 và tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và bối
cảnh quốc tế để xác định các mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể.
2. Thành lập bộ máy chỉ đạo, điều hành thực hiện chiến lược

Thành lập Ban điều phối triển khai Chiến lược Tăng trưởng xanh trực
thuộc Ủy ban Quốc gia về biến đổi khí hậu để chỉ đạo thực hiện chiến lược tăng
trưởng xanh. Ban do Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban. Bộ trưởng Bộ Kế
hoạch và Đầu tư là Phó Trưởng ban thường trực và 4 Phó Trưởng ban gồm lãnh
đạo các Bộ: Tài chính, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài
nguyên và Môi trường. Các ủy viên Ban gồm đại diện lãnh đạo một số Bộ, ngành
và địa phương và đại diện một số các hiệp hội.
Bộ máy giúp việc cho Ban được đặt tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bộ Kế
hoạch và Đầu tư tổ chức bộ máy “để giúp Ban điều phối chỉ đạo, điều hành thực
hiện chiến lược tăng trưởng xanh.
3. Phân công thực hiện Chiến lược
a) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Là cơ quan đầu mối về tăng trưởng xanh, có trách
nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai thực hiện chiến lược tăng
trưởng xanh; hướng dẫn, giám sát, đánh giá, kiểm tra, tổng hợp tình hình thực hiện
Chiến lược và báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo định kỳ; tổ chức sơ kết 5
năm/lần, giữa kỳ vào năm 2020 và tổng kết vào cuối năm 2030. Chủ trì, phối hợp
với các Bộ, ngành liên quan xác định những nhiệm vụ, dự án trọng điểm trong từng
giai đoạn cụ thể trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.


Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành
liên quan xác định và phân bổ nguồn tài chính trong nước và điều phối các nguồn
tài trợ của nước ngoài, cơ chế chính sách thúc đẩy thực hiện chiến lược tăng trưởng
xanh.
b) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình cấp có
thẩm quyền phê duyệt dự toán và đảm bảo kinh phí cho việc triển khai thực hiện
chiến lược tại các Bộ, ngành theo quy định hiện hành; phối hợp với Bộ Kế hoạch
và Đầu tư xây dựng chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức
và cá nhân đầu tư phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam.

c) Bộ Tài nguyên và Môi trường: Là cơ quan thường trực của Ủy ban Quốc
gia về biến đổi khí hậu; chủ trì, phối hợp trong hoạch định chính sách ứng phó với
biến đổi khí hậu nói chung, hướng dẫn đăng ký, theo dõi, giám sát về phát thải khí
nhà kính, giám sát thực hiện chính sách đầu tư vào vốn tự nhiên.
d) Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ căn cứ chức năng,
nhiệm vụ, xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện các nhiệm vụ của
chiến lược tăng trưởng xanh đồng thời cụ thể hóa nhiệm vụ, lồng ghép vào kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm phù hợp với Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của ngành, cơ quan mình.
đ) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách
nhiệm xây dựng chương trình, kế hoạch hành động và chỉ đạo thực hiện chiến lược
tăng trưởng xanh; cụ thể hóa nhiệm vụ và lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm và hàng năm của địa phương đồng thời bảo đảm kinh phí cho
việc triển khai thực hiện tại địa phương.
Chiến lược xây dựng 8 giải pháp thực hiện, trong đó bao gồm:
- Có chính sách ưu đãi đối với nghiên cứu khoa học-công nghệ và phát triển,
sản xuất, khuyến khích tiêu dùng các sản phẩm xanh/sinh thái; có chính sách để
chuyển phần lớn hoạt động sản xuất và dịch vụ môi trường sang vận hành theo
nguyên tắc thị trường từ hoạt động công ích, bao cấp.
- Khuyến khích doanh nghiệp áp dụng kỹ thuật và công nghệ cao, phù hợp
để phát triển một số sản phẩm xanh truyền thống như dược thảo, nông lâm thủy
sản sinh thái, thực phẩm, hàng tiêu dùng và dệt may từ nguyên vật liệu địa phương.
- Phát triển ngành công nghiệp tái chế hiện đại thân thiện với môi trường.
- Hỗ trợ kỹ thuật và tài chính để hiện đại hóa hoạt động tái chế ở các làng
nghề. Đến năm 2020, loại bỏ các công nghệ cũ lạc hậu, độc hại đối với sức khỏe
người lao động và gây ô nhiễm môi trường ở các làng nghề tái chế.
- Phát triển mạng lưới các trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ
xanh, tổ chức hỗ trợ thương mại hóa, chuyển giao công nghệ xanh, sản xuất sạch
hơn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.



