Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

bài tập lớn tâm lý hoạt động tự học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.27 KB, 24 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGHIÊN CƯÚ
"Tìm hiểu hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Vinh
theo phương thức đào tạo tín chỉ"

BÀI TẬP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
HỌC PHẦN TÂM LÝ HỌC
Người hướng dẫn: TS. Dương Thị Linh
SV:LƯU THỊ NGỌC
MSV:155D1402121053
KHOA:HÓA HỌC
Nghệ An, 2016

MỤC LỤC
I.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Khách thể nghiên cứu
3.Nhiệm vụ

II.NỘI DUNG
Phương pháp nghiên cứu
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC


1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Khái niệm hoạt động
1.1.2. Khái niệm hoạt động tự học
1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
1.2.1.Lý luận về hoạt động tự học


1.2.2. Một số đặc điểm của hoạt động tự học theo phương thức đào tạo tín chỉ
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
2.1 Thực trạng của hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Vinh
2.1.1. Nhận thức của sinh viên về hoạt động tự học
2.1.2. Thực trạng về hoạt động tự học của sinh viên (điều tra )
2.1.3.Các hình thức tự học,những khó khăn
2.2 .Các yếu tố hưởng đến quá trình tự học
2.3.Giai pháp nâng cao hoạt động tự học của sinh viên
2.3.1.Phía giảng viên
2.3.2.Phía sinh viên
2.3.3.Các điều kiện phục vụ khác

III.KẾT LUẬN

MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:


Thế giới hiện nay luôn vận động biến đổi với những cuộc cách mạng khoa học kĩ
thuật làm xã hội mang một diện mạo mới đòi hỏi cần có những con người mới với tầm
hiểu biết sâu rộng và toàn diện nhằm đáp ứng những yêu cầu đó. Vì vậy giáo dục đã, đang
và sẽ luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta, trong đó dạy học được
xem là con đường cơ bản nhất để thực hiện mục đích của quá trình giáo dục tổng thể.
Hiệu quả của dạy và học chính là sự tương tác của tư duy, hành động và lời nói giữa
giảng viên và sinh viên. Nhờ sự trợ giúp của ngôn ngữ mà tư duy được củng cố và phát
triển. Giao tiếp bằng lời cho phép người học nhận thức thế giới xung quanh, nhận ra mình
trong thế giới đó. Tuy nhiên, phát triển tư duy chỉ với một hệ thống giao tiếp không thôi
thì chưa đủ, cần phải có biện pháp để sinh viên tự chủ động tìm tòi, sáng tạo nâng cao và
làm chủ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo tạo điều kiện cho sự phát triển nhận thức và trí tuệ

hay nói cách khác chinh là phương pháp tự học. Song song với đó để hệ thống giáo dục
đào tạo đại học ở Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế, một tất yếu khách quan là phải
chuyển đổi phương thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ. Điều đó có nghĩa sinh
viên phải tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi nhét kiến thức của giảng viên trên giảng
đường.
Isaac Asimov từng nói: “Chỉ có thể bằng con đường tự học sinh viên mới có thể
học hỏi được điều gì đó. Nhiệm vụ duy nhất của Nhà trường là tạo thuận lợi cho quá trình
tự học. Nếu như không làm được điều này, Nhà trường sẽ đánh mất ý nghĩa tồn tại của
mình”
Vậy nên có thể nói tự học là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong cuộc cách
mạng về cách thức giáo dục cũng như đóng một vai trò định hướng to lớn trong cuộc sống
hiện nay.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay , hoạt động tự học của sinh viên nói chung cũng
như sinh viên trường Đại học Vinh nói riêng còn có nhiều hạn chế ,trong nhiều sinh viên
còn chưa dành nhiều thời gian cho việc tự học ,chưa xây dựng và rèn luyện kỹ năng tự
học cho bản thân ,hình thức học chưa hợp lí,…..Chính vì vậy việc nghiên cứu vấn đề tự
học của sinh viên trường Đại học Vinh và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả học tập
và chất lượng đào tạo là có tính cấp thiết.
Xuất phát từ những lí do nêu trên ,nên toi dã chọn đề tài :"Tìm hiểu hoạt động tự
học của sinh viên trường Đại học Vinh theo phương pháp đào tạo tín chỉ.
2.Khách thể nghiên cứu ( đối tượng nghiên cứu )


Hoạt động tự học theo phương thức đào tạo tínchỉ của sinh viên trường Đại học Vinh
3.Nhiệm vụ
Nghiên cứu hoạt động tự học của sinh viên, thực trạng hoạt động tự học của sinh
viên trường Đại học Vinh theo phương thức đào tạo tín chỉ từ đó đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Vinh.

II.NỘI DUNG

Phương pháp nghiên cứu
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1

Các khái niệm cơ bản

1.1.1Khái niệm hoạt động
Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và thế giới (khách thể) để tạo
ra sản phẩm cho cả thế giới và cả con người (chủ thể).
Trong mối quan hệ đó có hai quá trình diễn ra đồng thời và bổ sung cho nhau thống nhất
với nhau :
+quá trình thứ nhất là quá trình đối tượng hóa , trong đó chủ thể chuyển năng lực của
mình thành sản phẩm của hoạt động ,hay nói cách khác đi ,tâm lí của con người 9cuar
chủ thể ) được bộc lộ ,được khách quan hóa trong quá trình làm ra sản phẩm.
Qúa trình đối tượng hóa (khách thể hóa ) còn gọi là quá trình xuất tâm.
+Qúa trình thứ hai là quá trình chủ thể hóa ,có nghĩa là khi hoạt động con người
chuyển từ phía khách thể vào bản thân mình những quy luật ,bản chất của thế giới để tạo
nên tâm lí ,ý thức nhân cách của bản thân , bằng cách chiếm lĩnh (lĩnh hội )thế giới
Qúa trình chủ thẻ hóa còn gọi là quá trình nhập tâm.
1.1.2 Khái niệm hoạt động tự học
Hằng ngày xung quanh ta có biết bao nhiêu hoạt động và hoạt động tự học là một
trong những hoạt động cơ bản của con người. Hoạt động tự học là hoạt động làm tiêu hao
năng lượng thần kinh và hướng vào làm thay đổi bản thân chủ thể. Nhưng nó chỉ diễn ra
khi chủ thể ý thức vai trò của nó và có một tinh thần tự giác cao. Nhận thức đúng đắn sẽ
đưa ra kế hoạch hoạt động phù hợp với bản thân để mang lại hiệu quả cao nhất.
Hoạt động tự học là quá trình độc lập, nỗ lực, tìm tòi, khám phá trí thức của sinh
viên dưới sự tổ chức và dẫn dắt trên giảng đường của giảng viên nhằm củng cố, mở rộng,


đào sâu những tri thức đã lĩnh hội được ở trên lớp, sinh viên độc lập thực hiện các hành

động tự học do chính nhiệm vụ dạy học đặt ra.
- Hoạt động này không những diễn ra ở trường , ở lớp mà có thể diễn ra bất cứ nới đâu
như: ở lớp, ở trường, trong cuộc sống ... Chính vì vậy hoạt động “tự học “ diễn ra một
cách phong phú dưới nhiều hình thức.
=> Vì vậy chỉ có hiểu và ý thức tốt sinh viên mới có thể tích cực tham gia hoạt động tự
học không chỉ trong sách vở mà trong chính những hoạt động khác như: gia sư, tiếp thị,
tình nguyện... Đó chính là môi trường thuận lợi giúp sinh viên có thêm những kiến thức
phong phú, những kinh nghiệm quý báu cho bản thân.
Qủa đúng thật vậy!N-Rubakin đã từng nói :"Cộc sống đòi hỏi con người phải vũ trang
cho mình những kiến thức càn thiết."
1.1

Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài

1.11..Lý luận về hoạt động tự học
Người đặt nền móng cho ý thức về hoạt động tự học là nhà giáo dục người Tiệp
Khắc J.A Comenxki. Các nhà giáo dục học như Rutxô, Pestalogi, Dixtecvec, Usinxki ở
thế kỷ 18, 19 đã quan tâm nhiều đến sự phát triển trí tuệ, tính tích cực và tính độc lập
sáng tạo của học sinh. Bàn về tự học các nhà giáo dục học Việt Nam như Đặng Vũ
Hoạt, Hà Thế Ngữ, Nguyễn Cảnh Toàn... đã coi tự học như chìa khóa vàng của giáo
dục trong thời đại bùng nổ thông tin.
Vấn đề tự học ở Việt Nam cũng được chú ý từ rất lâu. Ngay từ thời phong kiến,
giáo dục chưa phát triển nhưng đất nước vẫn có nhiều nhân tài kiệt xuất. Những nhân
tài đó bên cạnh được những ông đồ giỏi dạy dỗ thì yếu tố quyết định đều là tự học của
bản thân. Vì vậy mà người ta coi trọng việc tự học,nêu cao những tấm gương tự học
thành tài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về tự học. Quan niệm về tự học
Người cho rằng: “ Tự học là cách học tự động” và “ phải biết tự động học tập”. Theo
Người: “Tự động học tập” tức là tự học một cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không đợi
ai nhắc nhở, không chờ ai giao nhiệm vụ mà tự mình chủ động vạch ra kế hoạch học

tập cho mình, ròi tự mình triển khai, thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình
làm chủ thời gian để học và tự mình kiểm tra đánh giá việc học của mình”
GS – TSKH Thái Duy Tuyên khẳng định: “Tự học là một hoạt động độc lập chiếm
lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ
( quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp,.....) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để
chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử xã hội
của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”( Chuyên đề Dạy tự
học cho sinh viên trong các nhà trường trung học chuyên nghiệp và Cao Đẳng, Đại
học)


