Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

Phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 157 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN TÂN

PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở THÀNH PHỐ
HÀ NỘI HIỆN NAY

Chuyên ngành

: CNDVBC & CNDVLS

Mã số

: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:

GS.TS. HỒ SĨ QUÝ

Hà Nội - Năm 2014
HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả, số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác.


Những kết luận khoa học của luận án không trùng với nội dung của bất cứ
công trình khoa học nào.

Tác giả luận án

Phạm Văn Tân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN

6

1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án

6

1.2. Những giá trị của các công trình mà luận án cần kế thừa và những vấn
đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

26

Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC
CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở HÀ NỘI


34

2.1. Quan niệm về nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa

34

2.2. Tầm quan trọng của việc phát triển nguồn lực con người

51

2.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội hiện nay và yêu cầu cơ bản của
việc phát triển nguồn lực con người ở Hà Nội

56

Chương 3: PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA THỦ ĐÔ: THỰC TRẠNG VÀ MỘT
SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

69

3.1. Điều kiện tự nhiên, truyền thống lịch sử, văn hóa, đặc điểm kinh tế - xã
hội ảnh hưởng đến sự phát triển nguồn lực con người Hà Nội

69

3.2. Thực trạng phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội


74

3.3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc phát triển nguồn lực con người Hà Nội
hiện nay

103

Chương 4: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI HÀ NỘI ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA THỦ ĐÔ HIỆN NAY

111

4.1. Quan điểm định hướng phát triển nguồn lực con người Hà Nội

111

4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn lực con người Hà Nội
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô

118

KẾT LUẬN

143

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

145


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

145


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN

:

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

BCH

:

Ban chấp hành

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

:


Chủ nghĩa xã hội

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

ILO

:

Tổ chức Lao động quốc tế

NNL

:

Nguồn nhân lực

NXB

:

Nhà xuất bản

XHCN

:


Xã hội chủ nghĩa

UBND

:

Ủy ban nhân dân

UNESCO

:

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn lực con người là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của lực lượng sản
xuất xã hội, là nhân tố có thể quyết định sức mạnh của một quốc gia. Phát triển
nguồn lực con người từ lâu đã trở thành nhiệm vụ chiến lược của nhiều quốc gia,
dân tộc trên thế giới. Trong điều kiện ngày nay, khi mà nền kinh tế thế giới đang
từng bước chuyển sang kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã trở
thành xu thế phổ biến, khách quan, không thể đảo ngược, thì một quốc gia, nếu
muốn phát triển, hơn nữa nếu muốn phát triển nhanh và bền vững, thì nhất thiết
phải có tầm nhìn về nguồn lực con người, phải biết huy động, đào tạo, phát huy có
hiệu quả nguồn lực con người. Kinh nghiệm của các nước phát triển nhanh trong
những thập niên gần đây cho thấy, điều kiện địa lý, tài nguyên thiên nhiên, vốn tài
chính… không hẳn đã đủ đảm bảo để phát triển. Có những quốc gia nghèo về vốn
và tài nguyên, thậm chí điều kiện thiên nhiên còn khắc nghiệt, nhưng vẫn phát triển
ngoạn mục do biết đầu tư vào con người và phát huy được nguồn lực con người.

Điều này chứng tỏ con người, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất, là
“nguồn lực của mọi nguồn lực”.
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, tiếp thu những quan niệm thời
đại về con người và nhân tố con người, Đảng ta đã xác định: “Lấy việc phát huy
nguồn lực con người là nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [32,
tr.85], “Mục tiêu, động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người”
[37, tr.8], “Tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, toàn diện
của con người” [41, tr.56]. Theo đó, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển; con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội.
Hà Nội - Thủ đô là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục...
của cả nước, giữ vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển đất nước và bảo vệ
Tổ quốc trước kia cũng như ngày nay. Trong những năm đổi mới vừa qua, Hà Nội
đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện, trong đó có những thành tựu về phát

1


triển nguồn lực con người, tạo sự chuyển biến căn bản trong đời sống kinh tế - xã
hội, đi đầu trong cả nước về công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, Thành phố Hà Nội, như nhiều đánh
giá của các cơ quan chức năng, vẫn còn một số hạn chế. Kinh tế tuy phát triển
nhưng chưa tương xứng với vị thế tiềm năng của Thủ đô; chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Hội nhập quốc tế thực sự chưa đi vào chiều
sâu, ở nhiều lĩnh vực chưa trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tuy có sự chuyển biến tích cực song vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu. Trong lĩnh vực phát triển nguồn lực con người, “chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu của thị
trường đặt ra”, “quá trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nhiều địa phương
còn chạy theo số lượng, chưa đảm bảo chất lượng tay nghề và kỹ năng ứng xử để

cung cấp ra thị trường lao động” [82, tr.121], lực lượng lao động mất cân đối giữa
các ngành nghề và cấp bậc đào tạo, cơ cấu đào tạo còn bất hợp lý, thiếu lao động kỹ
thuật lành nghề để phục vụ cho các ngành kinh tế mũi nhọn; thiếu đội ngũ chuyên
gia đầu ngành trong các ngành, các lĩnh vực... Trên thực tế, việc huy động các
nguồn lực cho phát triển còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh
của đội ngũ đông đảo các nhà khoa học, văn hóa, chính trị,… trên địa bàn Thủ đô.
Trước yêu cầu đẩy mạnh xây dựng và phát triển Thủ đô ngày càng “xứng đáng
với vai trò là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa,
khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, một động lực phát triển của vùng
đồng bằng sông Hồng và cả nước” [5], Hà Nội được yêu cầu phải phát huy hơn nữa
vị thế, tiềm năng thế mạnh của mình, trong đó phải đặc biệt chú trọng tới nguồn lực
con người, coi đầu tư, phát triển, huy động nguồn lực con người là khâu “đột phá”
chiến lược.
Để thực hiện được khâu “đột phá” chiến lược nói trên, khắc phục những hạn
chế, bất cập hiện nay, việc nghiên cứu, tổng kết, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ
nguyên nhân và tìm ra giải pháp phát triển nguồn lực con người Hà Nội nhằm đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô là một yêu cầu cấp bách, có ý
nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn. Công việc này là nhiệm vụ không chỉ đặt ra

