Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Một số biện pháp xây dựng tốt nề nếp lớp bán trú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.56 MB, 26 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập –Tự do –Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Mã số:…………………………………………
Kính gửi: Thường trực Hội đồng sáng kiến cấp Huyện
- Chúng tôi ghi tên dưới đây là:
Ngày
STT

Họ và tên

tháng

Nơi

Chức

năm

công tác

danh

Trường

Giáo

MNLQ
Trường

viên



sinh

1

Phạm Thị Vân

10/7/1965

2

Nguyễn Thị
Nhung

15/1/1972

3

Lê Thị Phương
Uyên

10/4/1970

MNLQ
Trường
MNLQ

Trình
độ
chuyên

môn

Tỷ lệ (%)
đóng góp vào việc
tạo ra sáng kiến

Đại
học

50%

H.T

Cao
đẳng

25%

P.H T

Cao
đẳng

25%

Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Một số biện pháp xây dựng
tốt nề nếp lớp bán trú.
1- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Mầm non Lương Quới
2- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục mầm non.
3- Mô tả bản chất của sáng kiến:

3.1. Tình trạng giải pháp đã biết:
Ở mầm non việc rèn nề nếp cho cho các cháu là hết sức quan trọng trong
việc hình thành, phát triển toàn diện nhân cách của cháu. Là yếu tố quyết
định trực tiếp đến chất lượng chăm sóc và giáo dục. Nhưng cần thiết nhất là
lớp bán trú. Yêu cầu của lớp bán trú là mỗi trẻ đều được học tập, vui chơi, ăn


ngủ, vệ sinh tại trường nên đòi hỏi trẻ phải được thực hiện theo những quy
định chung của lớp về các hoạt động, vì vậy đòi hỏi trẻ phải có ý thức khi
tham gia vào các hoạt động, nhất là khâu chăm sóc, trẻ phải có khả năng tự
phục vụ cao…Nhưng đa số trẻ thì chưa có được điều đó và kinh nghiệm của
giáo viên trong việc chăm sóc giáo dục trẻ bán trú chưa nhiều, ảnh hưởng
không nhỏ đến việc xây dựng nề nếp của trẻ. Do vậy nếu xây dựng nề nếp
tốt sẽ giúp chúng tôi hoàn thành tốt công tác chăm sóc và giáo dục trẻ đạt
hiệu quả cao. Từ những băn khoăn đó, tôi thấy rằng là một giáo viên chủ
nhiệm lớp việc đổi mới quản lý chăm sóc giáo dục trẻ là điều kiện hết sức
cần thiết. Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp xây dựng tốt
nề nếp lớp bán trú cho trẻ 5-6 tuổi” để góp phần nâng cao chất lượng chăm
sóc giáo dục trẻ trong nhà trường.
* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường.
- Các giáo viên trong tổ đoàn kết giúp đỡ nhau.
- Đa số phụ huynh quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ.
- Cả 2 giáo viên trong lớp đều có trách nhiệm cao trong công việc.
- Trường đang xây dựng trường nâng chuẩn Quốc Gia và phổ cập trẻ 5
tuổi nên lớp được trang bị về điều kiện cơ sở vật chất tương đối đầy đủ,
phòng học khang trang, đảm bảo tốt cho các hoạt động học tập, vui chơi, ăn,
ngủ, vệ sinh cho trẻ…
- Thời gian trẻ ở trường khá nhiều, có điều kiện tốt cho việc rèn nề nếp
thói quen của trẻ.

* Khó khăn:
- Số trẻ trong lớp khá đông nên ảnh hưởng đến các hoạt động của trẻ.
- Giáo viên dù qua hai năm thực hiện quản lý lớp bán trú nhưng chưa có
nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, kết quả đạt được của
các năm qua chưa theo mong muốn.
- Tuy vào học lớp 5-6 tuổi nhưng vẫn còn trẻ chưa qua các lớp 4-5 tuổi
nên còn bỡ ngỡ, xa lạ, có cháu thì mới chuyển từ lớp một buổi sang, nên