- Khuyến khích doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp
trong nước đầu tư vào lĩnh vực phát triển kinh tế xanh, nhập khẩu, sử dụng và nội
địa hóa công nghệ xanh.
- Khuyến khích tiêu dùng bền vững trong khu vực doanh nghiệp: khuyến
khích doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm tài nguyên và hạn chế lãng phí năng lượng
và tài nguyên; xây dựng hệ thống chứng nhận và dán nhãn sinh thái cho các sản
phẩm xanh.
- Áp dụng một số công cụ kinh tế như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế và phí bảo
vệ môi trường để điều chỉnh những hành vi tiêu dùng không hợp lý.
- Nhà nước ban hành cơ chế khuyến khích các tổ chức tài chính, doanh
nghiệp – nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa – triển khai các hoạt động sản xuất kinh
doanh theo tiêu chí tăng trưởng xanh.
- Hướng dẫn doanh nghiệp về cách thức tiếp cận các lựa chọn tài chính,
công nghệ để thực hiện xanh hóa công nghiệp, nông nghiệp.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khu vực tư nhân và nhà nước
trong hợp tác quốc tế thực hiện chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực.
Thành lập Ban điều phối triển khai Chiến lược trực thuộc Ủy ban Quốc gia về biến
đổi khí hậu (Ban) để chỉ đạo thực hiện Chiến lược với các thành viên từ Bộ Kế
hoạch và Đầu tư , Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Phó Thủ tướng Chính phủ là Trưởng
Ban. Bộ máy giúp việc cho Ban được đặt tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư - cơ quan đầu
mối về tăng trưởng xanh.

2.3 Vai trò của chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đối với hoạt
động ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững ở Việt
Nam
Chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt
Nam khởi thảo. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược này là nhằm thay đổi mô hình
tăng trưởng của Việt Nam thành một mô hình dựa trên việc phát thải các-bon thấp,

sản xuất và tiêu dùng “xanh” cùng với tái cơ cấu nền kinh tế để tăng trưởng kinh tế
gắn kết hiệu quả hơn với tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Theo
đánh giá của các nhà quản lý, Chiến lược tăng trưởng xanh sẽ là một giải pháp hữu
hiệu không những chống biến đổi khí hậu, cải thiện môi trường mà còn tạo công ăn
việc làm cho người lao động. Ông Phạm Hoàng Mai, Vụ trưởng Vụ khoa học giáo
dục tài nguyên môi trường, Bộ Kế hoạch Đầu tư, cho biết: ”Đối với Chiến lược
tăng trưởng xanh của Việt Nam thì chúng tôi tập trung vào ba mục tiêu chính. Đó
là khuyến khích các ngành công nghiệp, những ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên với giá trị gia tăng cao, hạn chế, tiến tới xoá bỏ những ngành,
nghề sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường. Thứ hai là


ứng dụng và phát triển những công nghệ hiện đại nhằm sử dụng tài nguyên thiên
nhiên, giảm phát thải nhà kính để ứng phó với biến đổi khí hậu và mục tiêu thứ ba,
xuyên suốt trong chiến lược này là nâng cao đời sống nhân dân, thông qua việc tạo
việc làm từ các ngành công nghiệp xanh và cải thiện chất lượng sống thông qua
việc xây dựng lối sống thân thiện với môi trường”.
Theo dự thảo của Chiến lược tăng trưởng xanh, không chỉ các cấp quản lý,
các doanh nghiệp mà cả hệ thống chính trị và toàn xã hội đều phải tham gia vào
việc bảo vệ môi trường. Theo ông Phạm Hoàng Mai, yếu tố này sẽ từng bước làm
thay đổi mô hình tăng trưởng ở Việt Nam hiện nay: “Tăng trưởng xanh ở Việt
Namlà tăng trưởng dựa trên mô hình tăng trưởng tái cơ cấu lại nền kinh tế nhằm
tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông
qua việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ
tầng hiện đại để sử dụng tài nguyên thiên thiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng
phó với biến đổi khí hậu, góp phần xoá đói giảm nghèo và tạo động lực để tăng
trưởng kinh tế một cách bền vững”.
Mới chỉ là dự thảo nhưng Chiến lược tăng trưởng xanh đã nhận được sự
đồng tình, ủng hộ của nhiều bộ, ngành và tổ chức xã hội. Ông Mai Đức Chính, Phó
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cho biết: “Chúng tôi nhận thức và xác định rõ