2


với các cơ quan lãnh đạo, quản lý ở Hà Nội, với các nhà nghiên cứu có trình độ cao,
mà còn là nhiệm vụ của những nghiên cứu thuộc phạm vi đào tạo sau đại học.
Với lý do như vậy, chúng tôi chọn “Phát triển nguồn lực con người đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu của luận án của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đính nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng phát triển nguồn lực con người ở Thành phố Hà Nội

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô giai đoạn hiện nay; đánh giá
điểm mạnh và những hạn chế về phát triển nguồn lực con người, xác định vấn đề
cần khắc phục, từ đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát huy
nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Thành phố Hà Nội hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan những nội dung lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài luận án
và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm lý luận về nguồn lực con người trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nghiên cứu xác định đặc điểm công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Hà Nội.
- Nghiên cứu làm rõ thực trạng nguồn lực con người Hà Nội hiện nay, xác
định một số vấn đề đặt ra trong việc phát triển nguồn lực con người Hà Nội.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn lực
con người Hà Nội đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH Thủ đô trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nguồn lực con người và phát triển nguồn
lực con người ở thành phố Hà Nội trong quá trình CNH, HĐH Thủ đô.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nghiên cứu của luận án là nguồn lực con người tại Hà Nội, bao
gồm không chỉ nguồn lực con người trong phạm vi quản lý của chính quyền Hà
Nội, mà gồm cả những người đang sống, học tập và làm việc trên địa bàn Thủ đô.
3


- Về phương diện địa lý, địa bàn Thủ đô trong luận án này được hiểu là Thành
phố Hà Nội đã mở rộng địa giới hành chính, gồm cả tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh,
Vĩnh Phúc và bốn xã thuộc huyện Lương Sơn, Hòa Bình.
- Thời gian nghiên cứu và khảo sát đối tượng được xác định là từ năm 2000
trở lại đây, nhất là trong những năm gần đây khi Hà Nội được mở rộng. Những

phân tích lý luận và thực tiễn đôi khi có đề cập đến những thời điểm xa hơn, sớm
hơn, chủ yếu là do lôgic của vấn đề đòi hỏi.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về con người, về nguồn
lực con người, phát triển nguồn lực con người trong quá trình phát triển xã hội nói
chung, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng. Ngoài ra luận án còn kế
thừa kết quả nghiên cứu đạt được của một số công trình khoa học của các tác giả đi
trước có liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu, phân tích vấn đề.
Trong luận án, các phương pháp được sử dụng là lịch sử và lôgic, quy nạp và
diễn dịch, phân tích và tổng hợp, đối chiếu so sánh, xử lý tài liệu thứ cấp, sử dụng
số liệu thống kê, số liệu của các đề tài nghiên cứu khác về nguồn lực con người...
Ngoài ra, do yêu cầu của sự phân tích nguồn lực con người, trong luận án ở một số
nội dung thích hợp, chúng tôi cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu có tính
chất liên ngành.
5. Đóng góp về mặt khoa học của luận án
Luận án góp phần hệ thống hóa và làm rõ thêm một số nội dung lý luận về
nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người, vai trò của nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Luận án đã mô tả và phân tích được thực trạng nguồn lực con người và sự phát
triển nguồn lực con người tại Thành phố Hà Nội hiện nay; Chỉ ra được những thành

4


tựu, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó trong việc phát triển

nguồn lực con người Hà Nội thời gian qua; Đề xuất quan điểm định hướng và một
số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn lực con người Hà Nội đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở nghiên cứu, đào tạo
triết học và một số ngành khoa học xã hội khác về nguồn lực con người, phát triển
nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan hoạch định
chính sách, các cấp chính quyền của Thành phố Hà Nội trong việc quản lý và hoạch
định chiến lược và chính sách liên quan đến vấn đề phát triển nguồn lực con người
của Thành phố hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 10 tiết.

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về nguồn lực con người, phát
triển nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nguồn lực con người không chỉ là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia, mà sự phát triển của mỗi quốc gia còn được đo bằng chính bản
thân mức độ phát triển nguồn lực con người. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều
rất coi trọng phát triển nguồn lực con người. Đây cũng là vấn đề luôn thu hút nhiều

nhà khoa học, nhiều nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng như trên thế giới trên nhiều
lĩnh vực khoa học khác nhau quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu, luận giải với các góc độ và phương pháp tiếp cận khác nhau về
nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người, vai trò của nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong số các công trình
nghiên cứu về vấn đề này, có thể khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình
tiêu biểu sau đây:
Cuốn Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của GS.VS. Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001, là thành quả
nghiên cứu trong hơn 10 năm của tác giả. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả
phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chiến lược con người với tư tưởng coi
nhân tố con người, phát triển con người, nguồn lực con người có ý nghĩa quyết định
đối với việc sáng tạo vật chất và tinh thần; trình bày mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo, sử dụng và tạo việc làm với phát triển nguồn nhân lực đất nước; từ đó tác
giả đề xuất và kiến nghị về chiến lược và chính sách nhằm phát triển toàn diện con
người và nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt đáng chú ý
trong cuốn sách này, tại chương V, tác giả đã đưa ra khái niệm nguồn nhân lực.
Theo tác giả, nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay
một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị (ở một mức độ khác nhau,
6


sẵn sàng tham gia một công việc nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng,
hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ
cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khái niệm này được đặt cạnh các khái niệm tương ứng khác, như khái niệm nguồn
lao động, đội ngũ lao động và vốn con người. Theo tác giả, nói đến nguồn nhân lực
là nói đến số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Cũng ở đây, trong cuốn sách
này, tác giả còn đề cập đến một vấn đề cơ bản của nguồn nhân lực, đó là quản lý và
phát triển nguồn nhân lực, theo đó, phát triển nguồn nhân lực phải bám sát yêu cầu
của thị trường lao động [52].