chưa quen với cách sinh hoạt tập thể như: Còn rụt rè ngần ngại khi ăn uống,
chưa quen với thức ăn, chỗ ngủ ở trường, một số trẻ chưa biết tự thay quần
áo hoặc trải nệm gối vào chỗ của mình.
- Một số trẻ do ba mẹ đi làm xa, trẻ sống với ông bà được cưng chìu nên
đa số trẻ hay nghịch.
- Lớp có nhiều cháu cá biệt, năng động nên ảnh hưởng đến nề nếp của
lớp.
- Một số phụ huynh chưa quan tâm nhiều, do bận làm ăn kinh tế ít đế ý
đến con, chưa phối hớp tốt với giáo viên chủ nhiệm chăm sóc và uốn nắn trẻ.
Từ những khó khăn trên tôi mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp xây dựng
tốt nề nếp lớp bán trú cho trẻ 5-6 tuổi”
* Phương pháp tiến hành:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp khảo sát, thử nghiệm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
3.2. Mục đích của sáng kiến:
Xây dựng tốt nề nếp lớp bán trú nhằm giúp cho trẻ có ý thức trong mọi
hoạt động, có khả năng tự phục vụ, rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu giúp
trẻ phát triển tốt về thể chất, tình cảm, thẩm mỹ… và những yếu tố đầu tiên
cho việc hình thành nhân cách trẻ, chuẩn bị cho trẻ bước vào lớp một trường

tiểu học.
Giúp giáo viên có điều kiện chăm sóc giáo dục cháu tốt hơn, cũng như
có nhiều kinh nghiệm góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ
trong nhà trường.
3.3. Nội dung sáng kiến:
3.3.1. Tính mới của giải pháp:
- Giáo viên nắm vững về kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ lớp bán trú.
- Phụ huynh ngày càng tin tưởng sự chăm sóc giáo dục trẻ nên đã thu
hút đông đảo trẻ học bán trú, hoàn thành tốt việc phổ cập trẻ 5 tuổi.


- Trẻ ngoan và năng động sáng tạo hơn trong mọi hoạt động học tập và
vui chơi, ăn, ngủ, vệ sinh…
3.3.2. Cách thức thực hiện, các bước thực hiện cụ thể của giải pháp
mới:
a.. Xây dựng kế hoạch:
Giáo viên xây dựng kế hoạch theo từng chủ đề, theo tuần, về các mặt
chăm sóc giáo dục như nếp học, nếp ăn, nếp ngủ, vui chơi, vệ sinh… để giáo
viên dựa vào đó mà thực hiện.
b. Học tập và rèn luyện:
- Bản thân tôi luôn học tập nâng cao trình độ, sưu tầm tài liệu, nghiên
cứu sâu chuyên môn qua tạp chí, báo đài, tài liệu hướng dẫn thực hiện
chương trình Mầm non mới, tham gia các đợt tập huấn chuyên môn của
ngành về giáo dục kỹ năng sống vào đầu học kỳ II, học hỏi trao đổi kinh
nghiệm với đồng nghiệp để thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc giáo dục.
- Phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nhà giáo, luôn gương
mẫu trước trẻ để trẻ noi theo.
c. Chăm sóc giáo dục:
c.1. Chăm sóc:
- Rèn cho trẻ biết thực hiện các chế độ sinh hoạt: chơi, ăn, ngủ, vệ

sinh… tại trường, số lượng thời gian cho từng hoạt động và thực hiện theo
một trình tự sắp xếp theo chế độ sinh hoạt của trẻ, thực hiện chuyển từ hoạt
động nầy sang hoạt động khác nhanh nhẹn nhằm hình thành cho trẻ thói
quen, tính tổ chức kỷ luật cao.
- Rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ là cô không làm thay trẻ mà hướng
dẫn trẻ làm, qua việc cô làm mẫu hoặc tuyên dương những bạn thực hiện
được nhằm khuyến khích trẻ thực hiện…
Ví dụ: Trẻ tự thay và gấp quần áo, biết tự lấy nệm trải vào nơi mình ngủ
và biết tự lấy gối, biết rửa tay trước và sau khi ăn để đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm và phòng chống dịch bệnh, sau khi đi vệ sinh, biết cất bát đĩa sau
khi ăn xong, biết đánh răng sau khi ăn để bảo vệ răng miệng…