Thông thường khái niệm “ tự học” được hiểu là “ tự học lấy một mình trong sách
chứ không có thầy dạy” (Theo Thanh Nghị, trong Việt Nam tân từ điển) cũng có thể
hiểu là “Tự đi tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học”.Tuy nhiên, theo tác giả Nguyễn
Hiến Lê, trong quyển “ tự học- một nhu cầu thời đại” ông lại cho rằng khái niệm “Tự
học” nếu được hiểu là “...không ai bắt buộc mà mình tự tìm tòi, học hỏi để hiểu biết
thêm và có thầy hay không, ta không cần biết.Người tự học hoàn toàn làm chủ mình,
muốn học môn nào tùy ý, muốn học lúc nào cũng được,đó mới là điều kiện quan
trọng”, ông cũng trích dẫn để làm rõ hơn về khái niệm và tầm quan trọng của tự học
“Mỗi người đều nhận hai thứ giáo dục: “Một thứ, do người khác truyền cho, một thứ
quan trọng hơn nhiều, do mình tự kiếm lấy” (7 Tr 39)
- Theo tác giả Lê Khánh Bằng: “Tự học là tự mình suy nghĩ, sử dụng các năng lực
trí tuệ và phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất định” (1,Tr.13).
Quan điểm này, tác giả cho rằng tự học là việc học của chính bản thân người học, chính
họ phải huy động năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiễm lĩnh những trí thức
khoa học của loài người và biến những tri thức đó thành vốn kinh nghiệm của bản thân.
Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ,sử dụng
các năng lực trí tuệ và có cả cơ bắp cùng các phẩm chất của mình,cả động cơ tình cảm,
nhân sinh quan,thế giới quan để chiếm một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại,biến
lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. Việc tự học sẽ được tiến hành khi người học có nhu

cầu muốn hiểu biết một kiến thức nào đó và bằng nỗ lực của bản thân cố gắng chiếm
lĩnh được kiến thức đó”.(2,Tr.59)
Như vậy, tự học là hình thức hoạt động nhận thức của người học nhằm chiếm lĩnh tri
thức, hình thành các kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Tự học giúp con người tìm ra tri thức
mới bằng chính sự tìm tòi, sáng tạo, nỗ lực vươn lên của bản thân .Vì thế hoạt động tự
học là vô cùng quan trọng đối với mỗi sinh viên.
1.2.2.Một số đặc điểm của hoạt động tự học theo phương thức đào tạo tín chỉ
Có thể khẳng định rằng: hoạt động tự học của sinh viên là một hoạt động không
thể thiếu và đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình học tập ở bậc đại học.
Tuy nhiên, trong các phương thức đào tạo khác nhau, hoạt động này lại có những nét đặc
thù riêng. Sự khác biệt giữa hoạt động tự học trong học chế niên chế so với học chế tín
chỉ được thể hiện ở một số điểm sau:
Trước hết, trong phương thức đào tạo theo niên chế, sinh viên tuân thủ theo một chương
trình do nhà trường định sẵn của từng học kỳ, từng năm học, từng khóa học căn cứ vào
thời khóa biểu. Khi chuyển sang phương thức đào tạo theo tín chỉ, kế hoạch học tập cụ
thể phụ thuộc vào chính bản thân người học. Sinh viên có nhiệm vụ và quyền được lựa
chọn môn học, thời gian học, tiến trình học tập nhanh, chậm phù hợp với điều kiện của
mình. Phương thức này tạo cho sinh viên năng lực chủ động trong việc lập kế hoạch học
tập khoa học, xác định thời gian, phương tiện, biện pháp để thực hiện các mục tiêu đề ra
trong kế hoạch học tập đó. Khi đó người sinh viên phải ý thức xây dựng kế hoạch tự học,
tự nghiên cứu sao cho quá trình học tập hiệu quả nhất.
Thứ hai, hình thức tổ chức dạy học trong phương thức tín chỉ qui định hoạt động tự học
của sinh viên như là một thành phần bắt buộc trong thời khóa biểu và là một nội dung


quan trọng của đánh giá kết quả học tập. Hoạt động dạy - học theo tín chỉ được tổ chức
theo ba hình thức: lên lớp, thực hành và tự học. Trong ba hình thức tổ chức dạy học này,
hai hình thức đầu được tổ chức có sự tiếp xúc trực tiếp giữa giảng viên và sinh viên
(giảng viên giảng bài, hướng dẫn; sinh viên nghe giảng, thực hành, thực tập dưới sự
hướng dẫn của giảng viên,..), hình thức thứ ba có thể không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa

giảng viên và sinh viên (giảng viên giao nội dung để sinh viên tự học, tự nghiên cứu, tự
thực hành và sẵn sàng tư vấn khi được yêu cầu). Ba hình thức tổ chức dạy học tương ứng
với ba kiểu giờ tín chỉ: giờ tín chỉ lên lớp, giờ tín chỉ thực hành và giờ tín chỉ tự học.
Hình thức tổ chức thực hiện một giờ tín chỉ
Lý thuyết

Giờ Lý thuyết 1
Giờ Thực hành
Giờ Tự học

Thực hành,
thí nghiệm,
thảo luận
2

Tự học
Chuẩn bị

Tổng
Tự nghiên
cứu

2
1
3

3
3
3


Tùy thuộc tính chất đặc thù của từng môn học (mục tiêu, nội dung môn học) mà có các
hình thức tổ chức dạy - học khác nhau. Có những môn học chỉ có một kiểu giờ tín chỉ,
nhưng có những môn học có hai hoặc cả ba kiểu giờ tín chỉ. Trong mọi trường hợp, công
thức tính cho mỗi môn học là không đổi:1+0+2 (môn học thuần lý thuyết); 0+2+1 (môn
học thuần thực hành); 0+0+3 (môn học thuần tự học).
Cách tổ chức thực hiện một giờ tín chỉ cho chúng ta thấy một đặc điểm rất quan
trọng góp phần tạo nên sự khác biệt với phương thức đào tạo truyền thống. Nếu hoạt
động tự học trong học chế niên chế chỉ mang tính chất tự nguyện thì phương thức đào tạo
theo học chế tín chỉ coi tự học là một thành phần hợp pháp và bắt buộc phải có trong hoạt
động học tập của sinh viên. Để học được 1 giờ lý thuyết hay 2 giờ thực hành, thực tập
trên lớp sinh viên cần phải có 2 hay 1 giờ chuẩn bị ở nhà. Đó là yêu cầu bắt buộc trong
cơ cấu giờ học của sinh viên.
Thứ ba, nội dung một bài giảng trong hệ thống tín chỉ thường gồm 3 thành phần chính:
- Phần nội dung bắt buộc phải biết (N1) được giảng trực tiếp trên lớp.
- Phần nội dung nên biết (N2) có thể không được giảng trực tiếp trên lớp mà giáo viên có
trách nhiệm hướng dẫn cụ thể sinh viên tự học, tự nghiên cứu ở ngoài lớp.
- Phần nội dung có thể biết (N3) dành riêng cho tự học, chuẩn bị bài, làm bài tập, thảo
luận nhóm, làm thí nghiệm… và các hoạt động khác có liên quan đến môn học.
Như vây, kiến thức của mỗi môn học được phát triển thông qua những tìm tòi của
người học dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của giảng viên. Nếu sinh viên không tự học thì họ
mới chỉ lĩnh hội được 1/3 khối lượng kiến thức của môn học và như vậy đồng nghĩa với
việc họ không đạt được yêu cầu của môn học đó.
Ngoài ra, một điểm rất quan trọng, khác biệt với học chế niên chế là trong học chế tín
chỉ, hoạt động tự học được kiểm tra, đánh giá thường xuyên thông qua các bài kiểm tra,
bài tập, các buổi thảo luận …trong suốt cả quá trình học.
Qua các phân tích trên đây, rõ ràng rằng trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, hoạt
động tự học của sinh viên trở thành hoạt động bắt buộc với các chế tài cụ thể qui định
cho hình thức học tập này.



CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỂ TÀI
2.1 Thực trạng hoạt đông tự học của sinh viên trường Đại học Vinh
2.1.1.Nhận thức của sinh viên về hoạt động tự học
Chương trình dào tạo học theo hình thức học chế tín chỉ đã được trường Đại học
Vinh áp dụng từ khoá K48 đòi hỏi mỗi sinh viên cần phải có nhận thức đúng về hoạt
đông tự học.
Chương trình học theo tín chỉ một tiết học trên giảng đường bằng ba tiết học ở nhà.
Giảng viên đóng vai trò là người hướng dẫn chỉ đường cho sinh viên. Do khối lượng kiến
thức áp dụng cho chương trình học theo tín chỉ rất nặng mà mỗi tiết chỉ có 50 phút không
đủ để cho giáo viên truyền đạt tỉ mỉ mà chỉ có thể cung cấp kiến thức cơ bản giúp sinh
viên nắm bắt được ý chính, nếu chỉ dựa vào bài học đó thì chắc kết quả sẽ không cao cho
nên trên tinh thần tự giác yêu cầu mỗi sinh viên cần phải tự tìm hiểu tài liệu, cần phải có
thái độ đúng đắn trong việc học tập cũng như trong những vấn đề mà giảng viên đã nói
trên lớp hơn thế chúng ta cần phải tìm hiểu những kiến thức mở rộng có liên quan đến
môn học.
Theo thực tế cho thấy có nhiều sinh viên đã xác định được vai trò của hoạt động tự
học đối với không chỉ cuộc sống thực tại mà còn có ý nghĩa đối với tương lai sau này. Từ
đó những sinh viên ấy đã đưa hoạt động tự học trở thành một kỹ năng cấn thiết cho bản
thân. Tuy nhiên một số trong đó họ không đủ bản lĩnh và ý chí để biến suy nghĩ thành
hành động chỉ khi có một kích thích mạnh mang tính bắt buộc hoặc là liên quan tới lợi
ích cá nhân họ mới nảy sinh.
Điều tồi tệ hơn nữa là có một số sinh viên chưa ý thức được hoạt động tự học có vai trò
như thế nào hoặc là có nhận thức được nó nhưng do những tác động bên ngoài ảnh
hưởng tới cách nhìn nhận về hoạt động ấy. Từ đó dẫn tới tình trạng buông xuôi và bị kỹ
năng khác thu hút và chiếm chỗ.
Tại trường Đại Học Vinh tình trạng sinh viên lười biếng học tập còn nhiều, kết quả từ
các kỳ thi cho thấy họ chưa có năng lực và kiến thức chuyên sâu, khả năng nắm bắt, tư
duy còn hạn chế, không ít thầy cô phản ánh về vấn đề này, và thực sự thất vọng khi hoạt
động tự học của sinh viên hầu như rất ít.
Nhận thức về vấn đề tự học sinh viên cũng có sự khác nhau giữa các khóa, nghĩa là có sự

khác nhau giữa sinh viên năm thứ nhất (Sv năm 1), sinh viên năm thứ hai (SV năm 2),


sinh viên năm thứ ba (SV năm 3) và sinh viên năm thứ tư (SV năm 4 ), từ đó cũng ảnh
hưởng tới kết quả học tập của sinh viên. Có thể xét qua việc thống kê một yếu tố chính
như sau:
Kết quả : Mức độ quan trọng của việc tự học đối với sinh viên

Hình 2.2.1a: Biểu đồ biểu diễn mức độ quan trọng của việc tự học
Qua kết quả trên có thể thấy :
-Nhận thức của sinh viên về sự quan trọng của việc tự học là khác nhau giữa các khóa .
-Đối với sinh viên năm nhất là những người mới bước chân vào giảng đường Đại
học,còn bị ảnh hưởng của cách học phổ thông nên còn chưa coi trọng vai trò của việc tự
học
-Sinh viên năm hai đã quen với cách học ở đại học bắt đầu ý thức được sự quan trọng của
việc tự học đối với kết quả học của mình vì vậy nhận thức về sự quan trọng của việc tự
học chiếm tỷ lệ cao hơn so với sinh viên năm nhất
- Sinh viên năm ba áp lực gần năm cuối bắt đầu lao đầu vào học ,là những người ý thức
được sự quan trọng của việc tự học cao
-Sinh viên năm cuối cần phải cố gắng để tốt nghiệp ,đã trải qua ba năm học trước đó nên
là những người ý thức được rõ nhất sự quan trọng của việc tự học
2.1.2.Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Vinh
Để tìm hiểu thực trạng hoạt động học tập trên lớp của sinh viên tôi khảo sát sinh viên
khoa Hóa qua các câu hỏi với mức điểm: “Chưa bao giờ’ 1 điểm, “Thỉnh thoảng” 2


điểm, “thường xuyên” 3 điểm, “ Rất thường xuyên” 4 điểm. Và tôi phân ra 4 nhóm điểm
khác nhau. Cụ thể: Điểm thấp: 0<ĐTB<=1,5; Điểm trung bình: 1,5<ĐTB<=3; Điểm cao:
3<ĐTB<=3,5; Điểm tốt: 3,5<ĐTB<=4. Sau đây là kết quả khảo sát thực tế trên 50 sinh
viên khoa Hóa nhận thấy:

+ Thực trạng hoạt động học tập trên lớp được trình bày ở bảng 1.
Bảng 1: “Thực trạng hoạt động học tập của sinh viên khoa HÓA”
Mức độ
Hoạt động
Hoạt động chuẩn
bị học trên lớp
Hoạt động thích
ứng với phương
pháp dạy học tích
cực
Hoạt động ghi
chép có chọn lọc
Hoạt động sắp xếp
nội dung bài ghi
Hoạt động học
trên lớp

ĐTB

% sinh
viên

ĐTB

% sinh
viên

Mức độ thành
thạo
% sinh

ĐTB
viên

3,14

35,89

2,95

33,71

2,66

30,40

3,45

38,88

2,88

32,45

2,54

28,63

2,51

18,01


1,91

18,45

2,03

31,47

3,20

37,92

2,46

29,15

2,78

32,94

3,08

37,88

2,55

31,37

2,50


30,75

Mức độ cần thiết Mức độ thực hiện

Điểm trung bình - ĐTB
Nhìn chung mức độ thực hiện các hoạt động học tập trên lớp của sinh viên khoa
HÓA thấp hơn mức độ cần thiết và cao hơn mức độ thành thạo;các hoạt động này (ĐTB
tương ứng là 3,08; 2,55; 2,5). Mặt khác, ĐTB nhận thức về mức độ thành thạo các hoạt
động đó của sinh viên mới chỉ ở mức độ trung bình.
Tôi nhận thấy hoạt động thích ứng với phương pháp dạy học tích cực được các bạn
đánh giá cao nhất (38,88%). Thứ hai là hoạt động sắp xếp nội dung bài ghi (37,92%),
tiếp theo là hoạt động chuẩn bị học trên lớp (35,89%) và cuối cùng là hoạt động ghi
chép có chọn lọc (18,01%). Trong nhóm các hoạt động học tập trên lớp về mặt nhận
thức, các sinh viên khoa hóa đã nhận thấy được sự cần thiết nhất của hoạt động thích
ứng với phương pháp dạy học tích cực đối với hiệu quả học tập trên lớp.
Số liệu được hiển thị ở bảng 1 cho thấy rằng, chỉ có hoạt động ghi chép có chọn lọc là
được các sinh viên đánh giá ở mức độ trung bình, 3 hoạt động còn lại đánh giá ở mức độ


cao. Trong khi đó, ở mức độ thực hiện và mức độ thành thạo, tất cả các hoạt động đó
đều chỉ được họ nhìn nhận ở mức độ trung bình. Khi thực hiện, hoạt động chuẩn bị học
trên lớp được sinh viên sử dụng ở mức cao nhất (33,71%) và hoạt động ghi chép có chọn
lọc được thực hiện ở mức thấp nhất(18,45%). Còn trong mức độ thành thạo, đứng ở vị trí
cao nhất là hoạt động sắp xếp nội dung bài ghi (32,94%) và cuối cùng là hoạt động ghi
chép có chọn lọc (31,47%).
Mặc dù hoạt động thích ứng với phương pháp dạy học tích cực hiệu quả được sinh viên
đánh giá là cần thiết nhất so với ba hoạt động khác trong nhóm, nhưng việc áp dụng hoạt
động này lại đứng vị trí thứ hai sau việc sử dụng hoạt động chuẩn bị học trên lớp (chiếm
38,88% và 33,71% số sinh viên) và đứng thứ ba trong mức độ thành thạo các hoạt động

chỉ cao hơn có duy nhấthoạt động ghi chép có chọn lọc.
+ Thực trạng hoạt động tự học ở nhà của sinh viên khao Hóa bảng 2.
Bảng 2: “Hoạt động tự học ở nhà của sinh viên khoa hóa ”
Hoạt động
Lập kế hoạch tự học
Đọc tài liệu ở nhà
Làm bài tập về nhà
Ôn tập
Ghi chép tài liệu ngoài

Điểm TB
3,84
3,01
3,80
3,92
3,65

Mức độ
Nhiều
Ít
Vừa phải
Nhiều
Vừa phải

% sinh viên
86,52
36,91
61,33
85,84
60,75


Các hoạt động tự học ở nhà đều ảnh hưởng đến thành tích học tập của sinh viên. Khảo
sát chi tiết từng hoạt động tôi thấy sinh viên đánh giá cao về tầm quan trọng của việc
“lập kế hoạch tự học”, là hoạt động ảnh hưởng nhiều nhất tới kết quả học tập của mình.
Hoạt động “lập kế hoạch tự học” chiếm 86,52% bởi nó định hướng rõ ràng và biết rõ
công việc của mình. “Ôn tập” – hoạt động giúp ích nhiều cho sinh viên vào kỳ thi cuối
kỳ và điểm số, nó chiếm tới hơn 85% sinh viên đều có ý thức tập trung ôn, kế tiếp là
“Ghi chép tài liệu ngoài”(60,75%) và “Làm bài tập về nhà”(61,33%) theo sau là “đọc tài
liệu ở nhà”(36,91%).
+ Thực trạng hoạt động xây dựng kế hoạch tự học của sinh viên khoa Hóa .
Bảng 3: “Thực trạng hoạt động xây dựng kế hoạch tự học ở nhà của sinh viên khoa
Hóa”
STT

