Tải bản đầy đủ (.docx) (108 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ 2 3 tuổi thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.37 KB, 108 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Nguyễn Đình Mạnh - TS.
Giảng viên chính tổ Tâm lý - Giáo dục trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
-

người đã tần tình hướng dẫn, chỉ bảo giúp em thực hiện tốt đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường, các cô giáo của trường
Mần non Ngô Quyền - Thành phố Vĩnh Yên đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ
em trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Với điều kiện thời gian nghiên cứu và vốn kiến thức còn hạn chế, chắc
chắn đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng
góp của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để đề tài này thực sự có chất lượng
và hữu ích.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 04 năm 2009 Sinh viên Trần Thị Mến

1


LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em
đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của thầy Nguyễn Đăng Mạnh, cùng với sự
giúp đỡ của quý thầy cô và sự đóng góp ý kiến của các bạn trong khoa Tiểu học.
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, em đã đọc những tài liệu tham khảo có liên
quan đến những vấn đề trong đề tài của mình. Em xin cam đoan những kết quả
trong khóa luận này là của riêng em. Kết quả nghiên cứu không trùng với bất cứ
một kết quả nào của những tác giả khác.
Hà Nội, tháng 04 năm 2009 Sinh viên Trần Thị Mến

2



MỤC LỤC

3


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trường mẫu giáo là mắt xích đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, là
khâu quan trọng của hệ thống giáo dục và giáo dưỡng tiếng mẹ đẻ ở nhà trường.
Việc dạy và học tiếng mẹ đẻ có thể nói được bắt đầu từ lúc lọt lòng. Nắm vững
tiếng nói là điều kiện đầu tiên, quan trọng nhất để trẻ có thể hình thành, phát triển
hoàn thiện toàn bộ các chức năng tâm lý. Từ 3 đến 6 tuổi, trong những điều kiện
thuận lợi, trẻ bước đầu nắm được hệ thống ngữ âm, ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ và
trên cơ sở này giúp trẻ phát triển nhanh chóng vốn từ và các cấu trúc ngữ pháp.
Điều này giúp cho trẻ phát triển các mặt trí tuệ, tình cảm nhanh chóng và do đó
nhân cách của trẻ sẽ được hình thành, có ý nghĩa quyết định đến tương lai sau này
của trẻ.
Mỗi dân tộc đều có một kho tàng phong phú trò chơi trẻ em được tích lũy và
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhà tâm lý học nổi tiếng người Pháp là

4


Henri - Wallon (1879 - 1962), trong khi nghiên cứu tâm lý trẻ em cũng đã xem trò
chơi của trẻ là một hiện tượng xã hội đáng quan tâm, mà trò chơi đóng vai theo
chủ đề chiếm một vị trí quan trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ.
Các nhà tâm lý học cho rằng, hoạt động vui chơi mà nòng cốt là trò chơi
đóng vai theo chủ đề là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Độ tuổi mẫu giáo
nhỡ là chặng giữa tuổi mẫu giáo. Nó đã vượt qua thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi ấu

nhi lên để tiến tới một chặng đường phát triển tương đối ổn định. Có thể coi đây
là một thời kỳ phát triển rực rỡ của những nét tâm lý đặc trưng cho tuổi mẫu giáo.
Từ trước đến nay ở một số nơi, việc phát triển tiếng mẹ đẻ ở nhà trẻ và
trường Mẫu giáo chưa được quan tâm đúng mực, đặc biệt là trong trò chơi đóng
vai theo chủ đề. Việc phát triển tiếng mẹ đẻ chậm trễ sẽ cản trở sự hình thành và
phát triển nhân cách của trẻ thơ.
Vấn đề xây dựng nội dung và tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề ở các
trường mầm non có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo

5


nhỡ. Trong khi đó, việc nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ
thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề ở Việt Nam còn chưa có công trình
nghiên cứu cụ thể. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
mẫu giáo nhỡ thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề” là quan trọng và cần thiết.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Việc sử dụng trò chơi trong dạy học không phải là vấn đề mới được đặt ra
mà ngay từ đầu thế kỷ XX, nhà tâm lý học Thụy Sỹ J. Paget đã rất quan tâm đến
phương pháp này “thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập”.
Năm 1974, trong tạp chí văn học ở trường học Mat-xcơ-va số 2 (trang 53)
B.C. Giê-nhi-xkai-a đã cho rằng “chúng ta không những phải tạo cho trẻ thì giờ
để chơi mà còn phải làm cho toàn bộ cuộc sống của trẻ được nuôi dưỡng bằng trò
chơi”.
ớ Việt Nam cũng có nhiều tác giả quan tâm đến việc sử dụng phương pháp
này trong từng môn học cụ thể. Đó là PGS. TS Nguyễn Ánh Tuyết với cuốn sách

6



“Giáo dục mầm non những vấn đề lý luận và thực tiễn”, hay “Tâm lý học trẻ lứa
tuổi mầm non”.v.v.. Trong những cuốn sách này tác giả đã đề cập đến vai trò của
trò chơi đóng vai theo chủ đề đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em một cách
khái quát. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể cách thức xây
dựng nội dung chương trình, và phương pháp tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ
đề, để qua đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ mẫu giáo nhỡ
nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích

Nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ thông qua trò chơi
đóng vai theo chủ đề, qua đó rút ra một số kết luận và kiến nghị nhằm không
ngừng phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
3.2.

Nhiệm vụ

Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài:

7


* Tìm hiểu các khái niệm:
Khái niệm trẻ em.
Khái niệm ngôn ngữ.
Khái niệm trò chơi đóng vai theo chủ đề.
Trẻ mẫu giáo nhỡ.
* Nghiên cứu thực trạng sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ thông

qua trò chơi đóng vai theo chủ đề.
* Tìm hiểu nguyên nhân chủ quan và khách quan có ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ (đặc biệt là trò chơi đóng vai
theo chủ đề).
* Thực nghiệm tác động vào qua trình phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo
nhỡ thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1.

Khách thể nghiên cứu

8


Trẻ mẫu giáo nhỡ trường Mầm non Ngô Quyền - Thành phố Vĩnh Yên.
4.2.

Đối tượng nghiên cứu

Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ thông qua trò chơi đóng vai
theo chủ đề.
5. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
5.1.

Khách thể nghiên cứu
* 109 trẻ, lớp 4 tuổi A và 4 tuổi B trường Mầm non Ngô Quyền - Thành phố
Vĩnh Y ên.

5.2.


Đối tượng
Chỉ nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ thông qua trò

chơi đóng vai theo chủ đề.
6. Giả thiết nghiên cứu của đề tài
Ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ ở lớp 4 tuổi A, 4 tuổi B trường Mầm non
Ngô Quyền còn phát triển chậm. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng

9


trên trong đó trò chơi đóng vai theo chủ đề có vai trò quan trọng. Bằng sự đổi mới
nội dung và phương pháp tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề, sẽ làm cho ngôn
ngữ của các em nhanh chóng phát triển.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1.

Phương pháp quan sát
Dự tiết dạy của cô giáo, qua đó nắm được vốn từ và khả năng diễn đạt của

trẻ. Quan sát trong hành động và ghi chép trung thành ngôn ngữ của trẻ.
Ví dụ: Cô cho trẻ quan sát ngôi nhà.
Giáo viên mang ngôi nhà vào lớp, ngôi nhà được bọc kín. Cô tập trung hết
sự chú ý của trẻ rồi mới lấy ngôi nhà cho trẻ quan sát. Khi đó trẻ gọi chính xác tên
của đồ chơi là ngôi nhà, ngôi nhà màu xanh, cửa sổ màu vàng, nhà có hai tầng, tác
dụng của ngôi nhà là để ở.
7.2.

Phương pháp trò chuyện


10


Trao đổi, tọa đàm với các cô giáo về đề tài nghiên cứu. Trò chuyện với trẻ,
hỏi trẻ một số câu hỏi nhằm làm rõ hơn vốn từ và khả năng diễn đạt của trẻ, chẳng
hạn, về cảm xúc, hứng thú của trẻ khi trẻ đóng vai.
7.3.