- Giờ ăn cô giới thiệu các món ăn nhanh chóng, áp dụng giáo dục dinh
dưỡng cho trẻ, tránh để cho trẻ chờ đợi quá lâu. Khen ngợi động viên nhắc
nhở trẻ ăn nhanh không ngậm, không rơi vãi, không nói chuyện, ăn hết suất,
biết mời cô và các bạn…
- Đối với trẻ suy dinh dưỡng cô khuyến khích trẻ ăn hết suất, ăn đủ
chất, uống thêm sửa, ăn yaourt sau bữa ăn, ngủ đủ giấc, và theo dõi bằng
biểu đồ, thực hiện cân đo trẻ hằng tháng…Trẻ béo phì được tham gia vận
động, cô cho cháu chạy bộ sau giờ tập thể dục sáng, giáo dục trẻ ăn nhiều
thực phẩm giàu vitamin.
Ví dụ: Giờ ăn xế nếu ngày nào uống sửa, hoặc ăn chè thì cô báo cho cấp
dưỡng thay bằng trái cây. Như vậy cứ tạo cho trẻ trở thành thói quen khi gặp
trường hợp như thế trẻ tự biết lấy thức ăn cho mình mà không đợi cô nhắc.
c.2. Giáo dục:
- Đối với trẻ chưa có thói quen trong học tập còn nhút nhát cô không
chê trách mà luôn khéo léo động viên trẻ tạo cơ hội cho trẻ được phát biểu,
tôn trọng ý kiến của trẻ giúp trẻ tự tin và tham gia vào các hoạt động ở lớp.
- Đối với trẻ năng động nghịch phá cô quan tâm đặc biệt hơn trong giờ

học, gọi trẻ phát biểu, để trẻ không nói chuyện hoặc làm việc riêng ảnh
hưởng đến bạn khác. Ngoài ra cô cũng thường giao việc cho trẻ giúp cô để
cô dễ quản lý trẻ từ đó trẻ cảm thấy thích thú và sẽ không có cảm giác bị bỏ
rơi.
- Ở lớp cô luôn đề ra những quy định chung: Về giờ giấc đến lớp, sinh
hoạt ăn, ngủ, học tập vui chơi, lao động tự phục vụ, nhằm tạo tính kỷ luật,
tính tập thể cho trẻ.
- Chú trọng rèn cho trẻ một số thói quen tốt như: Khi khách đến lớp
phải biết đứng dậy chào, nhận hoặc đưa đồ vật bằng hai tay, muốn phát biểu
phải giơ tay, trả lời tròn câu...
- Cô chia tổ, có tổ trưởng kiểm tra vệ sinh mỗi sáng, thực hiện trực
nhật… đưa trẻ vào nề nếp.


- Dạy trẻ thói quen thực hiện hiệu lệnh: Xếp hàng, tập hợp, lấy và cất
đồ dùng, đồ chơi…nhằm rèn trẻ nhanh nhẹn khẩn trương trong sinh hoạt học
tập, vui chơi.
- Cho trẻ xem tranh “Việc làm đúng sai”, kể chuyện “Vì sao thỏ cụt
đuôi”, hát và vận động “Vì sao mèo rửa mặt, Thật đáng chê…”, đọc thơ “Cái
bát xinh xinh” qua đồng dao “Đèn giao thông” có nội dung mang tính giáo
dục cao: Ý thức giữ vệ sinh bảo vệ môi trường, giáo dục an toàn giao thông
biết yêu quý sản phẩm làm ra… nhằm hình thành nhân cách cho trẻ.
- Đưa ra tiêu chuẩn bé ngoan để khuyến khích trẻ thực hiện tốt các hoạt
động trong ngày.
- Cô thường xuyên sử dụng biện pháp tuyên dương nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo giúp trẻ tự tin và dạn dĩ hơn.
- Cô tận dụng thời gian ở trường cùng trẻ làm đồ dùng đồ chơi bằng
nguyên vật liệu tự nhiên, nhằm tạo những loại đồ chơi phong phú, giúp trẻ
khéo léo hơn, sáng tạo hơn.
- Cho trẻ chơi dân gian “Chi chi chành chành, nu na nu nống” cho trẻ