Sách Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương, Nxb Khoa học xã hội, 2004.
Đây là công trình nghiên cứu của các chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu và quản lý
kinh tế Trung ương. Trong công trình nghiên cứu này, tiếp cận vấn đề chủ yếu dưới
góc độ kinh tế, các tác giả đã đưa ra và phân tích quan niệm về nguồn nhân lực,
quản lý nguồn nhân lực; phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam
và tình hình quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam trong thời gian qua; chỉ ra một số
vấn đề cần quan tâm để quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam tốt hơn, hiệu quả hơn
trong những năm tiếp theo.
Sách Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, do
GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa, PGS.TS. Đặng Hữu
Toàn đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, 2002. Đây là cuốn sách tập hợp nhiều
bài viết, công trình nghiên cứu của nhiều tác giả và được chia làm sáu phần. Phần
hai của cuốn sách là tập hợp các bài viết đề cập đến vấn đề công nghiệp hóa, hiện
đại hóa với việc phát triển con người, tạo nguồn nhân lực. Trong phần này đã có
nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đề cập tới vai trò của nguồn lực con người,
giải pháp phát triển nguồn lực con người. Tác giả Nguyễn Ngọc Sơn, trong bài viết
Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới tác động của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, khi đề cập đến vai trò của nguồn nhân lực
đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đã cho rằng: “Thực tiễn cho thấy,
sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ

7


yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người. Điều khẳng định trên lại càng đúng với
hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn cách mạng đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. So
sánh các nguồn lực với tư cách là điều kiện, tiền đề để phát triển đất nước và tiến
hành CNH, HĐH thì nguồn nhân lực có vai trò quyết định” [16, tr.311]. Tác giả
Nguyễn Thế Nghĩa, trong bài viết Nguồn nhân lực - động lực của công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, cũng luận giải vai trò của nguồn nhân lực đối với CNH, HĐH ở hai
góc độ, một là, nguồn nhân lực với tư cách là chủ thể của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; hai là, nguồn nhân lực với tư cách là động lực của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước [16, tr.142]; đồng thời tác giả cũng đề xuất năm nhiệm
vụ cấp bách cần phải thực hiện để phát triển nguồn nhân lực. Một là, cơ cấu bố trí
lại lực lượng lao động một cách hợp lý theo hướng đổi mới công nghệ, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn; Hai là, cần đầu tư đúng và đủ
vốn cho giáo dục, đào tạo và khoa học - công nghệ, đồng thời quản lý, sử dụng số
vốn này đúng mục đích và có hiệu quả; Ba là, trả lương đúng và đủ cho người lao
động, trong đó chú ý đúng đến đội ngũ cán bộ khoa học, bởi theo tác giả, nếu không
khắc phục sớm tình trạng này thì chúng ta vẫn không thoát ra khỏi cái vòng luẩn
quẩn “lương thấp - làm việc ít - lương thấp...”; Bốn là, đào tạo và bồi dưỡng lại lực
lượng lao động hiện có và đào tạo lực lượng lao động mới theo chuyên môn, nghề
nghiệp nhất định; Năm là, tiến hành một cách thường xuyên, đồng bộ hoạt động
giáo dục đối với người lao động về các mặt: chính trị - tư tưởng, lợi ích, đạo đức, ý
thức pháp luật [16]. Tác giả Phạm Văn Đức, trong bài viết Về vai trò của nguồn lực
con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khi lý giải về vai trò của
nguồn lực con người đã nhấn mạnh rằng, phải đặt nó trong mối quan hệ với các
nguồn lực hiện có, và khi đó vai trò của nguồn lực con người được thể hiện vừa với
tư cách là chủ thể vừa với tư cách là khách thể của quá trình kinh tế - xã hội [16].
Tác giả Đặng Hữu Toàn, trong bài viết Phát triển nguồn lực con người cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở đẩy mạnh giáo dục - đào tạo, đã nhấn mạnh
rằng, khi nguồn lực con người là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia,
dân tộc, thì phát triển giáo dục - đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất
lượng con người, là nền tảng của chiến lược con người. Do vậy, cần phải phải tạo ra

8


sự chuyển biến căn bản, toàn diện về giáo dục - đào tạo, lấy đó làm điều kiện cơ

bản, làm phương tiện chủ yếu để phát huy nguồn lực con người [16].
Sách Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội của GS.TS. Bùi Văn Nhơn,
Nxb Tư pháp, 2004. Trong cuốn sách này, tác giả đã đi sâu phân tích về dân số;
nguồn nhân lực và đặc điểm nguồn nhân lực Việt Nam; phát triển và sử dụng hiệu
quả nguồn nhân lực xã hội; tổ chức tiền lương và bảo hiểm xã hội; phân bố dân cư
và nguồn nhân lực xã hội. Đặc biệt trong cuốn sách này, tác giả đã đưa ra các khái
niệm như: nguồn nhân lực xã hội, nguồn nhân lực doanh nghiệp, phát triển nguồn
nhân lực; đồng thời tác giả cũng phân tích vai trò của nguồn nhân lực trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về khái niệm phát triển nguồn nhân lực, tác
giả cho rằng: “Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình thức, phương pháp,
chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho nguồn nhân
lực (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn
nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển” [68,
tr.98]. Có thể nói, đây là cuốn sách có giá trị tham khảo trong việc nghiên cứu về
nguồn nhân lực cũng như trong việc chỉ đạo thực tiễn phát triển và quản lý nguồn
nhân lực.
Sách Nguồn nhân lực và nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý phát triển
xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới - những vấn đề lý luận, do GS.TS.
Nguyễn Ngọc Phú chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2010. Đây là cuốn sách
tập hợp các bài viết nghiên cứu của các tác giả tham gia đề tài khoa học cấp Nhà
nước, mã số KX.02.24/06-10, thuộc chương trình Khoa học và Công nghệ trọng
điểm cấp Nhà nước KX.02/06-10 mang tên “Quản lý phát triển xã hội trong tiến
trình đổi mới ở Việt Nam”. Trong cuốn sách này có ba bài viết của ba tác giả đề cập
đến khái niệm nguồn nhân lực, vai trò của nguồn nhân lực đối với sự nghiệp CNH,
HĐH và phát triển của đất nước:
Tác giả Nguyễn Ngọc Phú, trong bài Những nội dung chủ yếu trong nghiên
cứu nguồn nhân lực, nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của
đất nước hiện nay đưa ra quan niệm về nguồn nhân lực, theo tác giả: “nguồn nhân
lực được hiểu là nguồn lực con người (không phải là nguồn vốn đất, tư liệu sản