Nội dung

Điểm TB

Mức độ

1

Xác định các chương cho từng buổi học

3,00

Thỉnh thoảng

2


Xác định quỹ thời gian học

3,42

Thỉnh thoảng


Xác định thời gian hoàn thành cho từng

3

bài tập
Điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp để đạt

4

kết quả cao

3,41

Thỉnh thoảng

3,37

Thỉnh thoảng

Bảng 3 cho thấy hầu hết các hành động cụ thể khi lập kế hoạch tự học ngoài lớp sinh
viên đều tiến hành ở mức độ “thỉnh thoảng”( ĐTB dao động trong khoảng từ 3-3,42
chiếm hơn 80% sinh viên). Đối chiếu với kết quả ở bảng 2, sinh viên mặc dù đánh giá
cao sự ảnh hưởng của hoạt động tự học nhưng lại lúng túng khi tiến hành nó và thực

hiện thường xuyên. Việc lập kế hoạch tự học phải bao gồm nhiều hành động cụ thể thì
mới đạt hiệu quả nhưng sinh viên chủ yếu chỉ lên kế hoạch mà chưa quan tâm thực hiện.
+ Thực trạng hoạt động đọc giáo trình, tài liệu tham khảo của sinh viên
Kết quả khảo sát chứng tỏ việc đọc giáo trình, tài liệu chưa thực sự được sinh viên
tiến hành đều đặn như yêu cầu của bậc đại học. ĐTB phản ánh mức độ “thường xuyên”
dao động trong khoảng từ 3,5-3,8 chỉ chiếm 18% số sinh viên trong lớp. Ở mức độ
“thỉnh thoảng” (ĐTB từ 2,7-3,47) với 66,82% số sinh viên; Với 15,18% số sinh viên còn
lại việc đọc giáo trình, tài liệu tại thư viện và cách đọc có suy nghĩ, hệ thống, chọn lọc,
ghi nhớ... thì “ít khi”, chỉ ở mức độ thấp.
Đáng lưu ý hơn là sinh viên thường đọc sách ở nhà mà ít khi đến thư viện hay nhà
sách. Về kỹ thuật đọc, các sinh viên tham gia khảo sát cũng thừa nhận chưa tốt; với tốc
độ đọc 300 từ/phút mới chỉ ở mức độ trung bình; còn ê a, ngắt ngứ chưa đúng chỗ.
+ Thực trạng hoạt động chọn lọc, sử dụng vốn kiến thức cũ để học kiến thức mới của
sinh viên
Muốn nhận kiến thức mới có hiệu quả bắt buộc phải liên hệ các kiến thức cũ, các kiến
thức khoa học liên nghành khác làm cơ sở cho hoạt động tư duy của sinh viên. Vì vậy
hoạt động này thúc đẩy gần 90% số sinh viên khoa Hóa nhận thức tốt quá trình tái hiện,
lồng ghép vốn kiến thức cũ với kiến thức mới có liên quan để làm sáng tỏ các kiến thức
mới. 85% số sinh viên dùng kiến thức có trước kết hợp với các kiến thức mới tiếp theo
để hình thành những vấn đề nghiên cứu và giải quyết chúng.

2.1.3.Các hình thức tự học và những khó khăn
2.1.3.1.Các hình thức tự học
STT

Hình thức tự học

Mức độ
Thường xuyên Thỉnh thoảng


Chưa bao giờ


1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Học nhóm
Đọc bài trước khi đến lớp
Trao đồi bài với giảng viên và
các bạn khác
Lên thư viện học bài
Ghi chép bài cẩn thận
Tìm nơi yên tĩnh học bài
Sử dụng sơ đồ tư duy (mind
mapping, SQR3, đọc nhanh,
ghi nhận siêu tốc…)
Đọc thêm nhiều sách tham
khảo, nâng cao ngoài giáo
trình và sách thầy cô yêu cầu
Thường xuyên liên hệ thực
tiễn

Vạch kế hoạch học tập trước
mỗi kì, mỗi năm
Ôn lại kiến thức đã học

30,5%
20,6%
40,2%

50%
50,1%
50,4%

15,5%
29,3%
9,4%

40%
30%
40,3%
23%

39,8%
48,7%
40%
25,7%

20,2%
21,3%
19,7%
51,3%


34,8%

48,5%

16,7%

31%

45,6%

23,4%

24%

26,9%

49,1%

54%

44,6%

1,45%

Các phương pháp được đa số sinh viên lựa chọn là :trao đổi bài với giảng viên và các bạn
khác ,lên thư viện học bài ,ôn lại kiến thức đã học .
2.1.3.2. Những khó khăn trong quá trình tự học
- Môi trường học tập
- Mất tập trung

- Lượng kiến thức trên lớp
- Cơ sở vật chất
- Tìm tài liệu
- Quyết tâm giải quyết khó khăn
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tự học của sinh viên.
Qua tổng hợp các nghiên cứu của các nhà khoa học, tôi cho rằng sự hình thành
và phát triển năng lực của sinh viên chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau đây:
2.2.1. Ảnh hưởng của ý thức học tập và động cơ nhận thức của bản thân sinh
viên:
Ý thức học tập và động cơ nhận thức có ý nghĩa quyết định trong quá trình hình
thành và phát triển năng lực tự học của sinh viên. Vì xét cho cùng chất lượng học tập
phải là kết quả trực tiếp của sự nỗ lực của chính bản thân người học. Nếu người học
không xác định được vai trò quyết định của mình trong sự thành bại của sự học, thì
không bao giờ tự học thành công.Chỉ khi đã xác định được mục đích và động cơ học tập
đúng đắn. Sinh viên mới có thể phát huy được “nội lực” trong học tập, từ đó kết hợp các
yếu tố “ngoại lực” khác để tổ chức các hoạt động học tập diễn ra một cách hợp lý và thu
được kết quả cao.


2.2.2. Ảnh hưởng của vốn tri thức hiện có của bản thân sinh viên:
Hầu hết các môn học đều được sắp xếp theo dạng phát triển, những tri thức sau
được xây dựng trên những cơ sở của tri thức đã có trước. Để chiếm lĩnh các tri thức khoa
học nói chung, người học cũng như người trèo thang không qua nấc thang thấp thì không
thể tiến lên nấc cao hơn. Để tự học có hiệu quả thì người học phải tự trang bị cho mình
vốn kiến thức tối thiểu để tự nghiên cứu vấn đề mình quan tâm.
2.2.3 Ảnh hưởng của năng lực trí tuệ và tư duy:
Năng lực trí tuệ: Là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng nắm bắt tri thức
khoa học nhanh hay chậm của mỗi sinh viên. Yếu tố này ảnh hưởng rất lớn, đôi khi là
quyết định đến khả năng học tập nói chung và năng lực tự học nói riêng. Những người có
năng lực trí tuệ tốt thường có khả năng tự học rất cao, khi có đủ vốn tri thức tối thiểu

nhiều khi họ có thể độc lập làm việc một mình mà không cần tới sự hướng dẫn của thầy.
Phương pháp tư duy: Khả năng vận dụng các thao tác tư duy cũng là một yếu tố có ảnh
hưởng lớn đến khả năng tự học của sinh viên.
Ngoài ra, trong quá trình học tập để tiếp thu tri thức, kết quả học tập của sinh viên tùy
thuộc phần lớn vào tính chất và cơ cấu của tư duy tích cực của sinh viên. Tri thức là kết
quả của tư duy, đồng thời lại là những điều kiện, phương tiện của tư duy. Vì vậy, tăng
cường khả năng tư duy là một yêu cầu để nâng cao chất lượng học tập và tự học.
2.2.4. Ảnh hưởng của phương pháp học tập của trò:
Nhà sinh lý học người Pháp Penna từng nói: “phương pháp học tốt giúp ta phát
huy được tài năng vốn có; phương pháp học dở sẽ cản trở tài năng phát triển”. Như vậy
phương pháp học tập có vai trò rất quan trọng để người đó có thể thành công trong học
tập.
Mỗi người có một phương pháp làm việc riêng, thói quen hoạt động trí óc riêng
không ai giống ai. Theo A.D.LaGarandrie thì mỗi người có thể có những thói quen sau:
 Thói quen gợi lại những cái cụ thể đã gặp trong cuộc sống hàng ngày .
 Thói quen ghi nhớ máy móc.
 Thói quen suy luận logic.
 Thói quen tưởng tượng sáng tạo.
Trong quá trình dạy học người giáo viên không nên ép buộc sinh viên phải suy nghĩ theo
thói quen suy nghĩ của mình. Mặt khác cần chú ý bồi dưỡng phát triển các thói quen
chưa có cũng như còn yếu của sinh viên, từ đó cũng ghóp phần hình thành phương pháp
học tập, phương pháp tự học cho họ.