Phương pháp thực nghiệm tác động
Đề tài đã sử dụng phương pháp thực nghiệm tác động như sau:
Chia lớp nghiên cứu thành hai nhóm có số lượng trẻ và chất lượng ngôn ngữ

tương đương.
Nhóm thực nghiệm được tác động bằng nội dung trò chơi đóng vai theo chủ
đề và phương pháp to chức đặc biệt (xin xem thêm ở mục thực nghiệm tác động
trong phần nội dung khóa luận).
Nhóm đối chứng được dạy bằng nội dung và phương pháp to chức trò chơi
đóng vai theo chủ đề như ở trường Mầm non Ngô Quyền vẫn dạy.
Sau một thời gian thực nghiệm tác động xem sự phát triển ngôn ngữ ở nhóm
thực nghiệm và nhóm đối chứng có sự khác nhau không?

11


7.4.

Phương pháp trắc nghiệm
Khóa luận sử dụng phương pháp trắc nghiệm để đo vốn từ và khả năng sử

dụng cấu trúc ngữ pháp của trẻ (xin xem cụ thể ở phần nội dung khóa luận).

7.5.

Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Người nghiên cứu ghi lại, hệ thống lại những từ ngữ, những kết cấu ngữ

pháp mà trẻ nói ra trong quá trình tham gia trò chơi đóng vai theo chủ đề. Trên cơ
sở đó đưa ra nhận xét về sự phát triển vốn từ cũng như cách phát âm, hay khả
năng sử dụng cấu trúc ngữ pháp của trẻ.
1.8.

Cấu trúc khóa luận
Khóa luận gồm:

Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Khảo sát thực trạng Chương 3:

12


Thực nghiệm tác động Phần 3: Kết luận và
kiến nghị
PHẦN 2: NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Ngôn ngữ và sự hình thành phát triển ngôn ngữ
1.1.1.

Khái niệm ngôn ngữ

Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản

và quan trọng nhất của các thành viên trong cộng đồng người. Ngôn ngữ đồng
thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn hóa - lịch
sử từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tùy theo hoàn cảnh lịch sử mà sự hình thành dân tộc và ngôn ngữ dân tộc
mỗi nơi, mỗi thời kỳ một khác, theo những con đường khác nhau. Mác và
Ăngghen đã viết: “Trong bất cứ ngôn ngữ phát triển nào hiện nay, cái nguyên
nhân khiến cho một ngôn ngữ phát sinh một cách tự phát, được nâng lên thành
ngôn ngữ dân tộc, thì một phần là do ngôn ngữ đó được phát triển một cách lịch

13


sử từ chỗ nó được chuẩn bị đầy đủ về tư liệu, như ngôn ngữ La Mã và ngôn ngữ
Giécmani chẳng hạn, một phần là do sự giao dịch và hỗn hợp của các dân tộc, như
tiếng Anh chẳng hạn; một phần nữa là do các phương ngữ tập trung thành ngôn
ngữ dân tộc thống nhất và sự tập trung đó lại do sự tập trung kinh tế, chính trị
quyết định”.
1.1.2.

Các bộ phận và các đơn vị của ngôn ngữ

a. Các bộ phận của ngôn ngữ
Ba bộ phận cấu thành của ngôn ngữ là từ vựng, ngữ âm và ngữ pháp. Trong
kết cấu ngôn ngữ, từ vựng thuộc vào ngoại biên về nghĩa vì nó trực tiếp gọi tên
các sự vật, hiện tượng của thực tế; còn ngữ âm phụ thuộc vào ngoại biên về chất
liệu vì nó trực tiếp được tích lũy bởi giác quan con người. So với ngữ âm và từ
vựng thì ngữ pháp luôn luôn là gián tiếp, không có tính chất cụ