9


xuất...), nguồn lao động, là tổng thể các tiềm năng lao động của một đất nước hay
một địa phương, một tổ chức, là con người đáp ứng đòi hỏi của xây dựng xã hội
trong một giai đoạn nào đó sẵn sàng tham gia một công việc nào đó, tức là những
người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng
được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng được xác định” [70, tr.9].
Cũng trong cuốn sách này, PGS. TSKH Trịnh Thị Kim Ngọc có bài Vấn đề
nguồn nhân lực ở nước ta: một số quan điểm lý luận và những thách thức trong
công cuộc đổi mới. Tác giả cũng cho rằng: “Nguồn nhân lực trước hết được hiểu là
tổng thể những tiềm năng lao động của xã hội, là tài nguyên quan trọng nhất, cơ bản
nhất của mỗi quốc gia, là yếu tố năng động nhất và quyết định nhất của lực lượng
sản xuất” [70, tr.187]. Về vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển, tác giả
cho rằng, vốn, nguyên liệu, công nghệ, nguồn nhân lực và thể chế pháp lý là năm
yếu tố cơ bản đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, nhưng trong
đó, nguồn lực con người hay nguồn nhân lực luôn được coi là yếu tố quan trọng
nhất. “Điều đó nhận ra không khó khăn bởi chỉ có con người - nhân tố duy nhất có
khả năng điều phối và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn còn lại để tạo ra của cải vật
chất cho xã hội. Chính vì vậy, nguồn nhân lực luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu
của mọi thể chế nhà nước trong mọi thời đại” [70, tr.186].
Cũng bàn về vai trò của nguồn nhân lực, nhân tài đối với phát triển xã hội, tác
giả Trần Hữu Luyến, cũng trong cuốn sách này, có bài Phát hiện, bồi dưỡng và sử
dụng nguồn nhân lực, nhân tài cho phát triển xã hội. Tác giả cho rằng, “Xã hội phát
triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố; các yếu tố này quan hệ qua lại phức tạp, chằng
chịt, nhưng bao giờ yếu tố con người cũng nổi lên là yếu tố hàng đầu, quan trọng
nhất, có ý nghĩa quyết định thành công hay thất bại. Nói chính xác hơn, sự phát
triển xã hội trước hết và trên hết, giữ vị trí hàng đầu và có ý nghĩa quyết định chính
là đội ngũ những người có năng lực, những người tài năng” [70, tr.236].
Sách Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở

Việt Nam của TS. Đoàn Văn Khái, Nxb Lý luận chính trị, 2005. Đây là công trình
nghiên cứu nhiều năm của tác giả về nguồn lực con người cả về mặt lý luận và thực
tiễn. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã trình bày nội dung, đặc điểm và

10


tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay; phân tích vai trò
của nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; nêu lên thực trạng nguồn lực con người ở nước ta hiện nay, từ đó tác giả đề
xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm khai thác và phát triển nguồn
lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Việt Nam. Về khái niệm nguồn lực
con người, tác giả cho rằng: “nguồn lực con người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu
dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó
trong sự phát triển của xã hội” [60, tr.62].
Đặc biệt khi phân tích vai trò của nguồn lực con người đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác giả đã dành một mục của chương hai để phân tích, lý
giải nguồn lực con người là yếu tố quyết định sự nghiệp CNH, HĐH. Tác giả khẳng
định: “Mặc dù có được nguồn lực tự nhiên như tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý,
hay cơ sở vật chất - kỹ thuật được tạo ra trong các giai đoạn trước đó, hoặc nguồn
lực nước ngoài dưới dạng vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thị trường... thì xưa
nay nguồn lực lâu bền nhất và quan trọng nhất trong sự phát triển của mọi quốc gia
chỉ có thể là con người. Bởi lẽ, cho dù có đủ các nguồn lực khác mà không có
những con người tương xứng, đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó và nếu không
có một môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, tâm lý và dư luận xã hội thuận lợi cho
con người hành động thì vị tất đã có thể đạt được sự phát triển mong muốn. Nói
cách khác, các nguồn lực cho quá trình CNH, HĐH đều quan trọng, nhưng xét đến
cùng, nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn lực
đều trở nên vô nghĩa, thậm chí ngay cả khái niệm “nguồn lực” cũng không còn lý
do để tồn tại. Sự khẳng định này không chỉ nói lên vai trò quyết định của nguồn lực

con người trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác, mà còn phản ánh một đặc
điểm quan trọng hàng đầu của nó, đó là: nguồn lực con người là nguồn lực duy nhất
mà nhờ nó, các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực
đối với quá trình CNH, HĐH. Với ý nghĩa đó, nguồn lực con người là yếu tố tất
yếu, không thể thay thế được” [60, tr.80,81]. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh vai trò
quyết định của nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH, tác giả cũng cho
rằng, không bao giờ được tuyệt đối hóa nó, không được tách nguồn lực con người