rằng, kinh tế xanh là nền kinh tế vô cùng cần thiết trong thời gian khủng hoảng
kinh tế, khủng hoảng sinh thái của VN. Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ xây dựng Chiến
lược cụ thể của công đoàn Việt Nam để tham gia một cách thiết thực và hiệu quả
với Chính phủ trong quá trình chuyển và thực hiện nền kinh tế xanh để vừa tăng
cường sức mạnh của nền kinh tế, vừa đảm bảo an sinh xã hội”.
Với chức năng quản lý Nhà nước về công nghiệp và thương mại, Bộ Công
thương cũng đang xây dựng chiến lược riêng nhằm góp phần tạo ra một xã hội phát
triển theo chiều hướng xanh. Ông Huỳnh Đắc Thắng, Phó vụ trưởng vụ Kế hoạch,
Bộ Công thương, tại Hội thảo về Chiến lược tăng trưởng xanh tổ chức mới đây tại
Hà nội, cho biết Bộ Công Thương sẽ tìm cách khuyến khích xã hội sử dụng năng
lượng tái tạo.” Thực tế cho thấy là cùng với việc tăng trưởng mạnh về kinh tế trong
thời gian qua, nhu cầu sử dụng năng lượng cũng tăng lên một cách nhanh chóng.
Việc quảng bá, khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo không chỉ tác động đến
nền kinh tế xanh mà còn mở rộng phục hồi được thị trường nhân công. Những
công việc được tạo ra hoặc được duy trì bằng quá trình đầu tư về kỹ thuật, tiến
trình sản xuất năng lượng tái tạo sẽ sinh ra những việc làm mới”.
Theo kế hoạch, Chiến lược tăng trưởng xanh sau khi được Chính phủ thông
qua vào tháng sáu tới, sẽ được thực hiện từ nay đến năm 2020. Ước tính sau 10
năm nữa, mức tiêu hao năng lượng tính theo GDP của Việt Nam sẽ giảm khoảng
3% mỗi năm, cường độ phát thải khí nhà kính của VN sẽ giảm 5% so với hiện tại.
Chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam được kỳ vọng là công cụ thúc đẩy quá
trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế


so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua nghiên cứu
và áp dụng công nghệ hiện đại, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng để nâng cao hiệu
quả nền kinh tế đồng thời ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói
giảm nghèo, và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.



KẾT LUẬN
Biến đổi khí hậu là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng, là một
trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ 21. Thiên tai và các
hiện tượng khí hậu cực đoan khác đang gia tăng ở hầu hết các nơi trên thế giới,
nhiệt độ và mực nước biển trung bình toàn cầu tiếp tục tăng nhanh chưa từng có và
đang là mối lo ngại của các quốc gia trên thế giới. BĐKH sẽ tác động nghiêm trọng
đến sản xuất, đời sống và môi trường trên phạm vi toàn thế giới: đến 2080 sản
lượng ngũ cốc có thể giảm 2 - 4%, giá sẽ tăng 13 - 45%, tỷ lệ dân số bị ảnh hưởng
của nạn đói chiếm 36-50%; mực nước biển dâng cao gây ngập lụt, gây nhiễm mặn
nguồn nước, ảnh hưởng đến nông nghiệp, và gây rủi ro lớn đối với công nghiệp và
các hệ thống KT-XH trong tương lai. Các công trình hạ tầng được thiết kế theo các
tiêu chuẩn hiện tại sẽ khó an toàn và cung cấp đầy đủ các dịch vụ trong tương lai.
Ở Việt Nam, trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng
khoảng 0,7 độ C, mực nước biển đã dâng khoảng 20 cm. Hiện tượng El-Nino, LaNina ngày càng tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. BĐKH thực sự đã làm cho các
thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt. Theo tính toán, nhiệt độ
trung bình ở Việt Nam có thể tăng lên 3 độ C và mực nước biển có thể dâng 1 m
vào năm 2100. Nếu mực nước biển dâng 1 m, khoảng 40 nghìn km2 đồng bằng
ven biển Việt Nam sẽ bị ngập hàng năm, trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh
Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập hầu như hoàn toàn (Bộ TNMT, 2003). Theo
đánh giá của Ngân hàng Thế giới (2007), Việt Nam là một trong năm nước sẽ bị
ảnh hưởng nghiêm trọng của BĐKH và nước biển dâng, trong đó vùng đồng bằng
sông Hồng và sông Mê Công bị ngập chìm nặng nhất. Nếu mực nước biển dâng
1m sẽ có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất đối với GDP khoảng
10%. Nếu nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp và
tổn thất đối với GDP lên tới 25%. Hậu quả của BĐKH đối với Việt Nam là nghiêm
trọng và là một nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo, cho việc thực
hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước.
Nhận thức rõ ảnh hưởng của BĐKH, Chính phủ Việt Nam đã sớm tham gia
và phê chuẩn Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH và Nghị định thư
Kyoto. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã triển khai các chương trình, dự án nghiên

cứu tình hình diễn biến và tác động của BĐKH đến tài nguyên, môi trường, sự phát
triển KT-XH, đề xuất và bước đầu thực hiện các giải pháp ứng phó. Tuy vậy,
những cố gắng nói trên là chưa đủ để đảm bảo ứng phó có hiệu quả với những tác
động trước mắt và tiềm tàng của BĐKH.



×