Phương pháp tự học là cách thức hoạt động của người học trong quá trình lĩnh hội tri
thức, hình thành kỹ năng, tìm tòi tri thức mới. Theo Rubakin “Hãy mạnh dạn tự mình đặt
ra câu hỏi rồi tự mình tìm câu trả lời. Đó chính là phương pháp tự học”.
Trong tự học, yếu tố quan trọng để đảm bảo thành công là phương pháp tự học. Nếu
người học rèn luyện được thói quen, phương pháp, kỹ năng tự học thì sẽ tạo cho họ long
ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có trong mỗi người, làm cho kết quả học tập được tăng

lên, thích ứng quá trình học tập của trò và phương pháp dạy học của thầy.
2.2.5. Ảnh hưởng của phương pháp dạy học của thầy:
Phương pháp dạy học là con đường mà chủ thể dung để tác dụng nhằm biến đổi
đối tượng theo mục đích đã định.
Theo Từ điển Giáo dục học: “Phương pháp dạy học, cách thầy (cô) tiến hành dạy
nội dung đi đôi với việc dạy cách học cho học trò nhằm giúp cho trò trau dồi phương
pháp tự học để nắm vững nội dung đang học, đồng thời để rèn luyện cách tự học suốt
đời”.
Theo GS – TSKH Nguyễn Bá Kim (Trong cuốn “Phương pháp dạy học môn
toán”): “Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động và giao lưu của thầy gây nên
những hoạt động và giao lưu cần thiết của trò nhằm đạt được mục tiêu dạy học”. Như
vậy, có thể thấy rằng: Phương pháp dạy học của thầy cũng có ảnh hưởng cực kỳ quan
trọng đến sự hình thành và phát triển năng lực tự học của sinh viên. Cụ thể:
Trong dạy học người giáo viên không chỉ là người nêu rõ mục đích mà quan trọng
hơn là gợi động cơ học tập cho sinh viên. Điều này làm cho sinh viên ý thức được những
mục đích đặt ra và tạo được động lực bên trong giúp sinh viên học tập tự giác, tích cực
chủ động sáng tạo.
Thông qua việc dạy học của thầy, sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
hình thành năng lực và thế giới quan. Từ đó mà phương pháp tự học của sinh viên được
hình thành kéo theo đó là sự hình thành và phát triển năng lực tự học của sinh viên.
Hoạt động kiểm tra đánh giá của thầy ảnh hưởng đến hoạt động tự kiểm tra đánh
giá của trò. Thật vậy, trong quá trình tự tìm ra kiến thức, người học tự tạo ra một sản
phẩm ban đầu, có thể chưa chính xác, chưa khoa học. Nhưng thông qua trao đổi với bạn
bè và kiểm tra kết luận của thầy , người học tự kiểm tra để sửa sai hoặc hoàn thiện sản
phẩm của mình. Nếu quá trình này diễn ra thường xuyên sẽ hình thành năng lực tự kiểm
tra đánh giá của sinh viên, làm cho năng lực tự học ngày càng phát triển.
Qua hoạt động dạy học, người giáo viên còn hướng dẫn sinh viên đọc giáo trình và
các tài liệu tham khảo làm cho năng lực tự đọc, tự nghiên cứu của học sinh ngày càng



được hình thành và phát triển. Đây cũng là con đường quan trọng để người học tiếp thu
tri thức, để người học có thể tự học suốt đời.
2.2.6. Nội dung, chương trình đào tạo.
Do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, khối lượng tri thức ngày càng lớn,
trong khi đó, thời gian đào tạo không tăng, chương trình đào tạo còn đang thay đổi và
hoàn thiện nên đòi hỏi người học phải tăng cường tự học.
2.2.7. Ảnh hưởng của SGK, tài liệu học tập và các điều kiện khác về cơ sở vật
chất, gia đình và xã hội.
Khi đánh giá vai trò của SGK đối với quá trình tự học của học sinh, PGS.TS Bùi
Văn Nghị nhận xét: “Nếu người viết sách đặt mình vào vị trí người đọc, trình bày một
vấn đề có nguồn gốc (từ thực tiễn hoặc từ nội bộ toán học) có hướng đích gợi động cơ,
gợi vấn đề, có các hoạt động tương thích với nội dung và mục đích thì sách viết ra sẽ
hấp dẫn người học. Giúp người học ngoài việc học các tri thức khoa học, còn học được
cách suy nghĩ, cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề vừa thu được những tri thức sự việc,
vừa thu được những tri thức phương pháp”.
Trong quá trình dạy học, học sinh còn chịu ảnh hưởng của môi trường xung
quanh. Đó là các yếu tố về điều kiện dạy học, điều kiện văn hóa xã hội… các yếu tố này
cũng có ảnh hưởng rất lớn, vì nó tác động không những đến người học, mà cả người dạy
học
2.3.Giai pháp nâng cao hoạt động tự học của sinh viên
2.3.1.Về phía giảng viên
Giảng viên đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc định hướng và kích thích
ý thức tự học cho sinh viên. Không phải giảng viên chỉ có nhiệm vụ quan trọng trong
những giờ lên lớp còn những giờ tự học, tự nghiên cứu của sinh viên thì không cần can
thiệp. Ngược lại, đối với hoạt động tự học của sinh viên, giảng viên phải quan tâm hơn.
Đối với hoạt động tự học, giảng viên cần kịp thời tư vấn khi sinh viên cần.
Đa số các giảng viên đều thực hiện khá tốt việc giảng dạy cũng như cố vấn học tập cho
sinh viên trong quá trình tự học của họ. Tuy nhiên, vẫn còn 1 sô giáo viên coi nhẹ việc
nâng cao ý thức tự học của sinh viên, chưa quan tâm sát sao tới hoạt động tự học của sinh
viên. Vì vậy, trong đề tài này, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp về phía giáo viên,

để giúp sinh viên có ý thức tự học và có thể nâng cao chất lượng học tập, cũng như chất
lượng giáo dục.
Đối với hoạt động tự học của sinh viên giáo viên cần:
* Giúp sinh viên nắm được đề cương môn học:
Khi bắt đầu một môn học, giảng viên cần giới thiệu và cung cấp cho sinh viên đề
cương của môn học đó. Nội dung của đề cương bao gồm: Mục đích môn học, Mục tiêu
môn học, Nội dung chi tiết của môn học, Điều kiện tiên quyết, Hình thức tổ chức và
phương pháp dạy - học cho từng nội dung của môn học, Hình thức kiểm tra - đánh giá
của từng hoạt động học tập…Qua đó, sinh viên chủ động lên kế hoạch tự học, tự nghiên


cứu để thực hiện được các mục tiêu của môn học. Giảng viên cần phải tuân thủ theo
đúng kế hoạch trong đề cương và yêu cầu sinh viên nghiêm túc thực hiện đề cương này.
* Xác định rõ nội dung tự học và phương tiện để thực hiện nội dung đó:
Trong đào tạo theo tín chỉ, giảng viên cần thiết kế các nhiệm vụ tự học cụ thể cho sinh
viên để họ có thể tự chiếm lĩnh được các nội dung này, đáp ứng mục tiêu và yêu cầu của
từng bài học trong một khoảng thời gian định trước. Để giúp sinh viên thực hiện được
nhiệm vụ tự học của mình, giảng viên cần giới thiệu đầy đủ các tài liệu bắt buộc, tài liệu
tham khảo, cách thu thập, tra cứu và xử lý thông tin trong tài liệu với những hướng dẫn
chi tiết, cụ thể. Bên cạnh đó, giảng viên cần tăng cường hướng dẫn, giúp đỡ sinh viên
xây dựng kế hoạch tự học khoa học, hợp lý, phù hợp với điều kiện của mình để đạt tới
đích một cách hiệu quả nhất.
* Kiểm tra - đánh giá hoạt động tự học của sinh viên
Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, khi hoạt động tự học là một thành phần bắt buộc
trong cơ cấu thời khóa biểu thì cần phải có các hình thức kiểm tra - đánh giá hoạt động
này. Nếu giảng viên chỉ giao nhiệm vụ tự học mà không tổ chức kiểm tra, đánh giá thì
hoạt động học tập này chỉ mang tính hình thức, đối phó mà không đem lại kết quả như
mong muốn. Giảng viên thường xuyên đánh giá sinh viên trong suốt quá trình của môn
học thông qua các hình thức kiểm tra đa dạng như bài tập cá nhân (tuần); bài tập nhóm
(tháng); bài tập lớn (học kỳ thông thường là một bài tổng luận về môn học), các bài tiểu