11


ra khỏi mối liên hệ hữu cơ với nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác, không đặt
nó ở bên ngoài những điều kiện lịch sử - hiện thực. Có như vậy mới xem xét đúng
đắn vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH nói riêng, trong sự
nghiệp xây dựng phát triển đất nước nói chung.
Trong công trình này, tác giả cũng đã đề xuất và luận giải khá cặn kẽ các giải
pháp phát huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Tác giả đề xuất
ba nhóm giải pháp: Một là, nhóm giải pháp về khai thác hợp lý, có hiệu quả nguồn
lực con người, trong đó, phải tạo nhiều việc làm cho người lao động; tổ chức lao
động xã hội hợp lý, khai thác tốt năng lực người lao động. Hai là, nhóm giải pháp
về phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, trong đó, tác giả
cũng cho rằng giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu để phát triển nguồn lực
con người. Ba là, nhóm giải pháp về xây dựng môi trường xã hội thuận lợi, phục vụ
cho việc khai thác, sử dụng và phát triển có hiệu quả nguồn lực con người, trong đó
cần phải giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích.
Sách Nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước do GS. Phạm Thành Nghị chủ biên, Nxb Khoa học xã
hội, 2007. Cuốn sách đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực và
quản lý nguồn nhân lực; phân tích hiệu quả quản lý nguồn nhân lực và những yếu tố
tác động đến quản lý nguồn nhân lực nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước. Đáng chú ý trong cuốn sách này, tác giả Phạm Thành Nghị đã đưa
ra định nghĩa về nguồn lực con người, theo đó: “Nguồn lực con người là tổng thể
các tiềm năng của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia trong thể thống nhất
hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội của
con người, nhóm người, tổ chức, địa phương, vùng, quốc gia. Tính thống nhất đó
được thể hiện ở quá trình biến đổi nguồn lực con người thành vốn người đáp ứng
yêu cầu phát triển” [66, tr.16]. Theo quan niệm này của tác giả, nguồn lực con
người khác đáng kể và không bao hàm vốn con người.
Sách Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế do PGS.TS. Vũ Văn Phúc và TS. Nguyễn Duy Hùng chủ
biên, Nxb Chính trị quốc gia, 2012. Cuốn sách được hình thành trên cơ sở biên soạn

12


các tham luận tham gia Hội thảo ngày 24/8/2012, do Tạp chí Cộng sản và Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia đồng tổ chức. Cuốn sách được chia làm ba phần, có giá trị
tham khảo lớn trong việc nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực. Trong phần một
của cuốn sách: Những vấn đề chung về phát triển nguồn nhân lực, có hai tác giả đã
trình bày một số khái niệm cơ bản về nhân lực, nguồn nhân lực, phát triển nguồn
nhân lực, vai trò của nguồn nhân lực đối với sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập
quốc tế:
Tác giả Vũ Văn Phúc, trong bài viết Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, đã cho rằng, phát triển nguồn nhân lực là sự
biến đổi về số lượng và chất lượng trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng và tinh thần
cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nhân lực. Nội dung phát
triển nguồn nhân lực của Việt Nam, theo tác giả, cần tập trung bốn vấn đề: Thứ
nhất, gia tăng về số lượng nhân lực có trình độ chuyên môn, nghề nghiệp; thứ hai,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; thứ ba, chuyển dịch cơ cấu nhân lực theo
hướng tiến bộ; thứ tư, phát huy một số tố chất tích cực tiêu biểu của nhân lực Việt

Nam [71, tr.11,12]. Khi bàn về vai trò của nguồn nhân lực, tác giả cho rằng, chất
lượng nguồn nhân lực đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của xã
hội nói chung, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, thể hiện trên các
phương diện: một là, trong tất cả các nguồn lực phát triển kinh tế, thì nguồn lao
động luôn luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế; hai là, nguồn
nhân lực có chất lượng là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ba là, nguồn nhân lực có chất lượng là điều
kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh sự
nghiệp nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm phát triển bền vững
[71, tr.12,13].
Cũng trong phần một của cuốn sách này, khi bàn về chất lượng nguồn nhân
lực, tác giả Trần Đăng Thịnh có bài Bàn về chất lượng nguồn nhân lực và nguồn
nhân lực chất lượng cao. Tác giả cho rằng: Chất lượng nguồn nhân lực được thể
hiện thông qua một hoặc hai yếu tố chủ yếu là: trí lực (trình độ chuyên môn, óc
sáng tạo, tinh thần, thái độ làm việc, phẩm chất đạo đức, tác phong nghề nghiệp...)

13


và thể lực (sức khỏe, tầm vóc, độ dẻo dai...) [71,tr.99]. Thể lực, theo tác giả, là
“năng lực thể chất của nguồn nhân lực, đây là tiêu chí rất quan trọng về chất lượng
nguồn nhân lực, thường bao gồm tiêu chí về tình trạng sức khỏe của con người như:
chiều cao, cân nặng, bệnh tật, tuổi thọ, trạng thái thoải mái về thể chất lẫn tinh thần
và xã hội của con người” [71, tr.99,100]. Trí lực biểu hiện ở trình độ học vấn, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động, tinh thần,
thái độ, tác phong làm việc... Đây là tiêu chí có vai trò rất quan trọng trong đánh giá
chất lượng nguồn nhân lực [71, tr.101].
Sách Viện nghiên cứu con người: một số kết quả nghiên cứu do PGS.TSKH
Lương Đình Hải, PGS.TS Mai Quỳnh Nam đồng chủ biên, Nxb Khoa học xã hội,
2014. Đây là cuốn sách tập hợp nhiều công trình nghiên cứu trong nhiều năm của

các cán bộ thuộc Viện nghiên cứu con người. Trong cuốn sách này, tác giả Lương
Đình Hải có bài viết Xây dựng nguồn nhân lực lao động chất lượng cao, đã luận
giải về tính tất yếu của việc xây dựng nguồn lực lao động chất lượng cao; nội dung
của việc xây dựng nguồn lực lao động chất lượng cao hiện nay. Khi luận giải tính
tất yếu của việc xây dựng nguồn lực lao động chất lượng cao, tác giả đã làm rõ vai
trò của nguồn nhân lực trong mối quan hệ với nguồn lực thể chế, nguồn lực tự
nhiên, nguồn lực tài chính. “Muốn phát triển quốc gia cần có các yếu tố như thể
chế, quan hệ sản xuất tiên tiến, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự, kinh tế thị
trường... Đương nhiên, các yếu tố ấy đều đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự
phát triển của các quốc gia đương đại. Nếu nhìn từ góc độ các yếu tố bên trong, nội
bộ quốc gia, thì đó là những yếu tố có tính quyết định. Nếu xét từ góc độ nguồn lực
thì đó là những nguồn lực của phát triển, có thể gọi là nguồn lực thể chế, bên cạnh
các nguồn lực tự nhiên, nguồn lực con người, nguồn lực tài chính. Nhưng chúng
không thể thể hiện vai trò của mình, thậm chí không thể hiện hữu sức mạnh của
mình, nếu thiếu yếu tố con người, hay nói cách khác, là thiếu nguồn nhân lực và
nguồn nhân lực chất lượng cao” [53, tr.170]. Đặc biệt, khi luận giải về ba “điểm
nghẽn”, ba nút “thắt cổ chai” là kết cấu hạ tầng yếu kém, thể chế kinh tế thị trường
còn nhiều bất cập và chất lượng nguồn nhân lực quá thấp gây trở ngại cho sự tăng
trưởng và làm ảnh hưởng tới sự phát triển chung của Việt Nam trong những năm

