Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

TIỂU LUẬN: NGUYÊN NHÂN TÂY BAN NHA LIÊN QUÂN VỚI PHÁP TRONG VIỆC XÂM LƯỢC VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.28 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ
KHOA LỊCH SỬ
--------------------

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: QUAN HỆ GIỮA PHƢƠNG TÂY VỚI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG
NAM Á (TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN THẾ KỶ XIX)

Đề tài: NGUYÊN NHÂN TÂY BAN NHA LIÊN QUÂN VỚI PHÁP TRONG
VIỆC XÂM LƢỢC VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

PGS.TS. Đặng Văn Chương

Lê Văn Viện

Huế, tháng 05 năm 2016

1


Lời cảm ơn!
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo Đặng Văn
Chƣơng, hƣớng dẫn tìm tài liệu của cô giáo Trần Thị Quế Châu và các bạn đã giúp
đỡ em trong việc hoàn thành tiểu luận học phần Quan hệ giữa phƣơng Tây với các
quốc gia Đông Nam Á (từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX). Với tƣ cách là một sinh viên
khi nghiên cứu, thời gian có hạn, vấn đề nghiên cứu lại phức tạp thì khó tránh khỏi
những sai sót và hạn chế. Rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến của thầy và các


bạn để đề tài tiểu luận đƣợc ngày một hoàn thiện hơn.
Sinh viên thực hiện
Lê Văn Viện
A. PHẦN MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong các thế kỉ XVI, XVII, XVIII, thắng lợi của các cuộc cách mạng tư
sản đã đưa giai cấp tư sản lên nắm chính quyền ở một số nước phương Tây. Cùng
với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, các thế lực thực dân phương
Tây đã đẩy nhanh quá trình xâm lược các nước phương Đông. Trong số các nước
thực dân phương Tây dòm ngó nước ta lúc bấy giờ, Pháp là nước có âm mưu xâm
lược Việt Nam lâu dài, liên tục. Âm mưu xâm lược đó được xúc tiến mạnh mẽ từ
giữa thế kỉ XIX trong bối cảnh chế độ phong kiến Việt Nam đang bị khủng hoảng
trầm trọng về chính trị, kinh tế, xã hội…Sự phát triển kinh tế của tư bản Pháp
trong những năm 50 của thế kỉ XIX càng thúc đẩy Napôlêông III (Napoléon III)
tăng cường xâm lược các nước phương Đông. Trong cuộc chiến tranh xâu xé
Trung Quốc, Pháp liên minh với Anh và giành giật được một số quyền lợi ở Trung
Quốc, nhưng tham vọng của tư bản Pháp không chỉ dừng lại ở đó.
Cuối cùng sau khi liên quân Pháp - Anh can thiệp xong Quảng Châu –
Trung Quốc (5-1-1858) và dùng áp lực quân sự buộc nhà Thanh kí Hiệp ước Thiên
Tân (27-6-1858), Rigôn Đờ Gionuiy (Rigault De Genouilly) kéo ngay quân xuống
hợp với quân Tây Ban Nha, rồi kéo thẳng tới Đà Nẵng dàn trận từ chiều ngày 318-1858. Tây Ban Nha liên quân với Pháp lẽ tất yếu phải có duyên cớ, có lợi ích, có
mưu đồ và phải có những điều kiện cần và đủ để hai nước có những cái lí do
chung để bắt tay với nhau trong việc xâm lược Việt Nam. Và để tìm hiểu sâu hơn
nguyên nhân mà Tây Ban Nha liên quân với Pháp trong việc xâm lược Việt Nam,
đó cũng chính là lí do mà em mạnh dạn chọn đề tài nêu ở trên làm đề tài tài tiểu
I.

2



luận học phần Quan hệ giữa Phương Tây với các quốc gia Đông Nam Á (Từ thế
kỷ XVI đến thế kỉ XIX).
II.
LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Tuy không có những công trình tập trung nghiên c u về nguyên nhân Tây
Ban Nha liên quân với Pháp trong việc xâm lược Việt Nam, nhưng liên quan đến
nội dung nghiên c u đề tài này, từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên
c u dưới dạng cung cấp nguồn tư liệu: Kỷ Niệm 100 năm ngày Pháp chiếm Nam
Kỳ (20-6-1867 – 20-6-1967)(1967) - Trương Bá Cần, Phạm Cao Dương, Lê Văn
Hảo, Nguyễn Khắc Ngữ, Trần Trọng Phủ, Lý Hánh Trung, đã có đề cập đến sự
tiếp tay của Tây Ban Nha trong việc xâm lược Việt Nam; trong Giáo trình Lịch Sử
Việt Nam Cận Đại (2013) - Trương Công Huỳnh Kỳ, Nguyễn Tất Thắng, Đỗ
Mạnh Hùng đã có nhắc ý chính lí do Tây Ban Nha liên quân với Pháp; hay bài báo
Về sự kiện Quân Pháp nổ súng tiến đánh Đà Nẵng năm 1858 (TCLSQS - số 92008) – Hồng Việt Quân đã đề cập đến lực lượng tham chiến chiến ở Đà Nẵng của
Tây Ban Nha trong việc liên quân với Pháp. Nhìn t ng thể, các công trình trên chỉ
mới đề cập một cách khái quát và rời rạc về nguyên nhân Tây Ban Nha liên quân
với Pháp trong việc xâm lược Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên c u đó
vừa có nghĩa gợi mở những tưởng vừa là những tư liệu qu giá giúp chúng tôi
hoàn thành đề tài.
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng cơ sở lý luận sử học mácxít và lí luận của nghành lịch sử. Sử
dụng phương pháp sưu tầm, tập hợp, chọn lọc, xử lý, t ng hợp các tài liệu liên
quan đến đề tài Nguyên nhân Tây Ban Nha liên quân với Pháp trong việc xâm
lược Việt Nam.
IV. ĐÓNG GÓP ĐỀ TÀI
Đề tài góp phần làm rõ hơn những nguyên nhân Tây Ban Nha liên quân với
Pháp trong việc xâm lược Việt Nam từ đó đưa ra một số kiến giải t ng quát, nhằm
tự tìm một cơ sở khoa học để lý giải những vấn đề liên quan.
V.
GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU

Không gian và thời gian: Nguyên nhân Tây Ban Nha liên quân với Pháp
trong việc xâm lược Việt Nam từ 1857-1860.
B. PHẦN NỘI DUNG
III.