luận, các đề tài nghiên cứu nhỏ… và các bài thi giữa kỳ, cuối kỳ. Đối với những môn học
cần liên hệ thực tế, giảng viên nên đưa thêm nhiều tình huống, nhiều ví dụ thực tế… (đặc
biệt với sinh viên ngành Sư phạm).).Qua đó hình thành cho sinh viên cách làm việc
nghiêm túc, tính tích cực và ý chí phấn đấu vươn lên để đạt kết quả cao trong học tập.
2.3.2. Về phía sinh viên
Bên cạnh sự hướng dẫn của giảng viên, sự quản lý của nhà trường thì hoạt động tự học
chỉ có thể thực sự đem lại hiệu quả khi có sự nỗ lực của bản thân chủ thể tham gia, đó
chính là sinh viên. Khi chuyển sang phương thức đào tạo theo tín chỉ, sinh viên phải thay
đổi nhận thức, xóa bỏ sức ỳ để có những phương pháp học tập tích cực, thái độ tự chủ tự chịu trách nhiệm nhằm thích ứng với những yêu cầu học tập mới.
Để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động tự học, sinh viên cần:
- Chuẩn bị tốt về động cơ, thái độ học tập, tinh thần trách nhiệm, tự lực cánh sinh để “tự
chủ, tự chịu trách nhiệm” trong học tập một cách chủ động và hiệu quả.
- Nắm vững mục tiêu của môn học và mục tiêu của từng bài học (mà thông thường được
mô tả khá kỹ trong đề cương môn học được cung cấp khi bắt đầu học môn học) để làm
cơ sở xây dựng kế hoạch tự học phù hợp và nghiêm túc thực hiện kế hoạch đó.
- Đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu trước giờ lên lớp: đọc tài liệu,
làm các bài tập, bài kiểm tra, thảo luận nhóm theo yêu cầu của giảng viên.
- Trong quá trình tự học, sinh viên cần suy nghĩ, sáng tạo và mạnh dạn đưa ra những ý
kiến, nhận xét, thắc mắc của mình mà không quá phụ thuộc vào tài liệu và những bài
giảng của giảng viên.
- Tăng cường hoạt động làm việc theo nhóm, trao đổi với bạn bè theo chủ đề.
- Sau giờ lên lớp cần ôn tập kiến thức đã học và vận dụng vào thực tế.
- Lập kế hoạch học tập hợp lí trong đó cần nêu rõ các công việc phải làm với thời gian và
dự kiến kết quả cụ thể.
- Đảm bảo một khoảng thời gian thư giãn ngắn nhất định mỗi ngày, có thể là những
khoảng thời gian để vận động như đi bộ, tập thể dục, nghe nhạc; ngủ đủ giờ, giữ tinh
thần luôn thoải mái cũng là một cách quan trọng để nâng cao hiệu quả cho mỗi giờ học.


Điểm khác biệt lớn nhất của tín chỉ so với cách học truyền thống là ở chỗ thời lượng

sẽ dành nhiều hơn cho thảo luận, làm việc nhóm và tự đọc sách. Tuy nhiên, sinh viên
phải xác định được mình ngồi trong lớp học để làm gì, mình là chủ thể chứ không phải
“người ngoài cuộc”. Học theo chương trình tín chỉ, muốn được điểm cao và hiệu quả học
tập tốt, sinh viên không đơn giản chỉ là phải lên thư viện đọc sách từ sáng đến tối, đến kì
thi học thuộc bài mà quan trọng hơn là kĩ năng và sự sáng tạo của mình trong những
công việc quen thuộc ấy. Tất nhiên ý thức tự giác và nỗ lực của bản thân sinh viên đóng
vai trò quyết định.
Dưới đây là một số kỹ năng nên có và cần có của sinh viên, bao gồm:
 Kỹ năng nghe giảng và ghi chép bài giảng hợp lý:
Nghe giảng và ghi chép là những kỹ năng quan trọng của sinh viên trong quá trình
học tập. Quy trình nghe giảng gồm các khâu như ôn bài cũ, làm quen với bài sắp học,
hình dung các câu hỏi đối với bài mới. Khi nghe giảng cần tập trung theo dõi sự dẫn dắt
của giáo viên, liên hệ với kiến thức đang nghe, kiến thức đã có với các câu hỏi đã hình
dung trước. Kết quả của việc nghe giảng và ghi chép ngoài việc thể hiện năng lực nhận
thức, tư duy của người học còn thể hiện ở kỹ năng tự học của người đó.
• Nghe giảng: Để tập trung nghe giảng nắm được bài ngay trên lớp không phải là
một việc đơn giản và dễ dàng. Hơn nữa, việc tập trung được hay không đôi khi còn
phụ thuộc vào thầy giáo, bài giảng hay các nguyên nhân chủ quan khác. Chỉ có
cách bạn phải luyện tập, tránh để bản thân bị phân tâm. Nghe giảng đồng thời phải
tư duy tích cực, khẩn trương. Liên hệ những kiến thức đang nghe với kiến thức đã
học để tìm ra mối liên hệ. Tốt nhất bạn nên chọn vị trí gần thầy cô, vừa có thể
nghe rõ hơn, vừa có khả năng ít nói chuyện. Việc phát biểu hay đặc câu hỏi cho
thầy cô giáo cũng là một cách khiến chúng ta tập trung hơn. Để phát biểu tốt thì
hãy ghi những câu nhận xét hay phát biểu vào một tờ giấy trước khi phát biểu.
• Ghi chép: Cần phải viết nhanh hơn, Ghi chép bài giảng theo ý hiểu của mình, dùng
nhiều ký tự viết tắt hơn để tiết kiệm thời gian ghi chép dành thời gian cho việc
nghe giảng. . Không cần phải ghi tất cả những gì thầy cô nói. Cần ghi một cách có
chọn lọc, sử dụng kí hiệu riêng, ghi cả chính đề lẫn phản đề, ghi thắc mắc của
chính mình… Hãy dành thời gian để nghe các thầy cô giải thích kĩ hơn về định
nghĩa, khái niệm, cách chứng minh… Chỉ ghi chép những gì mà chúng ta chưa

biết, những điều quan trọng mà sách không có. Ngoài ra, vở của người bạn học sẽ
là tài liệu hữu ích vì có thể lúc đãng trí bạn bỏ sót một chi tiết quan trọng trong bài
giảng.
 Kỹ năng học ở nhà
Cần tìm một chỗ yên tĩnh, tránh tiếng ồn. Bạn nên chọn một thời gian học cố định
và tạo cho mình thói quen học thời gian đó. Ngoài ra, cần có lịch học thật hợp lý, kết hợp
giữa học tập và giải trí như có thể một bản nhạc nhẹ nhàng, hoặc một bài tập thể dục.
Nếu bạn học phải phần khó hiểu thì để lại, học những phần khác dễ hiểu hơn, sau khi thư
giãn, thoải mái thì học tiếp.
 Kỹ năng đặt câu hỏi trong tự học:
Trong học tập thì hỏi là thao tác thường xuyên diễn ra. Khi dạy học, giáo viên phải giúp
sinh viên biết cách tự hình thành câu hỏi trong óc, yêu cầu sinh viên phải tự mình suy
nghĩ, động não để tự tìm câu trả lời cho câu hỏi đó. Trong quá trình suy nghĩ để tìm câu
trả lời, có thể vấn đề cần hỏi đó được giải quyết ngay, nhưng cũng có thể chưa giải quyết
ngay được, lúc này sinh viên cần tiếp tục suy nghĩ, đến khi bản thân cảm thấy không trả
lời được thì có thể trao đổi ngay với giáo viên hoặc với các bạn khác. Trong lúc nghe


giáo viên hoặc các bạn sinh viên khác trình bày, người học vẫn phải giữ vai trò chủ thể
tích cực, chủ động để có thể tìm ra cho mình câu trả lời thỏa đáng nhất.
 Kỹ năng ghi nhớ:
Ghi nhớ là thành phần cơ bản và quan trọng trong quá trình học tập. Vì nếu không có ghi
nhớ thì người học cũng chẳng thể tư duy. Để hướng dẫn sinh viên cách ghi nhớ kiến
thức, giáo viên cần:
• Để có thể ghi nhớ tốt thì điều trước hết phải hiểu. Nếu ghi nhớ mà không hiểu thì
ghi nhớ đó sẽ không bền vững. Thậm chí có bền vững thì cũng chỉ là những tri
thức “khô cứng” khó vận dụng được.
• Hướng dẫn sinh viên biết cách ghi nhớ bằng cách hệ thống hóa, khái quát hóa
những tri thức cũ. Tìm cách so sánh, xem xét tương tự kiến thức mới với kiến thức
đã học.