14


đổi mới, tác giả cho rằng: “Xét đến cùng thì điểm nút của cả ba “điểm nghẽn, thắt
cổ chai” đó chính là nguồn nhân lực. Thể chế là do con người xác lập, kết cấu hạ
tầng là do con người quy hoạch và tạo dựng. Nguồn nhân lực như thế nào thì trực
tiếp hoặc gián tiếp thể chế và kết cấu hạ tầng như thế. “Tầm nhìn” và hướng phát
triển của nguồn nhân lực sẽ quy định cả thể chế lẫn kết cấu hạ tầng trong tương lai.
Không có nguồn nhân lực đảm bảo chất lượng thì không thể giải quyết được vấn đề
thể chế và kết cấu hạ tầng” [53, tr.171]. Cách luận giải của tác giả cũng cho thấy

rằng, vai trò của nguồn lực con người là quan trọng nhất, quyết định sự phát triển
của đất nước.
Sách Những chuyên đề triết học của PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa, Nxb Khoa
học xã hội, 2007. Đây là kết quả của công trình nghiên cứu nhiều năm của tác giả.
Cuốn sách gồm 14 chuyên đề, được sắp xếp theo lôgíc bên trong của bản thân tri
thức triết học. Trong chuyên đề thứ 13 Học thuyết về con người và phát triển nguồn
nhân lực, tác giả đã đề cập đến các quan niệm trong lịch sử về con người, đặc biệt
là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người; đề cập những nội dung cơ
bản về phát triển nguồn nhân lực, như khái niệm nguồn nhân lực, phát triển nguồn
nhân lực, thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, những giải pháp phát triển
nguồn nhân lực. Theo tác giả, “nguồn nhân lực là khái niệm chỉ những thế hệ tiếp
nối nhau của những “con người - chủ thể” với những phẩm chất nhất định (thể lực,
trí lực, nhân cách) đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” [67, tr.630]. Còn phát triển nguồn nhân lực, theo tác giả, “là quá trình tạo ra
sự tăng trưởng về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực; đồng thời, nâng cao hiệu
quả sử dụng chúng để đáp ứng ngày càng tốt hơn sự phát triển bền vững của đất
nước” [67, tr.632]. Như vậy, theo tác giả, nội dung phát triển nguồn nhân lực bao
gồm: phát triển nguồn nhân lực về số lượng, phát triển nguồn nhân lực về mặt chất
lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Về giải pháp phát triển nguồn
nhân lực, tác giả đề xuất sáu giải pháp: Một là, tổ chức, bố trí lại lực lượng lao động
trên phạm vi cả nước; hai là, đổi mới triệt để hệ thống giáo dục, đào tạo; ba là, đẩy
mạnh phát triển khoa học - công nghệ; bốn là, thực hiện chế độ lương hợp lý; năm
là, đẩy mạnh giải quyết việc làm, và sáu là, đấu tranh chống tham nhũng. Đây là

15


cuốn sách thực sự hữu ích trong việc nghiên cứu triết học nói chung, và nghiên cứu
nguồn nhân lực nói riêng.
Sách Giáo trình nguồn nhân lực của PGS.TS Nguyễn Tiệp, Nxb Lao động xã

hội, 2011. Trong cuốn sách này, tác giả đi sâu vào phân tích các vấn đề lý luận và
thực tiễn của nguồn nhân lực trên bình diện vĩ mô theo hệ thống các yếu tố cấu
thành; đặc điểm và các nhân tố tác động đến số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn
nhân lực; đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy sự hoàn thiện và phát triển nguồn
nhân lực. Về khái niệm nguồn nhân lực, tác giả cho rằng, trước hết với tư cách là
nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, ở nghĩa rộng nhất thì nguồn nhân lực bao
gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao động, không phân biệt người đó đang được
phân bổ vào ngành nghề, lĩnh vực, khu vực nào và có thể coi đây là nguồn nhân lực
xã hội. Với tư cách là khả năng đảm đương lao động chính của xã hội thì nguồn
nhân lực được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động (do pháp luật lao động quy định) [86, tr.7,8]. Như vậy,
theo tác giả, dù có các biểu hiện khác nhau nhưng nguồn nhân lực của quốc gia
phản ánh các đặc điểm sau: nguồn nhân lực là nguồn lực con người; nguồn nhân lực
là bộ phận của dân số, gắn với cung lao động; nguồn nhân lực phản ánh khả năng
lao động của một xã hội.
Về chất lượng nguồn nhân lực, tác giả quan niệm rằng, chất lượng nguồn nhân
lực là khái niệm tổng hợp về những người thuộc nguồn nhân lực được thể hiện ở
các mặt sau: Sức khỏe; trình độ văn hóa; trình độ chuyên môn kỹ thuật; năng lực
thực tế về tri thức, kỹ năng nghề nghiệp; tính năng động xã hội; phẩm chất đạo đức,
tác phong, thái độ đối với công việc và môi trường làm việc; hiệu quả hoạt động lao
động của nguồn nhân lực; thu nhập, mức sống và mức độ thỏa mãn nhu cầu cá nhân
của người lao động [86, tr.9,10].
Để phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao, tác giả đề
xuất bốn giải pháp, một là, xây dựng thống nhất tiêu chuẩn đánh giá nhân lực trình
độ cao; hai là, hoàn thiện chính sách khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn,
kỹ thuật đối với nhân lực trình độ cao; ba là, thực hiện cơ chế phát hiện nhân tài