CHƢƠNG I: THỰC DÂN PHÁP RÁO RIẾT XÂM LƢỢC VIỆT NAM
Suốt một thời kì dài, trải qua các triều đại Louis XVIII, Charles X, Louis Philippe,
Pháp vẫn do dự, chưa muốn mở thêm một mặt trận nữa đánh vào x An Nam, mà chỉ
3


diễu võ gương oai bằng lực lượng hải quân; cử s thần đi đàm phán trên thế mạnh vào
những năm 1825, 1838, 1843, 1847 và đã xảy ra một cuộc đụng độ trên biển giữa hạm
đội Pháp với thủy quân Việt Nam. Cuối cùng, Chasseloup Laubat, được giao giữ ch c Bộ
trưởng Hải quân và thuộc địa liên tục từ năm 1858 đến 1867, đã thuyết phục được vua
Napôlêông III (Napoleón III) bằng cam kết là chỉ sử dụng lực lượng hải quân sẵn có
trong khu vực, chưa cần động binh thêm, vẫn có thể chinh phục được x An Nam. Hai
nhà nghiên c u Brocheux và Hemery nhận định đây là “chủ nghĩa đế quốc hàng hải” mà
người sáng lập là Chasseloup Laubat và những người kế tục là Doudart de Lagrée và một
loạt đô đốc hải quân tiếp theo. Trong cuốn Những thuộc địa Pháp xuất bản từ năm 1893,
nhà nghiên c u Paul Gaffarel đã tiết lộ quan điểm ghi trên văn bản của Bộ trưởng hải
quân Pháp là: “Nước Pháp không thể nào được vắng mặt tại vùng đất rộng lớn này mà
các nước Châu Âu khác đã cắm chân. Bởi vì, nếu các tàu viễn dương của chúng ta bị hư
hỏng thì chẳng lẽ ta lại đưa sang xin sửa chữa nhờ ở thuộc địa Macao của Bồ Đào Nha,
Hồng Kông của Anh, Tavita của Tây Ban Nha (trong quần đảo Philippin) mà không có
được một quân cảng nào của riêng mình trong khu vực này hay sao?”[5;32]. “Chủ nghĩa
đế quốc hàng hải” này đã mở đường cho chủ nghĩa thực dân chính thống. Cái gọi là “lực
lượng hải quân sẵn có” mà Chasseloup Laubat h a hẹn với Napoleón III là một hạm đội
nhỏ rút từ lực lượng hải quân đang tham gia cùng với quân Anh tiến đánh các vùng bờ
biển Trung Quốc trong cái gọi là “Cuộc chiến tranh thuốc phiện lần th hai”1[5;32].

Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, quân đội Pháp nhận được sự giúp đỡ
hết s c đắc lực và hiệu quả từ bộ phận giáo sĩ truyền đạo Thiên chúa ở Việt Nam. Giáo sĩ
Pháp Alexandre de Rhodes đến Việt Nam năm 1624 và trở về Pháp năm 1645. Suốt 21
năm đi trong Nam, ngoài Bắc, khi về Pháp Alexandre de Rhodes mang theo một tấm bản
đồ miêu tả tỉ mỉ về Việt Nam. Đó là x “giàu lắm, vì đất đai trong x rất phì nhiêu. Vùng
này có 24 con sông tưới nhuần giúp cho sự đi lại bằng đường thủy khắp x vô cùng thuận
lợi. Sự buôn bán và giao thông được dễ dàng hơn. Nam Kì có mỏ vàng, rất nhiều hồ tiêu
và tơ, nhiều đường”. Alexandre de Rhodes kết luận: “Đây là một vị trí cần phải chiếm lấy
và chiếm được vị trí này thì thương gia Châu Âu sẽ tìm được nguồn lợi nhuận và tài
nguyên dồi dào” [3;118].
Sau Alexandre de Rhodes, các lái buôn và cha cố đã đến Việt Nam đều xác nhận
Việt Nam là x tài nguyên phong phú, cần lập gấp căn c ở đó để thu lợi nhuận. Năm
1658, Hội truyền giáo nước ngoài được thành lập ở Pháp và sau đó đã gửi nhiều giáo sĩ
qua bán đảo Trung Ấn dọn đường cho sự xâm lược của Pháp. Năm 1749, một số giáo sĩ
1

Cuộc “Chiến tranh thuốc phiện” bùng n năm 1840. Anh và một số nước châu Âu, trong đó có Pháp, lấy cớ triều
đình Mãn Thanh cấm buôn bán thuốc phiện và đ hơn 2 vạn thùng thuốc phiện nhập cảng xuống biển, đã tiến công
đánh chiếm Thượng Hải, Nam Kinh… buộc Mãn Thanh k “hòa ước” năm 1842 với nhiều điều khoản ép buộc.
Tình hình tạm lắng. Đến 1858 lại bùng n và kéo dài đến 1860.