14



thể. Nó chỉ liên hệ với thực tế thông qua từ vựng, chỉ lĩnh hội được thông qua ngữ
âm. Vì vậy, ngữ pháp chiếm vị trí trung tâm trong kết cấu ngôn ngữ. b. Các đơn vị
của ngôn ngữ
* Âm vị: Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất mà người ta có thể phát âm ra
được trong chuỗi lời nói. Ví dụ: Các âm [b], [t], [v],.v.v.. hoàn toàn không
thể chia nhỏ chúng hơn.
Âm vị có chức năng nhận cảm và chức năng phân biệt nghĩa. Ví dụ “bào” có
nghĩa là một dụng cụ của thợ mộc để làm mòn, nhẵn gỗ, còn “vào” có nghĩa là
“một hành động đi từ ngoài tới trong”. Cái làm ta phân biệt được hai nghĩa đó
không phải do bộ phận ngữ âm trùng nhau giữa hai từ là [-ào] mà do sự đối
giữa âm [b] và
* Hình vị là một hoặc

lập

âm [v] tạo nên.
chuỗi kết hợp một vài âm vị, biểu

15

thị một khái


niệm. Nó là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa. Chức năng của hình vị là chức năng ngữ
nghĩa. Ví dụ kết hợp “quốc gia” trong tiếng Việt gồm hai hình vị: “quốc” là
“nước” và “gia” là “nhà”.
* Từ là chuỗi kết hợp của một hoặc một vài hình vị mang chức

năng gọi


tên và chức năng ngữ nghĩa. Ví dụ các từ: Tủ, ghế, đi, cười.v.v..
* Câu là chuỗi kết hợp của một hay nhiều từ, chức năng của nó là chức năng
thông báo.
Các đơn vị của ngôn ngữ là âm vị, hình vị, từ, câu, ngữ đoạn, văn bản.v.v..
bất cứ thứ tiếng (ngôn ngữ) nào, cũng chứa đựng hai phạm trù: Phạm trù ngữ
pháp và phạm trù logic. Phạm trù ngữ pháp là một hệ thống các quy định việc
thành tập từ và câu cũng như quy định sự phát âm, phạm trù này ở các thứ tiếng
khác nhau là khác nhau. Phạm trù logic là quy luật, vì vậy tuy dùng các thứ tiếng
khác nhau, nhưng các dân tộc khác nhau vẫn hiểu được nhau.

16


Tóm lại, ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu đặc biệt, dùng làm phương tiện
giao tiếp và là công cụ tư duy.
1.1.3.

Chức năng của ngôn ngữ

a. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người
Không ai có thể phủ nhận ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người.
Ngay cả những bộ lạc lạc hậu nhất mà người ta mới phát hiện ra cũng dùng ngôn
ngữ để nói chuyện với nhau. Ngoài ngôn ngữ, con người còn có những phương
tiện giao tiếp khác như cử chỉ, các loại dấu hiệu, ký hiệu khác nhau (ký hiệu toán
học, đèn tín hiệu giao thông.v.v..), những kết hợp âm thanh của âm nhạc, những
kết hợp màu sắc của hội họa.v.v.. nhưng ngôn ngữ là phương tiện trọng yếu nhất
của con người.
Chính nhờ ngôn ngữ mà con người có thể hiểu nhau trong quá trình sinh
hoạt và lao động, mà người ta có thể diễn đạt và làm cho người khác hiểu được tư

tưởng, tình cảm, trạng thái và nguyện vọng của mình. Có hiểu biết lẫn nhau, con

17


người mới có thể đồng tâm hiệp lực chinh phục thiên nhiên, chinh phục xã hội,
làm cho xã hội ngày càng tiến lên.
b. Ngôn ngữ là phương tiện của tư duy
Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ gắn liền với chức năng thể hiện tư duy
của nó, bởi vì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ chỉ có thể giúp ta trao đoi tư tưởng,
tình cảm với nhau, do đó hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau tổ chức công tác chung
trên mọi lĩnh vực hoạt động nếu bản thân ngôn ngữ tàng trữ kinh nghiệm, những
tư tưởng và tình cảm của con người.
Chức năng thể hiện tư duy của ngôn ngữ thể hiện ở cả hai khía cạnh:
+ Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không có từ nào, câu nào
mà lại không biểu hiện khái niệm hay tư tưởng. Ngược lại, không có ý nghĩ, tư
tưởng nào không tồn tại dưới dạng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là biểu hiện thực tế của tư
tưởng.