16



trong sử dụng lao động, giáo dục văn hóa, đào tạo chuyên môn, kỹ thuật; bốn là,
hoàn thiện chính sách đãi ngộ đối với nhân tài.
Bài viết Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của TS. Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, số 152.
Trong bài viết này, tác giả đi sâu phân tích mối quan hệ biện chứng giữa phát triển
nguồn nhân lực và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo tác giả, “Trong
mối quan hệ và tác động qua lại với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố
con người luôn giữ vị trí quyết định. Điều đó được thể hiện ở chỗ, thứ nhất: con
người là chủ thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thứ hai: con người là
lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội, và thứ ba, do vậy, con người là động lực cơ
bản nhất của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [55, tr.14]. “Dù xét dưới góc
độ kinh tế, xã hội hay kỹ thuật, công nghệ thì yếu tố con người vẫn luôn là chủ thể
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa... Một mặt, nguồn nhân lực là lực lượng
duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội dung và những giải pháp
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác với những ưu thế hơn hẳn (so
với các nguồn lực khác), như khai thác không bao giờ cạn... nguồn nhân lực là lực
lượng căn bản nhất thực hiện quá trình đó” [55, tr.16].
Về sự tác động, ảnh hưởng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với phát
triển nguồn nhân lực, theo tác giả, sự tác động, ảnh hưởng đó thể hiện ở chỗ, thứ
nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện vật chất để cải biến nếp nghĩ, nếp
làm của một bộ phận đáng kể lực lượng lao động xã hội; thứ hai, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thúc đẩy sự phát triển chất lượng nguồn nhân lực, trước hết là trình độ
văn hóa và tay nghề người lao động; thứ ba, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu và giải pháp phát triển con
người một cách toàn diện.
Bên cạnh việc phân tích mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ở đây, trong bài viết này, tác giả còn chỉ ra
một số hạn chế trong việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, mà trong
đó, theo tác giả, trước hết và chủ yếu là do những bất cập của giáo dục - đào tạo,
đặc biệt là đào tạo nghề.


17


Cùng với các tác giả với các công trình nghiên cứu nói trên, còn có nhiều tác
giả khác với những công trình nghiên cứu của mình cũng đã đề cập tới khái niệm
nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực, vai trò của nguồn nhân lực, giải pháp
phát triển nguồn nhân lực ở những phạm vi, góc độ nhất định. Có thể kể đến các tác
giả gắn với các công trình, đề tài, bài viết sau đây: GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn với
bài viết Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng hiện đại và phát triển bền vững,
và bài Tạo dựng nguồn lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Tác giả
Nguyễn Cúc với bài viết Phát triển nguồn nhân lực: Cần sự gắn kết trong chiến
lược quy hoạch và chính sách; Tác giả Chu Văn Cấp với bài viết Phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao góp phần phát triển bền vững Việt Nam; Tác giả Nguyễn
Hữu Dũng với công trình Những vấn đề gay cấn trong quản lý nguồn nhân lực ở
nước ta hiện nay; Tác giả Phạm Thành Nghị với công trình Nâng cao hiệu quả
quản lý nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
Tác giả Hồ Sĩ Quý với công trình Con người và phát triển con người; Tác giả Lê
Thị Ái Lâm với công trình Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào
tạo kinh nghiệm Đông Á.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về
nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người ở Hà Nội
Trong các công trình nghiên cứu về Hà Nội, thì các công trình nghiên cứu về
lịch sử, văn hóa, con người, có thể nói là rất lớn, rất đồ sộ. Ở các khía cạnh khác
nhau, với các góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình này cũng đã đề cập đến
nguồn lực con người Hà Nội trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô
và đất nước. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trực tiếp về CNH, HĐH, về
nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người Hà Nội trong sự nghiệp CNH,
HĐH với tư cách là công trình nghiên cứu chuyên sâu, chuyên khảo, qua khảo sát,
nghiên cứu, chúng tôi thấy chưa nhiều. Có thể tổng quan các công trình đã nghiên

cứu như sau:
Sách Các giải pháp chủ yếu để Hà Nội cơ bản hoàn thành CNH, HĐH theo
hướng hiện đại vào năm 2018, là kết quả nghiên cứu tập thể tác giả thuộc Viện
nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội, do TS. Nguyễn Đình Dương, TS.

18


Nguyễn Thành Công đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, 2011. Đây là công
trình nghiên cứu chuyên sâu về CNH, HĐH Thủ đô. Trong công trình nghiên cứu
này, các tác giả đã nghiên cứu một số lý luận cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa như: Khái niệm, mô hình, tiêu chí và chỉ tiêu công nghiệp hóa, một số kinh
nghiệm quốc tế tiến hành CNH, HĐH... Các tác giả cũng đánh giá thực trạng CNH,
HĐH Thủ đô chủ yếu tập trung trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay; luận chứng đề
xuất các chỉ tiêu, tiêu chí CNH, HĐH để Hà Nội cơ bản hoàn thành nhiệm vụ CNH,
HĐH theo mục tiêu đã định. Đồng thời các tác giả cũng đề xuất các giải pháp,
nhiệm vụ cụ thể đối với từng lĩnh vực để Hà Nội hoàn thành mục tiêu CNH, HĐH.
Đánh giá tổng quan những thành tựu đạt được trong quá trình CNH, HĐH Thủ
đô trong những năm qua, các tác giả cho rằng: Kinh tế thủ đô phát triển khá ổn
định, Hà Nội đã trở thành một trung tâm kinh tế quan trọng hàng đầu của cả nước;
cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng hiện đại, hiệu quả; xây dựng và
phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và quản lý đô thị trong quá trình
CNH, HĐH Thủ đô có nhiều chuyển biến tích cực; diện mạo đô thị có sự thay đổi
theo hướng hiện đại; hoạt động đối ngoại và hợp tác phát triển, chủ động hội nhập
kinh tế khu vực, quốc tế tiếp tục được mở rộng và phát huy hiệu quả; khoa học công nghệ đã có bước phát triển mới và có đóng góp quan trọng trong quá trình
CNH, HĐH Thủ đô [28, tr.194].
Bên cạnh sự đánh giá khá cao về những thành tựu đã đạt được, các tác giả
cũng chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân hạn chế của CNH, HĐH Thủ đô trong
thời gian vừa qua. Những hạn chế và nguyên nhân đó có thể khái quát lại là: thứ
nhất, chất lượng phát triển và sức cạnh tranh của kinh tế Hà Nội còn kém hiệu quả;

thứ hai, khả năng khai thác hiệu quả lợi thế so sánh còn thấp, các ngành kinh tế mũi
nhọn hình thành chưa rõ nét, hệ thống thị trường phát triển thiếu đồng bộ và chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô; thứ ba, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tuy có sự chuyển biến tích cực song chưa tạo được sự
đột phá về chất ở mức cần thiết trên các mặt chủ yếu; thứ tư, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông thôn ngoại thành Hà Nội nhìn chung còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu,
còn sự mất cân đối lớn giữa tốc độ, quy mô, trình độ phát triển giữa nội thành và