4


kiêm nhà buôn như Poavơrơ đến Phú Xuân xin đặt căn c ở Đà Nẵng, Hội An. Năm
1753, Xanhphalơ trình gác thư yêu cầu lập căn c ở miền Bắc Việt Nam. Thất bại của
Pháp trong cuộc chiến tranh bảy năm với Anh (1756-1763) đã làm cho Pháp mất vào tay
Anh hầu hết thuộc địa ở Ấn Độ, chỉ còn lại 5 thương điếm. Từ những đề xuất của giáo sĩ,
đến các yêu cầu của thương gia đều toát lên tinh thần cơ bản là phải chiếm lấy Việt Nam
nhằm thỏa mãn nhu cầu lợi nhuận của họ. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản

Pháp, các tập đoàn thống trị ở Pháp từ Cônne, Môngmôranh (Montmorin), Ghiđô đến
Napôlêông III (Napoléon III) trở đi, đã kế tiếp nhau thực hiện âm mưu xâm lược nước ta.
Âm mưu xâm lược ấy đã gặp một thuận lợi là Nguyễn Ánh cầu viện Pháp và tạo ra điều
kiện để thực dân Pháp xâm nhập ngày càng sâu hơn vào nước ta.
Ngày 22-4-1857, Napôlêông III (Napoléon III) quyết định cử ra Hội đồng Nam Kì
để xét lại Hiệp ước Vécxai đã được kí kết giữa Bá Đa Lộc, đại diện cho Nguyễn Ánh và
Môngmôranh (Montmorin), đại diện cho Lui XVI. Âm mưu của tư bản Pháp lúc đó là
muốn dựa vào hiệp ước này để “hợp pháp hóa” việc mang quân sang đánh chiếm Việt
Nam. Nhưng trong thực tế thì hiệp ước đó đã bị thủ tiêu ngay sau khi được kí kết, Chính
phủ Pháp lúc đó không có điều kiện thi hành vì còn lo đối phó với làn sóng cách mạng
dâng cao trong nước. Chúng không thể không dựa vào cớ thi hành hiệp ước để đưa quân
chiếm đóng Đà Nẵng, Côn Lôn, đòi độc quyền thương mại và tự do truyền đạo ở Việt
Nam như các điều khỏan của hiệp ước đã ghi.
Tháng 7-1857, Napôlêông III (Napoléon III) quyết định vũ trang can thiệp vào
Việt Nam. Tư bản Pháp đã lấy cớ trả thù việc triều đình Huế không tiếp nhận quốc thư
của Pháp do tàu chiến Catina đem đến tháng 9-1856, cho là “làm nhục quốc kì Pháp”.
Mặt khác, chúng còn lấy cớ “bênh vực đạo”, “truyền bá văn minh công giáo” để tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ của dư luận công giáo ở Pháp và Việt Nam. Nhưng tất cả lí do đó
đều không thể che đậy n i nguyên nhân sâu xa bên trong của âm mưu xâm lược. Đó là
yêu cầu tìm kiếm thị trường và căn c ở Viễn Đông, nhất là ở miền Nam Trung Quốc của
chủ nghĩa tư bản Pháp đang trên đường phát triển mạnh; đó là cuộc chạy đua giành giật
thị trường giữa Pháp với các nước tư bản khác ở khu vực Viễn Đông, đặc biệt đối với
địch thủ c truyền là tư bản Anh.
Nếu chúng ta xem xét quá trình chinh phục Việt Nam của thực dân Pháp như một
vở diễn thì vở diễn đó gồm 3 màn:
Màn một: từ năm 1624 đến năm 1661, mà vai trò chính là các giáo sĩ, mở đầu là
giáo sĩ mang quốc tịch Pháp đầu tiên có mặt trên đất nước ta năm 1624 trong s mệnh
truyền đạo Thiên Chúa, là Alexandre de Rhodes. Trong 17 năm đi khắp Đàng Ngoài,
Đàng Trong, ông đã thực thi công việc theo hai tư cách: một đ c tin Kitô giáo La Mã và
5



một công dân nước Pháp. Ông đã hoàn thành “xuất sắc” hai nhiệm vụ đó[6;27]. Sau khi
về nước, cùng với việc công bố tại Lyông những công trình liên quan đến những vùng đất
mà ông đến truyền đạo, trong đó có Việt Nam, ông đã tiến hành cuộc vận động thành lập
Công ty Đông Ấn của Pháp theo gương của Hà Lan và Anh quốc. Công cuộc vận động
đang còn dang dở thì ông mất năm 1661. Màn một được kép lại ở đây.
Màn hai: mở đầu bằng sự ra đời của Công ty Đông Ấn của Pháp năm 1663 và
khép lại bở sự kiện Pháp n súng đánh thành Đà Nẵng năm 1858. Vai trò chính ở màn hai
là sự phối hợp hành động giữa giáo sĩ và thương nhân. Giáo sĩ dựa vào thương nhân
trước hết ở phương tiện đi lại, còn thương nhân nhìn thấy ở giáo sĩ như người tiên khu,
nước Chúa mở tới đâu, thương nhân tới đó lập thương điếm buôn bán. Giáo sĩ và thương
nhân cùng đi trên một con thuyền vì hai mục đích khác nhau truyền đạo và buôn bán.
Vậy ai lợi dụng ai?[6;27].
Và màn ba của vở diễn việc thực dân Pháp n súng đánh chiếm Đà Nẵng chỉ là sự
khởi đầu cho chặng th ba, chặng cuối cùng trong việc chinh phục Việt Nam bằng vũ lực.
Để tạo thêm s c mạnh, Pháp tìm kiếm sự phối hợp của Tây Ban Nha. Hồ sơ lưu
trữ của Pháp ghi nhận, cuộc tiến công Đà Nẵng được đặt dưới sự chỉ huy của Đô đốc hải
quân Pháp Rigôn Đờ Gionuiy (Rigault de Genouilly) và Đại tá lục quân Tây Ban Nha
Conzarole, gồm 2 tàu chiến, 12 tàu đ bộ chở theo một đại đội pháo, 2 đại đội lính thủy
binh, 2 tiểu đoàn lính bộ Pháp, 1 tiểu đoàn lính bộ Philippin của Tây Ban Nha, t ng cộng
có tất cả vào khoảng 2.000 quân Pháp và 500 lính thuộc địa Tây Ban Nha. Kế hoạch đặt
ra là nhanh chóng chiếm lĩnh Đà Nẵng, dùng Đà Nẵng làm vị trí tập kết và bàn đạp để
tiến công kinh đô Huế, thanh toán triều đình nhà Nguyễn [5;32].
CHƢƠNG II: NGUYÊN NHÂN TÂY BAN NHA LIÊN QUÂN VỚI PHÁP TRONG
VIỆC XÂM LƢỢC VIỆT NAM