• Thường xuyên ôn tập củng cố cũng như lập các sơ đồ khái niệm, các nguyên lý…
theo cách hiểu của riêng mình.
 Kỹ năng làm việc với sách:
Đọc sách là kỹ năng không thể thiếu bởi học đại học sẽ phải học rất nhiều. Do đó,
sinh viên cần:
• Phải xác định rõ mục đích đọc sách, chọn cách đọc phù hợp như tìm hiểu nội dung
tổng quát của quyển sách, đọc thử một vài đoạn, đọc lướt qua nhưng có trọng
điểm, đọc kĩ có phân tích, nhận xét, đánh giá. Khi đọc sách cần phải tập trung chú
ý, tích cực suy nghĩ và ghi chép…
• Giáo viên cần hướng dẫn sinh viên một số quy trình đơn giản về kỹ năng đọc sách:
Bắt đầu từ việc làm quen với tên tác giả cuốn sách, tên sách, sau đó đọc mục lục,
đọc lời nói đầu, đọc lướt qua cuốn sách, rồi đọc kỹ, tóm tắt nội dung, ghi lại những
điều lý thú, nêu câu hỏi và đề xuất những ý mới trong quá trình đọc,…
• Khi đọc sách cần rút ra được những tư tưởng chính của mỗi đoạn, so sánh, phân
loại, hệ thống hóa,… đề xuất cái mới và nêu câu hỏi. Điều này rất quan trọng vì sự
sáng tạo thường nảy sinh trong quá trình đọc sách. Cần giáo dục sinh viên tái hiện
và cảm thụ. Đặc biệt, giáo viên cần giáo dục lòng tôn trọng của sinh viên đối với
sách, nhất là SGK vì đây là nguồn thông tin tập trung và có chọn lọc các giá trị cơ
bản và quan trọng của kinh nghiệm lịch sử loài người.
Có thể tham khảo thêm phương pháp đọc nhanh SQR3. Các từ SQ3R là viết tắt của 5 kĩ
thuật liên tiếp nhau mà bạn sẽ dùng để đọc 1 cuốn sách:
 Nhìn tổng quát: Nhìn tổng quát qua tài liệu: đọc lướt qua nội dung, phần giới
thiệu, giới thiệu các chương và tóm tắt các chương để nắm được thông tin cơ bản
của cả tài liệu. Cho đánh giá dù nó có giúp gì cho bạn hay không. Nếu nó không
cung cấp cho bạn thông tin mà bạn muốn thì hãy bỏ qua.
 Đặt câu hỏi: Ghi chú lại bất kì câu hỏi nào mà bạn nghĩ đến hoặc bạn quan tâm đặc
biệt đến nó sau khi đọc tổng quát. Có thể đọc lướt lại nếu bạn thấy có chỗ nào
đáng lưu ý. Những câu hỏi này gần như được xem là những mục tiêu nghiên cứu
của bạn – việc trả lời các câu hỏi đó sẽ giúp bạn sắp xếp được cấu trúc thông tin
trong đầu mình.

 Đọc: Đọc một cách chi tiết những phần mà bạn thấy nó hữu ích. Hãy hiểu cặn kẽ
tất cả các vấn đề có liên quan. Bạn nên đọc thật chậm, nếu thông tin quá nhiều và
phức tạp. Trong khi đọc, nó có thể giúp bạn vẽ ra bản đồ tư duy trong đầu mình.
 Nhớ lại: Một khi bạn đã đọc các phần mà bạn thấy thích hợp trong tài liệu, hãy
nghĩ đi nghĩ lại nhiều lần về chúng. Lọc ra những dữ liệu cốt lõi hay các tiến trình


cần thiết đằng sau chủ đề, và sau đó xem các thông tin khác liên quan đến chúng
như thế nào.
 Duyệt lại: Một khi bạn đã nhớ đi nhớ lại, trăn trở với những thông tin đó, bạn có
thể chuyển sang giai đoạn tiếp theo là duyệt lại nó. Bạn có thể duyệt lại bằng cách
đọc lại tài liệu, mở rộng thêm các ghi chú của mình hay thảo luận với các bạn
khác. Việc duyệt lại thông tin thực sự đã hiệu quả khi bạn có thể truyền đạt các
thông tin đó lại cho người khác.
 Kỹ năng tổ chức các hoạt động tự học:
Kỹ năng này bao gồm: lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, theo dõi, giám sát, đánh giá và
điều chỉnh việc tự học.

Chu trình tổ chức việc tự học
Các yếu tố này tạo nên chu trình của việc tự học, sinh viên tự quản quá trình tự học của
bản thân.
Lập kế hoạch bao gồm: Xác định mục tiêu, xác định kế hoạch; lựa chọn thực hiện,
đánh giá và điều chỉnh các phương pháp…sau khi có kế hoạch tự học điều quan trọng là
làm cho học sinh tuân thủ trình tự đã ghi trong kế hoạch cho đến khi hoàn thành, không
đi chệch hướng với kế hoạch đề ra.
Đánh giá thường xuyên của giáo viên và bản thân sinh viên về quá trình tự học và
hoàn thành kế hoạch tự học là phương tiện mạnh mẽ, để kích thích, nâng cao quá trình tự
học của người học. Từ sự đánh giá này, sinh viên rút ra được những bài học kinh nghiệm
cho mình, dẫn tới sự điều chỉnh để lần sau thực hiện kế hoạch tự học tốt hơn.
 Kỹ năng giao tiếp với thầy với bạn trong quá trình tự học:

Trong nhà trường làm việc theo nhóm là cách tiếp cận được sử dụng rộng rãi, trong đó
các thành viên kết hợp với nhau để thực hiện nhiệm vụ của mình với những phương pháp
ý tưởng khác nhau. Qua hoạt động nhóm, học sinh rèn luyện được sự tập trung chú ý.
Học được cách đặt câu hỏi, học được kỹ năng giao tiếp với thầy với bạn,…Để có thể
giao tiếp với bạn với thấy được hiệu quả giáo viên cần hướng dẫn học sinh:
Tham gia tích cực các hoạt động nhóm do thầy tổ chức. Cần tham gia các hoạt động một
cách bình đẳng, tự chủ và sáng tạo. Tuyệt đối không lệ thuộc, ỷ lại vào suy nghĩ và kế t
quả làm việc của bạn.
Tự giải quyết các vấn đề theo sự hướng dẫn của thầy và tham gia của bạn. Biết đưa các
câu hỏi, thắc mắc của mình với thầy và bạn một cách hợp lý để được giải đáp một cách
thỏa đáng.
 Kỹ năng kế hoạch hóa việc tự học.
Kỹ năng này cần tuân thủ các nguyên tắt sau: Đảm bảo thời gian tự học tương xứng với
lượng thông tin của môn học; xen kẽ hợp lý giữa các hình thức tự học, giữa các môn học,


giữa giờ tự học, giờ nghỉ ngơi; thực hiện nghiêm túc kế hoạch tự học như biết cách làm
việc độc lập, biết tự kiểm tra, đánh giá.
 Kỹ năng ôn tập (gồm kỹ năng ôn bài và kỹ năng tập luyện).
Kỹ năng ôn bài là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc chiếm lĩnh kiến thức bài
giảng của thầy. Đó là hoạt động tái nhận bài giảng như xem lại bài ghi, mối quan hệ giữa
các đoạn rời rạc, bổ sung bài ghi bằng những thông tin nghiên cứu được ở các tài liệu
khác, nhận diện cấu trúc từng phần và toàn bài. Việc tái hiện bài giảng dựa vào những
biểu tượng, khái niệm, phán đoán được ghi nhận từ bài giảng của thầy, từ hoạt động tái
nhận bài giảng, dựng lại bài giảng của thầy bằng ngôn ngữ của chính mình, đó là những
mối liên hệ lôgic có thể có cả kiến thức cũ và mới.
Kỹ năng tập luyện có tác dụng trong việc hình thành kỹ năng tương ứng với những tri
thức đã học. Từ việc giải bài tập của thầy đến việc người học tự thiết kế những loại bài
tập cho mình giải; từ bài tập củng cố đơn vị kiến thức đến bài tập hệ thống hóa bài học,
chương học, cũng như những bài tập vận dụng kiến thức vào cuộc sống.

 Kỹ năng chuẩn bị và làm bài kiểm tra
Phương pháp ghi bài và tiếp thu được 70 - 80% bài giảng của thầy cô nghĩa là bạn
đã thành công một nửa. Bước vào kỳ thi, đầu tiên bạn phải xác định các tài liệu liên quan
để ôn tập; sắp xếp những gì ghi chép được, hệ thống hóa kiến thức, ước lượng xem cần
bao lâu để ôn tập. Chia nhỏ những gì bạn học thành từng phần.
Học 3 tiếng buổi sáng, 3 tiếng buổi chiều sẽ hiệu quả hơn ngồi học cả ngày. Hoặc có thể
ôn theo nhóm, điều này giúp sinh viên có điều kiện để hoàn thiện cả những phần quan
trọng mà nếu học một mình thì rất dễ bỏ qua. Nên thu xếp một buổi tổng ôn tập trước khi
thi. Đặc biệt, sinh viên nên chú ý từ những thông tin được các thầy, cô chỉnh sửa đến mọi
hướng dẫn về học tập.
Đôi khi sinh viên quá bận vào một công việc nào đó mà sao nhãng việc học. Khi còn ít
thời gian để ôn tập thì học nhồi nhét. Đầu tiên hãy xem trước tất cả những tài liệu mà bạn
cần phải học, lướt qua các chương để nắm được ý chính, bỏ qua những phần mà bạn
không có thời gian xem lại.
 Kỹ năng tự kiểm tra và đánh giá:
Để rèn luyện kỹ năng tự kiểm tra đánh giá cho bản thân, sinh viên cần bồi dưỡng them
về:
• Khả năng đối chiếu kết luận của giáo viên và các ý kiến của các bạn với kết quả
của bản thân để tự điều chỉnh sửa chữa hoặc hoàn thiện kết quả của mình đã tìm
được.
• Khả năng đánh giá cách giải quyết vấn đề của giáo viên, của bạn bè và của mình
từ đó chọn được cách giải quyết tốt nhất.
• Khả năng tự rút kinh nghiệm về phương pháp học tập của mình, từ đó luôn luôn tự
điều chỉnh, hoàn thiện để ngày càng tiến bộ.
• Khả năng phát hiện ra những chỗ thiếu hụt về kiến thức, những sai lầm trong nhận
thức… để từ đó tìm cách bổ sung, khắc phục.
2.3.3. Các điều kiện phục vụ tự học khác.
Hoạt động tự học của sinh viên không thể thực hiện tốt nếu không đảm bảo các điều kiện
cần thiết về cơ sở vật chất: phòng học, trang thiết bị học tập, nguồn học liệu… Trong đó
hệ thống nguồn học liệu đầy đủ về số lượng, phong phú về nội dung và chuẩn mực về