18


+ Ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư tưởng. Mọi ý
nghĩ, tư tưởng chỉ trở nên rõ ràng khi được biểu hiện bằng ngôn ngữ. Không có
ngôn ngữ thì không có tư duy và ngược lại không có tư duy thì ngôn ngữ chỉ là
những âm thanh trống rỗng, thực chất là không có ngôn ngữ.
1.1.4.

Vai trò của ngôn ngữ đối với tư duy và giao tiếp của con người


a. Ngôn ngữ là công cụ để phát triển tư duy, nhận thức
Quá trình hình thành của trẻ bên cạnh thể chất là trí tuệ. Công cụ để phát
triển tư duy, trí tuệ chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là hiện thực (sự hiện hữu)
của tư duy.
Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học tập, vui chơi: Đây là những hoạt động chủ
yếu của trường mầm non. Giống như việc dạy trẻ tiếng mẹ đẻ ở các cấp học khác,
phát triển lời nói cho trẻ ở trường mầm non thực hiện mục tiêu “kép”. Đó là, trẻ
học để biết tiếng mẹ đẻ đồng thời sử dụng nó như một công cụ để vui chơi, học

19


tập. Như vậy, ngôn ngữ cần cho tất cả các hoạt động và ngược lại, mọi hoạt động
tạo cho ngôn ngữ trẻ phát triển.
b. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp
“Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng. Giao tiếp là một đặc
trưng quan trọng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất” (Lênin). Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể hiểu được nhau, cùng nhau
hành động vì những mục đích chung. Không có ngôn ngữ, không thể giao tiếp
được, thậm chí không thể tồn tại được, nhất là trẻ em, một sinh thể yếu ớt rất cần
đến sự chăm sóc, bảo vệ của người lớn.
Ngôn ngữ là một công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện vọng
của mình từ khi còn rất nhỏ để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển. Giáo dục
trẻ là một điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt
động hình thành nhân cách trẻ.
1.2.

Sự hình thành, phát triển ngôn ngữ của cá nhân

20



1.2.1.

Ngôn ngữ nói
Bắt đầu từ 12 tháng trở đi, ở trẻ sẽ xuất hiện những âm bập bẹ có ý nghĩa đầu

tiên và ngay lập tức trẻ huy động chúng vào giao tiếp với người lớn. Các âm bập
bẹ nhanh chóng mất đi nhường chỗ cho các từ tham gia vào cấu tạo câu sử dụng
trong giao tiếp. Những từ đầu tiên xuất hiện, các kiểu câu đơn giản gồm hai đến
ba từ khiến cho khả năng giao tiếp của trẻ tăng lên. Trẻ tích cực hơn trong giao
tiếp và sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Nhu cầu giao tiếp tăng lên thúc đẩy hoạt
động giao tiếp ngôn ngữ; kết quả là các kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ được hình
thành.
1.2.2.

Ngôn ngữ viết
Trẻ luyện viết là hoạt động tập hứng thú và tự giác. Chính vì vậy, khi dạy

viết cho trẻ quan trọng nhất là giải thích để trẻ hiểu được mục đích của việc luyện
viết (lưu ý trẻ mẫu giáo chưa tiến hành hoạt động học tập). Giáo viên mầm non
chỉ khuyến khích cho trẻ nhận thức được tầm quan trọng của chữ viết. Trẻ sẽ tự

21


giác ngồi vào vẽ chữ. Khi trẻ bắt đầu có hứng thú với chữ viết cô nên chuẩn bị
dụng cụ để giúp trẻ luyện viết tại góc luyện viết (bút chì, bút màu, bút vẽ.v.v..).
1-->rp 2_______________• r


.3. Trẻ mâu giáo
1.3.1.