2.1. Quyết định can thiệp vào Đông Dƣơng, liên quân giữa Pháp và Tây Ban Nha đã
do một phần ảnh hƣởng của hoàng hậu Eugénie
Có người cho rằng việc quyết định can thiệp vào Đông Dương, liên quân giữa

Pháp và Tây Ban Nha đã do một phần ảnh hưởng của hoàng hậu Eugénie và vì cái chết
của giám mục Tây Ban Nha Diaz.
Họ cho rằng giám mục Diaz, đại diện giáo hội miền trung ương Bắc Kỳ bị chém ở
Nam Định ngày 20-7-1857 đã làm hoàng hậu xúc động. Từ thưở thiếu thời bà đã quen
6


biết giám mục Diaz ở Andalonsie. Bà có nhiều kỉ niệm về tình thân hữu, lòng mộ đạo và
tự ái dân tộc đối với giám mục này.
Ít lâu sau lại một giám mục Tây Ban Nha khác là Meichior cũng bị xử tử ở Bắc Kỳ
ngày 28-7-1858. Những cái chết trên đã ảnh hưởng đến bà nhiều và đương nhiên nhà vua
cũng bị lung lạc theo những biến chuyển tinh thần đó.
Song sự thực, quyết định nhà vua đã có từ trước từ khi các vị này chết và hội đồng
nội các đã họp đề thảo luận về vấn đề này từ 16-7-1857 nghĩa là trước cái chết của Diaz
bốn ngày, không kể thời gian đưa tin từ Bắc kỳ về Pháp cũng khá lâu với những phương
tiện thời bấy giờ.
2.2. Việc giam giữ, giết hại một số giáo sĩ Tây Ban Nha của triều đình nhà Nguyễn
Mấy tháng sau khi hội đồng nội các Pháp chấp thuận viễn chinh. Ngày 25-111857, Đô đốc Rigôn Đờ Gionuiy (Rigault de Genouilly), tư lệnh lực lượng Hải quân Pháp
ở Viễn Đông đã nhận được lệnh mở một cuộc hành quân biểu dương lực lượng ở Nam
Kỳ2. Tháng 12 năm 1857, Oalétxki (Walewski) đã gửi cho bộ Hải Quân biết cái tinh thần
mà viên tư lệnh lực lượng Pháp ở Đông Dương phải hành động.
Song lúc bấy giờ quân Pháp phải can thiệp vào Trung Hoa nên mãi đến sau khi
hòa ước Thiên Tân (27-6-1858) lực lượng Pháp mới đến Việt Nam.
Trong thời gian chờ đợi này đã có thêm nhiều nhà truyền giáo tử vì đạo trong đó
có 2 vị giám mục Tây Ban Nha Diag3 và Meichior4.
Cái chết của hai vị này đã khiến Pháp liên kết được với Tây Ban Nha để can thiệp
vào Đông Dương. Đề nghị này được đề cập đến vào 1-12-1857 và được Chính phủ Tây
Ban Nha chấp thuận.
Chính nữ hoàng Idaben II (Isabelle II) tuyên bố trong một bu i lễ rằng: “Những vụ
tàn sát mà các nhà truyền giáo x ta ở Á Châu là nạn nhân đã buộc tôi phải liên minh với

Pháp để mở một cuộc viễn chinh ở Nam Kỳ. Hải quân và bộ binh ta đã biểu lộ truyền
thống của nó và để nhớ lại những cuộc thám hiểm mà quân đội Tây Ban Nha luôn luôn tỏ
ra xuất sắc bảo vệ quyền lợi và danh dự của t quốc và vương quyền” [2;57]

2

Họ thường lẫn Nam Kỳ và An Nam
Diag bị chém ở Nam Định ngày 20-7-1857
4
Meichior cũng bị xử tử ở Bắc Kỳ ngày 28-7-1858.
3

7


Theo tướng O’Donnel, chủ tịch hội đồng nội các tuyên bố ngày 29-12-1858 thì
đây là một cuộc liên minh rất cao thượng và bất vụ lợi vì giữa Pháp và Tây Ban Nha
không có một hiệp ước công hay thủ nào cả5.
Ngày 11-3-1859 bộ trưởng Ngoại giao Tây Ban Nha trả lời một dân biểu đối lập
trước nghị viện: “Nước láng giềng và thân hữu mà chúng ta, đang có những liên lạc chặt
chẽ và lớn lao, đã thấy và đã có chung lí do với chúng ta trong sự cần thiết gửi lực lượng
sang Nam Kỳ. Thật là tự nhiên khi binh sĩ chúng ta sát cánh với các binh sĩ nước bạn đó
để đạt tới cùng một mục đích. Không có một hiệp ước nào, hiệp ước chẳng có gì cần
thiết. Không có và không còn có hiệp ước nào nữa: Người ta đã cho rằng binh sĩ chúng ta
đã đóng vai trò phụ, th yếu, thuộc hạ nhưng điều này không đúng. Quân đội Tây Ban
Nha và Pháp đ ng cạnh nhau, chính phủ của Hoàng đế Pháp và chính phủ của nữ hoàng
Tây Ban Nha chẳng bao giờ nghĩ đến việc hạ cờ Tây Ban Nha xuống dưới cờ nào cả…”
[2;57-58]
Trước khi xuất quân tướng Fernando de Norzagaray ra nhật lệnh cho đoàn quân
viễn chinh như sau:

“Binh sĩ ! Một phần của quân đội Phi luật tần và hải quân đã liên-binh với hải
quân và quân đội lừng lẫy, can đảm Pháp quốc để dự cuộc viễn chinh trả thù cho đạo và
các nhà truyền giáo của chúng ta ở x An-Nam, nơi mà mai đây sẽ phất phới cờ Pháp và
cờ Tây Ban Nha, lí do tốt lành và bàn tay thượng đế sẽ dẫn dắt các người. Nó được nói
lên bởi danh dự và nền văn minh và cả dân tộc sẽ trông ở các ngươi sự bình tĩnh của
lương tâm. Dù ở địa vị nào mà biến cố sẽ đưa đến các ngươi, hãy làm tròn b n phận và
trong lúc cần đến sự thử thách giá trị và sự cố gắng của các ngươi bên cạnh các bạn đồng
minh sẽ chiến đấu với các ngươi như anh em… Các ngươi hãy nhớ rằng các ngươi là con
cháu của các vị anh hùng Cid và Fernand Corlès.
Các binh sĩ! Hãy hoan hô Nữ Hoàng !” [2;58]

5

Septans, Les Commencements de la Cochinchine, tr.138, Dẫn lại Trương Bá Cần, Phạm Cao Dương, Lê Văn Hảo,
Nguyễn Khắc Ngữ, Trần Trọng Phủ, Lý Hánh Trung, Kỷ Niệm 100 năm ngày Pháp chiếm Nam Kỳ (20-6-1867 –
20-6-1967), tr.57

8


2.3.

Lợi ích từ việc tham chiến và chạm đến đất Bắc Kỳ

Chúng ta cần xem xét lực lượng tham chiến của Tây Ban Nha nhằm tìm ra cái lợi
ích mà Tây Ban Nha đạt được từ việc sẵn sàng cấu kết, liên quân với Pháp trong việc
xâm lược Việt Nam.
Trận Đà Nẵng (31-8-1858): Lực lƣơng liên quân Pháp-Tây Ban Nha lúc này
gồm:
Ngày 31/8/1858 liên quân Pháp-Tây Ban Nha đến vịnh Đà Nẵng dưới quyền chỉ

huy của phó đô đốc Rigôn Đờ Gionuiy (Rigault de Genouilly) và Đại tá lục quân Tây
Ban Nha Conzarole.
Hạm đội gồm có 14 tàu: soái hạm Némésis, 2 chiến hạm chạy hơi Phlégéthon và
Primauguet, cùng một tàu hơi Tây Ban Nha El cano, các pháo hạm: Avalanche,
Dragonne, Fusée, almer Mitraille; các vận hạm: Durance, Gironde, Saone, Meurte và Por
Dogne.
Quân đ bộ ngoài các đại đội hải quân còn có hai tiểu đoàn bộ binh, một pháo đội
của hải quân và một đơn vị lính Tagals từ Phi-luật-tân gửi đến đặt dưới quyền chỉ huy
của đại tác Lanzarote. T ng cộng tất cả vào khoảng 2.000 quân Pháp và 500 lính thuộc
địa Tây Ban Nha.
Quân Pháp6 có ưu thế về hỏa lực và vận chuyển bằng tàu rất nhanh.
Quân Pháp có thể từ xa bắn vào thuyền bè, thành lũy của ta mà súng ta không thể
bắn tới họ.
Quân Pháp có thể dùng tàu, thuyền máy đ bộ bất ngờ vào nơi quân ta không đề
phòng mà ta không phản ng kịp.
Song quân Pháp có bất lợi về khí hậu. Mùa này ngoài Đà Nẵng nóng lắm, quân
Pháp ở vùng khí hậu lạnh quen, chịu không n i.
Trận đánh thành Gia Định (17-2-1859)
Lực lƣợng liên quân Pháp và Tây Ban Nha lúc này gồm:
2 chiến hạm lớn: Philégéthon và Primaugnet
3 pháo hạm: Alarme, Avalanche và Dragonne
6

Để tiện hơn xin dùng danh từ này để thay Liên quân Pháp-Tây Ban Nha

9


3 hải vận hạm: Durance, Meurthe, Saône và một tàu hơi Tây Ban Nha El Cano
Lực lượng đ b gồm có 2 đại đội bộ binh hải quân Pháp do Trung tá Rebaud chỉ