chất lượng là một yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động tự học của sinh viên. Nhận


thức được vai trò quan trọng của yếu tố này, các nhà trường cần có kế hoạch để không
ngừng cải thiện điều kiện cơ sở vật chất của mình như:
- Củng cố, nâng cấp, mở rộng hệ thống phòng học, phòng thí nghiệm - thực hành - thực
tập, thư viện; bám sát yêu cầu cúa các đề cương môn học để chuẩn bị các học liệu được
coi là bắt buộc ghi trong đề cương môn học
- Áp dụng các hình thức khen thưởng các cá nhân có thành tích học tập tốt, tổ chức các
diễn đàn để sinh viên có điều kiện trao đổi phương pháp, kĩ năng tự học.
- Tăng cường khả năng khai thác các tiện ích của mạng nội bộ, mở rộng nguồn tư liệu
điện tử, thiết bị dạy học… bằng cách ứng dụng các thành tựu công nghệ thông tin hiện
đại.
Ngoài các điều kiện về cơ sở vật chất, khi xem xét các điều kiện phục vụ hoạt động tự
học, các nhà quản lý cũng cần quan tâm tới các điều kiện phục vụ, thái độ phục vụ sinh
viên của các bộ phận chuyên trách, các chính sách hỗ trợ của nhà trường để tạo cho sinh
viên một môi trường học tập tốt nhất.
Kết luận: Hoạt động tự học của sinh viên đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình
dạy - học đại học nói chung và đặc biệt cần thiết trong phương thức đào tạo theo tín chỉ.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học cần phải có sự quản lý sát sao
của mọi người liên quan đến hoạt động

III.KẾT LUẬN
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và điều tra khảo sát đã được trình bày trong
các chương, mục của báo cáo đề tài, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
- Phương pháp tự học có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của sinh viên trong môi
trường giáo dục Đại học, nhất là đối với sinh viên trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên.
- Hiện nay, đa số sinh viên trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đều nhận thức đúng
đắn về tầm quan trọng của tự học đối với sinh viên. Tuy nhiên trên thực tế mới chỉnh

dừng lại ở mặt nhận thức, còn nhiều sinh viên chưa có kĩ năng tự học, thiếu nguồn tài
liệu tham khảo, chưa dành nhiều thời gian cho việc tự học.
- Phương pháp học tập (tự học) của sinh viên chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, vì vậy
cần điều chỉnh và áp dụng chúng một cách hợp lý vào việc tự học một cách linh hoạt và
cụ thể.
- Cần xây dựng kế hoạch học tập riêng cho mình, cho mỗi môn học, vào mỗi thời gian
học (mỗi năm học, mỗi kỳ học) một cách phù hợp, có thời gian biểu học tập hợp lý theo
từng giai đoạn cụ thể.
- Thay đổi nhận thức và tâm lý tự học như thay đổi phương pháp học: học để hiểu, học
để làm chứ không phải học thuộc lòng theo thói quen thời phổ thông chỉ để “qua môn
học”.
- Tự học có nghĩa bản thân mỗi sinh viên phải chủ động học chứ không trông chờ vào
một sự tác động hay yếu tố chú quan nào khác. Chủ động tham khảo trước bài học, chủ
động trao đổi với bạn bè, giảng viên để nắm bắt nội dung một cách tổng quan, đầy đủ và
đúng hướng. Phải lập đề cương môn học như xây dựng dàn ý để từ đó hệ thống lại vấn
đề chính giúp dễ dàng phát triển vấn đề và nắm rõ nội dung hơn.
- Học đi đôi với hành, quá trình học tập đòi hỏi phải vận dụng lý thuyết vào trong thực
tế, điều này đòi hỏi sinh viên cần phải có điều kiện thực hành những lý thuyết đã học như
áp dụng lý thuyết để giải bài tập, xử lý tình huống… Lý thuyết là cái nền tảng, là hệ
thống chung, để kiểm nghiệm cho thực tiễn. Vì vậy, việc hiểu và tiếp nhận lý thuyết để
vận dụng vào thực tiễn đòi hỏi sinh viên cần nắm chắc và hiểu đúng, hiểu rõ, hiểu sâu lý
thuyết.


- Tự đánh giá kết quả: Mỗi sinh viên phải tự đánh giá được kết quả học tập – tự học của
bản thân thong qua kết quả môn học, kiến thức tích lũy, không nên ỷ lại vào kết quả từ
giảng viên. Điều chỉnh hợp lý hơn nếu kết quả chưa thực sự phù hợp.
- Cần trang bị thêm các kỹ năng cơ bản về tin học, anh văn, các kỹ năng mềm khác.
- Nguyên tắc đảm bảo việc tự học: Một vấn đề có tính khoa học bao giờ cũng được xây
dựng trên những cơ sở, nguyên tắc nhất định việc tự học muốn bảo đảm tốt cần tuân thủ

các nguyên tắc sau:
• Bảo đảm tính tự giáo dục: Trong thực tế, quá trình giáo dục luôn chứa đựng quá
trình giáo dưỡng, do vậy mà trong công tác tự học của sinh viên, ngoài việc tự
củng cố những tri thức cũ, lĩnh hội tri thức mới, mở rộng hiểu biết, người sinh viên
từng bước tự hoàn thiện nhân cách của mình sao cho ngày càng gần với phẩm chất
cao quý của những thầy cô giáo.
• Bảo đảm tính khoa học trong quá trình tự học: Bản thân quá trình tự học của sinh
viên cũng là một quá trình "lao động khoa học" hết sức khó khăn, do vậy, phải đòi
hỏi có tính khoa học. Việc bảo đảm tính khoa học trong công tác tự học sẽ đảm
bảo được tính tự giáo dục, kích thích hứng thú học tập dẫn đến kết quả học tập như
mong muốn.
• Đảm bảo "học đi đôi với hành": Đây là một cặp phạm trù có quan hệ biện chứng
với nhau. Tự học không chỉ củng cố, mở rộng kiến thức thông thường mà quan
trọng hơn là đưa những kiến thức ấy vào cuộc sống, "cọ sát" với thực tế để thu
lượm được những kinh nghiệm thực tiễn sống động, bổ ích, từ đó giúp cho sinh
viên trong những điều kiện quen thuộc cũng như mới mẻ đều có thể vận dụng
đúng linh họat, sáng tạo những điều họ đã tự tiếp thu lĩnh hội được.
• Nâng cao dần đến mức tự giác, tích cực trong quá trình tự học: Nguyên tắc này sẽ
trực tiếp quyết định đến kết quả học tập của sinh viên. Kế hoạch tự học có được
thực hiện thường xuyên hay không là do yếu tố tự giác tích cực quyết định.
• Đảm bảo nâng cao dần và củng cố kỹ năng, kỹ xảo: Quá trình tự học không chỉ
đơn thuần là quá trình tự hình thành tri thức mà nó còn là quá trình hoạt động thực
tiễn, nâng cao, củng cố kỹ năng, kỹ xảo.
Trên đây là 5 nguyên tắc cơ bản đảm bảo hiệu quả cho quá trình tự học của học sinh sinh
viên, năm nguyên tắc này có quan hệ gắn bó với nhau, nguyên tắc này hỗ trợ cho nguyên
tắc kia và đều nhằm mục đích bảo đảm tính tự giáo dục, tự đào tạo theo mục tiêu giáo
dục của trường đại học. Trong thực tiễn tự học của bản thân, mỗi sinh viên cần thiết kế
hợp lí khéo léo, khoa học những nguyên tắc trên, Hạn chế đến mức thấp nhất yếu tố
ngoại cảnh không có lợi cho việc tự học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Văn Hồng – Lê Ngọc Lan – Nguyễn Văn Thành, “Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý
học sư phạm” * NXB Thế giới.
2. Dương Thị Diệu Hoa (chủ biên) Nguyễn Ánh Tuyết – Nguyễn Kế Hào – Phan Trọng
Ngọ - Đỗ Thị Hạnh Phúc “Giáo trình tâm lí học phát triển” * 2008 * NXB ĐHSP.
3. Nguyễn Thị Thu Huyền và tgk, “Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM”.
4. Tạp chí “TÂM LÝ HỌC”, số 9(102), 9-2007.


5. Lê Khánh Bằng, Tổ chức phương pháp tự học cho sinh viên đại học, Đại học sư phạm
Hà Nội.1998
6. Nguyễn Cảnh Toàn, Quá trình dạy, tự học , Nxb Giáo dục,19



×