Khái niệm trẻ em
Theo quan niệm cổ: “Trẻ em là người lớn thu nhỏ lại”.
ớ thể kỷ XVIII, nhà giáo dục, nhà văn, nhà triết học J.J. Kơrutxô quan niệm:

“Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại. Trẻ em là trẻ em, phát triển theo quy
luật riêng của trẻ em. Người lớn không thể hiểu được tâm lý trẻ em và không nên
can thiệp vào sự phát triển của trẻ em”.
Quan niệm khoa học về trẻ em:
Trẻ em là một thực thể đang phát triển, là một thực thể tự vận động theo quy
luật của bản thân nó. Người lớn là hình thức phủ định của trẻ em, là giai đoạn
phát triển mới của đời sống cá thể. Sự vận động tất yếu của trẻ em do quá trình

22


phát triển bên trong của nó, sự tự phủ định bản thân mình để chuyển hóa sang một
trình độ mới khác về chất - trở thành người lớn - Nên Người.
1.3.2.

Sự phát triển vốn từ của trẻ
Năng lực tư duy trừu tượng gắn liền với sự phát triển vốn từ. Được biết rằng

từ 5 đến 9 tuổi vùng trán trên vỏ đại não đã tham gia tích cực vào sự phát triển lời
nói, chữ viết. Vốn từ của trẻ được phát triển thuận lợi. Từ 1,5 tuổi trở đi trẻ đã
biết mở rộng phạm vi áp dụng vốn từ của mình vào những đối tượng khác.
Theo một nghiên cứu của Lưu Thị Lan (1994) sự phát triển vốn từ của trẻ
mẫu giáo ở nước ta như sau:

Số tháng tuổi

39

48

60

72

Số từ trung bình

515

724

890

1023

23


Theo nghiên cứu của Casouy (1977), Dollaghan (1985) trẻ 18 tháng mới biết
được khoảng 50 từ nhưng đến khi từ 3 - ỏ tuổi đã có thể tích lũy được 8000 14000 từ, trung bình 5 - 8 từ/ngày.
Điều đó cho ta thấy nếu trẻ em ở nước ta được đến trường sớm và được các
cô giáo có trình độ đạt chuẩn chăm sóc và giáo dục thì chắc chắn ngôn ngữ sẽ tạo
điều kiện căn bản cho trẻ vào lớp 1.
1.3.3.


Đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo nhỡ
Để xử lý tình huống xảy ra trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ là cả một

nghệ thuật, nhất là khi trẻ em còn ở độ tuổi thơ dại. Chính vì vậy để vận dụng khả
năng sư phạm của mình trong việc giải quyết tốt các tình huống xảy ra giáo viên ở
các trường mẫu giáo ngoài tình yêu nghề, yêu trẻ; tinh thần trách nhiệm cao, sự
cần mẫn, kiên trì còn cần phải có sự hiểu biết nhất định về đặc điểm tâm lý của
trẻ.

24


Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ đặc điểm đầu tiên là đặc điểm về hoạt động vui
chơi. ớ độ tuổi nào con người cũng đều tham gia vào hoạt động vui chơi, nhưng
chỉ ở tuổi mẫu giáo mà ở chính giữa cái tuổi ấy (tức là tuổi mẫu giáo nhỡ) thì hoạt
động vui chơi mới mang đầy đủ ý nghĩa của nó nhất, cũng tức là nó đạt tới dạng
chính thức và biệu hiện đầy đủ nhất đặc điểm của hoạt động vui chơi, nhiều hơn
cả là trò chơi đóng vai theo chủ đề. Do đã có ít nhiều vốn kinh nghiệm về cuộc
sống nên trẻ mẫu giáo nhỡ đã có thể tự lựa chọn chủ đề và nội dung chơi cũng
như cần có bạn chơi “tâm đầu ý hợp” để vui chơi bền hơn, vui hơn.
Đặc điểm thứ hai của trẻ mẫu giáo nhỡ là sự phát triển mạnh tư duy trực
quan hình tượng và có khả năng suy luận.
Tiếp theo là sự phát triển đời sống tình cảm. Trong lứa tuổi ấu nhi cũng như
lứa tuổi mẫu giáo thì tình cảm thống trị tất cả các mặt trong hoạt động tâm lý của
trẻ; nhưng đặc biệt ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ thì đời sống tình cảm của trẻ có một

25



×