huy, 2 đại đội bộ binh Tây Ban Nha do trung tá Palanca chỉ huy, 1 chi đội Pháo binh do
đại úy Lacour và một đơn vị công binh do đại úy Gallimard chỉ huy. Tất cả gồm có hai
nghàn binh sĩ.
Trở lại Đà Nẵng
Mục đích các cuộc tấn công vào Việt Nam của người Pháp lúc này chưa phải là
chiếm đất. Họ vẫn hi vọng triều đình ta nhượng bộ và ký các hiệp ước có lợi cho họ.
Lực lượng viễn chinh Pháp lại không đủ để chiếm giữ và bành trướng thế lực ở cả
hai nơi: Gia Định và Đà Nẵng nên Rigôn Đờ Gionuiy (Rigault de Genouilly) đã quyết
định để lại một lực lượng nhỏ ở Gia Định còn tất cả lại kéo ra Đà Nẵng
Lực lượng ở lại gồm có 4 chiến hạm7, 2 đại đội bộ binh (1 Pháp và 1 Tây Ban
Nha) 1 chi đội hải quân để sử dụng trọng pháo do Trung tá Jauréguiberry chỉ huy đóng
đồn chính là đồn Hữu binh cũ (Khánh-hội) để giữ bến tàu và vài đồn phụ (mỗi đồn dăm
tên lính) để bảo vệ một làng tập trung các người đã cộng tác với Pháp (ở vào khu vực sở
Ba Son ngày nay) chống lại sự trả thù của quân và dân Việt Nam.
Trận đánh Đại đồn Chí Hòa (13-2-1861)
Đô đốc Charner được cử làm tư lệnh lực lượng viễn chinh Pháp ở Nam Kỳ, có
toàn quyền hành động về quân sự cũng như về ngoại giao để hoàn thành nhiệm vụ mà
hoàng đế giao phó. Phụ tá cho Charner có phó đô đốc Laffon de Ladé–bat làm T ng tham
mưu trưởng và Phó đô đốc Pagiơ (Page) chỉ huy một phân đoàn hải quân. Sácne
(Charner) có gần 70 tàu chiến gồm: soái hạm Hoàng Hậu Eugénie, 6 chiến hạm lớn:
Renommé, Primanguet, Laplace, Monge, Duchayla và Fórbin, 11 tàu hơi (hoặc chạy bằng
bánh xe hoặc bằng cánh quạt), bốn pháo hạm hạng nhất: Mitraille, Alarme, Avalanche,
Dragonne; 13 pháo hạm nhỏ; 17 vận hạm và 1 tàu quân y. Ngoài ra còn có một số chiến
thuyền mua tại Hồng Kông, hoặc đã được đặt tên Pháp như: Déroulède, Echo, Didon,
Amphitrite hoặc vẫn mang tên cũ như: Hong-kong, Lily, Shramrock, Jajareo…
Lực lượng đ bộ gồm 900 thủy thủ võ trang lập thành một trung đoàn có 9 Đại
đội, 800 binh sĩ thuộc trung đoàn III và IV thủy quân lục chiến, Tiểu đoàn II Khinh binh,
10 khẩu đại bác (gồm 1 pháo đội rưỡi) do trung tá Crouzot chỉ huy, một phân đội công

7


Bốn chiến hạm này gồm: Primauguet, Dutance, Avalanche,và Dragonne

10


binh do thiếu tá Alijé de Mati – gnicourt chỉ huy và đơn vị lính Phi-châu. Tất cả đặt dưới
quyền tướng Vassoigne. T ng cộng quân số lên đến gần 3.000 người.
Charner cũng xin với nhà cầm quyền Tây Ban Nha ở Phi-luật-tân gửi thêm 150 kỵ
binh

8

Việc thêm viện binh Tây Ban Nha này đã gây vài khó khăn trong việc bang giao
Pháp và Tây Ban Nha vì trước kia Tây Ban Nha liên minh với Pháp hoàn toàn vì lí do tôn
giáo, nay thấy Pháp chiếm đóng lãnh th nên họ có đòi hỏi những quyền lợi vật chất.
Đô đốc Charner đã phải gửi cho Palanca, Tư lệnh lực lượng Tây Ban Nha ở Gia Định
một văn thư đại ý: “Tây Ban Nha là đồng minh ch không phải là thuộc hạ. Nhưng không
phải vì thế mà đặt ra vấn đề chia đất Sài Gòn. Hơn nữa theo lệnh Hoàng đế Napoléon thì
Tây Ban Nha có thể thấy ở Bắc kỳ sự đền bù vì những hi sinh cao cả của họ”9 [2;134]
Hòa ƣớc Nhâm Tuất (5-6-1862):
Nắm được ưu thế, quân Pháp tính chuyện điều đình để yên dân. Ngày 5 tháng 5
năm 1862, Bonnard cho trung tá Simon chỉ huy tàu Forbin ra Huế, bỏ neo ở cửa sông
Hương (cửa Thuận An) để đòi triều đình thương thuyết. Trên đường về Sài Gòn ông ghé
Đà Nẵng báo cho quan quân địa phương ta ở đây hay rằng trong ba ngày nữa phải cử đại
thần có toàn quyền vào thương thuyết, Ông còn đòi hỏi phải đóng ngay một khoản bạc
nén bằng 100.000 quan.
Ba ngày sau (16 tháng 4), tàu Hải âu đưa s giả vào Nam, Phái bộ hòa bình này do
Phan Thanh Giản cầm đầu10, có Lâm Duy Hiệp phụ tá. Đến ngày 5 tháng 6, một hòa ước
ký trên tàu Duperré bỏ neo ở bến Sài Gòn.

Đề đốc Bonnard lúc đầu có ý cắt nhượng sáu cả sáu tỉnh Nam Kỳ nhưng vì không
có chỉ thị chính xác và cũng không biết rằng dư luận ở Paris, việc chiếm một thuộc địa
rộng lớn xa xôi không có nhiều người hưởng ng nên ông bằng lòng nhận điều kiện là
nước Nam phải nhượng cho Pháp ba tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường.
Đại tá Palanca không thấy đề cập đến việc nhượng đất cho Tây Ban Nha đã phản
đối và Bonnard tuyên bố rằng “Nếu Tây Ban Nha muốn bồi thường thì họ phải chiếm
Bắc Kỳ”[2;162].