19


ngoại thành; thứ năm, phát triển văn hóa - xã hội chưa tương xứng với tốc độ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô; khoa học - công nghệ chưa phát huy hết tiềm
năng, thế mạnh của đội ngũ các nhà khoa học trên địa bàn Thành phố; thứ sáu, công
tác chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện của một số cơ quan chính quyền còn nhiều
mặt bất cập, thiếu năng động, quyết liệt.
Tuy là công trình nghiên cứu chuyên sâu về CNH, HĐH Thủ đô, nhưng trong
công trình nghiên cứu này, các tác giả cũng chưa khái quát được đặc điểm cơ bản
của CNH, HĐH Thủ đô, mà điều này lại có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ tiếp theo của CNH, HĐH Thủ đô. Đây có thể
nói là hạn chế của công trình nghiên cứu này về CNH, HĐH Thủ đô.
Sách Phát triển bền vững kinh tế - xã hội các thành phố theo hướng hiện đại,
của Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia,
2012. Cuốn sách tập hợp các bài viết của các tác giả tham gia hội thảo khoa học
cùng tên do các viện nghiên cứu của bốn thành phố: Viện nghiên cứu phát triển
kinh tế - xã hội Hà Nội, Viện kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Viện nghiên cứu
phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng và Viện kinh tế - xã hội Cần Thơ phối hợp tổ
chức. Cuốn sách trình bày những vấn đề cơ bản về thực trạng phát triển kinh tế - xã
hội của nước ta nói chung và các thành phố nói riêng; xác định mục tiêu, nhiệm vụ,
tiêu chí và định hướng, các bước đi, mô hình, giải pháp cho các thành phố thực hiện

thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng hiện đại, hướng tới
sự phát triển bền vững. Cuốn sách được chia làm bốn phần, trong phần thứ nhất của
cuốn sách này, các tác giả đã đề cập tới việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ, tiêu chí
và giải pháp chủ yếu để Hà Nội hoàn thành CNH, HĐH theo hướng hiện đại như
mục tiêu đã định. Tuy nhiên ở đây, các tác giả cũng vẫn chưa nói lên đặc điểm chủ
yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô. Đây cũng là một nội dung cần
nghiên cứu, làm rõ.
Sách Phát triển kinh tế tri thức trên địa bàn Thành phố Hà Nội giai đoạn 2011
- 2020, của tập thể tác giả thuộc Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội,
do TS. Nguyễn Đình Dương, TS. Nguyễn Thành Công đồng chủ biên, Nxb Chính
trị quốc gia, 2012. Cuốn sách trình bày một số vấn đề lý luận cơ bản về phát triển

20


kinh tế tri thức; đánh giá thực trạng phát triển kinh tế tri thức Thủ đô theo định
hướng kinh tế tri thức trong những năm qua; đề ra mục tiêu, định hướng và các giải
pháp chủ yếu để phát triển kinh tế tri thức ở Hà Nội giai đoạn 2011-2020. Đáng chú
ý ở đây, trong công trình nghiên cứu này, các tác giả đã đưa ra các nhận xét, đánh
giá về thực trạng nguồn nhân lực Hà Nội theo yêu cầu phát triển kinh tế tri thức.
Các tác giả đã đề cập tới quy mô và cơ cấu nguồn nhân lực Thủ đô; chất lượng lao
động; hệ thống đào tạo nhân lực của Hà Nội; trình độ, chất lượng đào tạo và năng
lực nghề nghiệp; cơ cấu, chính sách của Thành phố phục vụ công tác phát triển,
nâng cao chất lượng nhân lực Thủ đô; chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn
tại của chất lượng nguồn nhân lực theo yêu cầu phát triển kinh tế tri thức Thủ đô.
Về chất lượng và cơ cấu lao động Hà Nội, các tác giả cho rằng, chất lượng lao
động tuy cao hơn so với cả nước nhưng chất lượng này vẫn còn thấp hơn rất nhiều
so với các nước trong khu vực và trên thế giới; cơ cấu lao động qua đào tạo của Hà
Nội còn bất hợp lý và chậm thay đổi, thiếu đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề,
đã qua đào tạo cơ bản. Đề cập đến nguyên nhân của những hạn chế về chất lượng

nguồn nhân lực, các tác giả chỉ ra một số nguyên nhân, trong đó nguyên nhân từ
giáo dục đào tạo, từ cơ chế chính sách là chủ yếu.
Có thể nói đây là một công trình nghiên cứu có giá trị, giúp cho chúng ta có
thêm thông tin và hiểu biết về mục tiêu cần đạt đến của một nền kinh tế tri thức ở
Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng. Tuy nhiên, ở đây, các tác giả cũng
chưa có sự đánh giá nhiều về thực trạng nguồn nhân lực theo yêu cầu phát triển
kinh tế tri thức của Hà Nội, một số nguyên nhân được chỉ ra chưa có sự phân tích,
luận giải cặn kẽ, đầy đủ.
Sách Phát huy yếu tố tiềm năng con người Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa do PGS.TS. Nguyễn Viết Vượng chủ biên, Nxb Lao động,
2005. Đây là công trình nghiên cứu của tập thể các tác giả thuộc trường Đại học
Công Đoàn. Trong công trình này, các tác giả đã luận giải làm sáng tỏ vai trò đội
ngũ cán bộ, công nhân viên chức và người lao động Thủ đô, nêu nên thực trạng
tiềm năng con người Thủ đô, từ đó đề xuất các giải pháp phát huy yếu tố tiềm năng
con người Hà Nội. Trong phần đánh giá chung về tiềm năng con người Thủ đô, các

21


×