8

Ngoài ra còn có 80 binh sĩ người Việt theo Pháp, 600 công nhân mượn ở Quảng Châu sang
Charner nói khi đánh ra Bắc sẽ có đất chia cho Tây Ban Nha. Điều này ch ng tỏ rằng âm mưu của Pháp không
phải chỉ lấy Nam Kỳ mà thôi
10
Trước khi đi vua Tự Đ c phong cho Phan Thanh Giản làm Chánh s , Toàn quyền đại thần, Lâm Duy Hiệp làm
Phó s
9

11


Hòa ước ngày 5-6-1862 (thường gọi là hòa ước Nhâm Tuất) do Phan Thanh Giản
và Lâm Duy Hiệp kí với Bonnard và Palanca gồm 12 khoản đại , trong đó xin đề cập
riêng đến những khoản lợi ích của Tây Ban Nha nhưng không thấy đề cập đến việc
nhượng đất cho Tây Ban Nha, trong đó có những khoản chính liên quan như:
Khoản 1: Hiệp ước này mở đầu một kỷ nguyên thân hữu giữa Pháp, Tây Ban Nha
và nước Nam.
Khoản 2: Sự tự do theo đạo Thiên Chúa sẽ được ban hành trên toàn cõi nước Nam.
Khoản 3: Ba tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Đảo Côn Lôn
được nhượng cho nước Pháp. Nước Nam không được ngăn trở tàu buôn Pháp mượn

đường sang buôn bán với Căm-bốt và cũng phải để tàu chiến Pháp được tự do vào thám
hiểm trên các sông ngòi của nước này.
Khoản 5: Các thương gia Pháp và Tây Ban Nha vào buôn bán ở Đà Nẵng, Quảng
Yên phải bảo đảm được an ninh và hoàn toàn tự do. Họ sẽ đóng đủ các th thuế cho
nước Nam. Ngược lại các thương gia nước Nam sang Pháp và Tây Ban Nha cũng được
hưởng quyền lợi tương tự. Khi nước Nam nhượng cho các cường quốc khác các đặc
quyền thì Pháp và Tây Ban Nha cũng được hưởng tương tự.
11

Khoản 8: Nước Nam phải trả cho Pháp và Tây Ban Nha tiền bồi thường kinh phí
là 4 triệu đồng trong mười năm, mỗi năm 400.000 đồng, trao tận tay cho đại diện Pháp ở
Gia Định.
Ngày 17-2-1859, liên quân Pháp-Tây Ban Nha chiếm được Sài Gòn. Lúc này cuộc
“Chiến tranh thuốc phiện” ở Trung Quốc đang bước vào giai đoạn cuối. Ngày 29-101860, “Hòa ước” kết thúc chiến tranh được ký tại Bắc Kinh. Pháp càng rảnh tay và có
thêm binh lực mở rộng phạm vi chiếm đóng ở Nam Kỳ, mặc dù Tây Ban Nha bắt đầu rút
quân về Philippin. Bước sang năm 1861, Pháp lần lượt đánh chiếm Mỹ Tho, Bà Rịa, Biên
Hòa, Vĩnh Long, tạo cơ sở đàm phán trên thế mạnh, buộc nhà Nguyễn phải “nhường” cho
Pháp 3 tỉnh miền Đông là Mỹ Tho, Gia Định, Biên Hòa và đảo Côn Sơn; tiếp đó lại
“nhường” thêm 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên. Năm 1867, toàn bộ
x Nam Kỳ coi như nằm trong sự kiểm soát của Pháp. Tuy nhiên bước chân xâm lược
của Pháp không dừng lại ở đây mà vẫn tiến lên phía Tây và phía Bắc, lần lượt thôn tính
toàn bộ Đông Dương. Tuy nhiên, cũng phải “loay hoay” mãi tới năm 1897, t c 4 thập kỷ
sau khi n súng đánh chiếm Đà Nẵng (1858) thực dân Pháp mới chính th c thiết lập được
bộ máy T ng cai trị (Gouvernement general) trên lãnh th thuộc địa.
11

Ngày nay thuộc địa phận của hai tỉnh Hải Phòng-Quảng Ninh.

12



C. PHẦN KẾT LUẬN
Đây là những vấn đề khá ph c tạp, liên quan đến cả vấn đề đối ngoại, chính trị và
tôn giáo, không dễ tìm ra những giải đáp thuyết phục. Tuy nhiên, đã xuất hiện nhiều
tác phẩm trong và ngoài nước với những kiến giải khác nhau về một số khía cạnh của
những vấn đề nói trên. Ở đây, một lần nữa, căn c vào những tư liệu hiện có trong
tầm tay, với sự hiểu biết riêng của mình, chúng tôi thử đưa ra một số kiến giải t ng
quát, nhằm tự tìm cho mình một cơ sở khoa học để lý giải những vấn đề liên quan tới
nguyên nhân Tây Ban Nha liên quân với Pháp trong việc xâm lược Việt Nam:
Th nhất: Pháp và Tây Ban Nha liên quân với nhau vì trong số các giáo sĩ nước
ngoài bị triều đình Huế giam giữ, giết hại hồi đó có một số người Tây Ban Nha. Từ thời
vua Minh Mệnh, Thiệu Trị đến những năm đầu thời Tự Đ c, đất nước Việt Nam trong
bối cảnh các hoạt động chuẩn bị cho thực dân Pháp xâm lược Việt Nam của các giáo sĩ
Pháp ngày càng ráo riết, đe dọa nghiêm trọng đến độc lập, chủ quyền quốc gia, nên chúng
ta thấy chính sách đối với đạo thiên chúa của các vua Nguyễn trong giai đoạn này đã thay
đ i, chuyển sang giai đoạn thực hiện chính sách cấm đạo thiên chúa ngày càng quyết liệt.
Dưới triều Tự Đ c lệnh cấm đạo vẫn được ban hành cùng những biến động trong cung
đình và xã hội đã làm cho thế nước rã rời, suy yếu. Lấy cớ bảo vệ giáo sĩ và giáo dân bị
sát hại, liên quân Pháp-Tây Ban Nha đem quân tấn công vào Đà Nẵng (1858) có một số
giáo sĩ và giáo dân làm nội ng, tình hình sát đạo trở nên ph biến và khốc liệt hơn, nhất
là sau khi triều đình cho thực hiện lệnh “phân tháp giáo dân” năm 1861.Có một số ý kiến
cho rằng Chính sách cấm đạo của các vua Nguyễn là một trong những nguyên nhân để
liên quân Pháp-Tây Ban Nha đánh vào Đà Nẵng (1858) và cũng là một trong những
nguyên nhân đưa đến sự thất bại của triều đình Tự Đ c trong cuộc kháng chiến chống
Pháp vào thế kỉ XIX. Triều đình Tự Đ c vẫn duy trì chính sách cấm ngặt Thiên chúa
giáo, điều này có thể hiểu được, vì nếu Tự Đ c chấp nhận một chính sách khoan dung đối
với đạo Thiên chúa cũng có nghĩa là nhà Nguyễn nói chung, Tự Đ c nói riêng phải chấp
nhận sự thất bại của nhà nước phong kiến Việt Nam lúc đó trước một tôn giáo mà sự
13



c ng rắn về giáo lí của nó đã làm t n hại đến ý th c hệ Kh ng – Mạnh cũng như đến đời
sống văn hóa truyền thống của quốc gia, và đằng sau nó là một mối đe dọa thường trực
của một cuộc xâm lược vũ trang, cụ thể là sự xâm lược của thực dân Pháp-Tây Ban Nha
đang tới gần.
Th hai: Nữ hoàng Tây Ban Nha Idaben II (Isabelle II) tuyên bố trong một bu i lễ
rằng: “Những vụ tàn sát mà các nhà truyền giáo x ta ở Á Châu là nạn nhân đã buộc tôi
phải liên minh với Pháp để mở một cuộc viễn chinh ở Nam Kỳ…”. Có hay chăng đó chỉ
là một lời tuyên bố để động viên binh sĩ, động viên tinh thần và hợp pháp hóa lí do mở
cuộc viễn chinh, hoặc Theo tướng O’Donnel, chủ tịch hội đồng nội các tuyên bố ngày 2912-1858 thì đây là một cuộc liên minh rất cao thượng và bất vụ lợi vì giữa Pháp và Tây
Ban Nha không có một hiệp ước công hay thủ nào cả. Vấn đề này lại liên quan đến đối
ngoại. Rõ ràng “Trên thế giới này không có đồng minh vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn chỉ
có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn” (Winston Churchill-Cựu thủ tướng nước Anh). Căn
c vào lực lượng tham chiến của Tây Ban Nha trong việc liên quân với Pháp cũng như
quá trình hai nước liên quân với nhau và đôi lúc vì lợi ích đã bắt đầu xuất hiện nhỏ giọt
một số mâu thuẫn tay đôi. Việc Pháp xin thêm viện binh Tây Ban Nha trong trận đánh đại
đồn Chí Hòa (13-2-1861) đã gây vài khó khăn trong việc bang giao Pháp và Tây Ban Nha
vì trước kia Tây Ban Nha liên minh với Pháp hoàn toàn vì lí do tôn giáo, nay thấy Pháp
chiếm đóng lãnh th nên Tây Ban Nha có đòi hỏi những quyền lợi vật chất. Kí hòa ước
Nhâm Tuất (5-6-1862) Đại tá Palanca không thấy đề cập đến việc nhượng đất cho Tây
Ban Nha đã phản đối . Căn c vào lực lượng tham chiến của Tây Ban Nha, điều động biết
bao nhiêu binh sĩ và con số là không hề nhỏ (trận mở màn ở Đà Nẵng ngày 1-9-1858 có
tới 500 lính thuộc địa Tây Ban Nha trong khi đó quân Pháp là 2.000), của cải tham chiến
ở Nam Kì trong việc liên quân lẽ tất nhiên phải thu được lợi nhuận với nguồn vốn chi ra,
thậm chí là lợi ích và kể cả đất đai được chia như thế nào. Tư bản Tây Ban Nha cũng
nhiều lần dòm ngó các vùng Đồ Sơn, Quảng Yên ngoài Bắc, nên Nữ hoàng Tây Ban Nha
là Idaben II (Isabelle II) sẵn sàng cấu kết với Pháp trong cuộc viễn chinh này để kiếm lợi.
Tây Ban Nha liên quân với Pháp để kiếm lợi, chia đất nhất là lợi ích từ Bắc Kỳ chính là
nguyên nhân chủ yếu Tây Ban Nha sẵn sàng cấu kết, tiếp tay với Pháp trong việc xâm
lược Việt Nam.


14


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Đỗ Bang, “Chính sách của triều Nguyễn đối với Thiên Chúa Giáo” Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử (số 1-2010)
2. Trương Bá Cần, Phạm Cao Dương, Lê Văn Hảo, Nguyễn Khắc Ngữ, Trần
Trọng Phủ, Lý Hánh Trung (1967), Kỷ Niệm 100 năm ngày Pháp chiếm Nam
Kỳ (20-6-1867 – 20-6-1967), Nhà in Thế giới 225-227, Phạm Ngũ Lão, Sài
Gòn
3. Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Sự (1960), Lịch sử Việt Nam
cận đại, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội
4. Trương Công Huỳnh Kỳ (Chủ biên), Nguyễn Tất Thắng, Đỗ Mạnh Hùng
(2013), Giáo trình Lịch sử Việt Nam Cận Đại, NXB Đại học Huế, Huế.
5. Hồng Việt Quân, “Về sự kiện Quân Pháp n súng tiến đánh Đà Nẵng năm
1858”, TCLSQS (số 9-2008).
6. Phạm Xanh, “Tại sao thực dân Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm tiến công mở
đầu cuộc xâm lược Việt Nam?”, TCLSQS (số 9-2008).

15



×