chơi cùng nhau, đọc ca dao “Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Đọc đồng dao “ Đi chơi phố, đèn giao thông”… cho trẻ chuyển đội
hình, tạo cho trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào hoạt động, hò vè cho trẻ
chú ý lắng nghe và đáp lại.
Thí dụ: Cô: Nghe vẻ nghe ve nghe vè cô đố
Quả gì không phải để ăn
Mà dùng để đá để lăn để chuyền
Đó là quả gì, quả gì cái mà quả gì?
Trẻ: Nghe vẻ nghe ve nghe vè con đáp
Quả gì không phải để ăn
Mà dùng để đá, để lăn để chuyền
Đó là quả bóng, quả bóng cái mà quả bóng.


- Cô giáo dục trẻ khi chơi với đồ chơi ngoài trời không được giành đồ
chơi, xô đẩy nhau, nếu ai vi phạm tức là vi phạm tiêu chuẩn bé ngoan và
không được cắm cờ ngày hôm đó. Dần dần trở thành thói quen và không để
vi phạm.
d. Công tác phối hợp với phụ huynh:
- Giáo viên phối hợp với phụ huynh thông qua nhiều hình thức: Trao
đổi qua giờ đón, trả trẻ, qua bảng tuyên truyền của lớp theo tuần, theo chủ
đề, thực hiện số bé ngoan hằng tuần, xây dựng trọng tâm hằng tháng để phụ
huynh cùng rèn nề nếp với giáo viên chủ nhiệm, tổ chức đại hội phụ huynh 3
lần/năm, nhằm báo cáo tình hình học tập, tình trạng sức khỏe của cháu, bồi
dưỡng những trẻ có năng khiếu đặc biệt như năng khiếu vẽ để cháu tham gia
thi vẽ tranh do nhà trường phát động. Trong họp phụ huynh, cô trao đổi thu
thập thông tin về trẻ: Trẻ ít chơi, trẻ không hòa đồng…khó khăn của trẻ
trong việc thực hiện các yêu cầu của cô, chế độ ăn uống nâng cao sức khỏe
phòng chống suy dinh dưỡng, béo phì.

- Việc phối hợp với gia đình và giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo
dục trẻ là rất cần thiết, tạo sự thống nhất giữa gia đình và giáo viên chủ
nhiệm, mặt khác giúp cho giáo viên phát huy được thế mạnh của gia đình
trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ như đóng góp dụng cụ học tập: Chì
đen, chì màu, đất nặn, bảng, que tính, hồ, kéo…Ngoài ra còn hỗ trợ việc
chăm sóc như dép cho cháu ra nhà ăn không bị té, kem, bàn chải cho cháu
đánh răng sau khi ăn, gối, nệm cho cháu ngủ…
- Thực tế cho thấy, nếu gia đình và nhà trường có sự phối hợp chặt chẽ
với nhau thì trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ sẽ tạo điều kiện thuận lợi
và có hiệu quả. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ với phụ huynh mà giáo viên biết
được tính cách riêng của trẻ, từ đó có biện pháp uốn nắn kịp thời nhanh
chóng đưa trẻ vào nề nếp.
* Thí dụ: Trong giờ học cháu Sang, Tài… ngồi chưa đúng tư thế khi
ngồi tô chữ cái hay cúi đầu xuống bàn hoặc ngã về một bên. Cô trao đổi với
phụ huynh ở giờ trả trẻ để về nhà phụ huynh thường xuyên chú ý nhắc nhỡ


cháu ngồi đúng tư thế lúc ngồi ăn, ngồi học…
. Cháu Tuấn Anh còn thụ động chưa tham gia vào các hoạt động của
lớp, cháu cầm viết chưa đúng,, chưa có kỹ năng tô màu… Cô trao đổi với
phụ huynh để nắm được tình hình học tập ở lớp để tiếp tục giúp đỡ cho trẻ
thực hiện ở nhà.
. Cháu lấy cất đồ dùng đồ chơi không đúng nơi quy định, nghịch phá
đồ dùng của bạn… như cháu Tú, Nhật Ánh… Giao1 viên tập cho cháu có
thói quen lấy và cất đồ dùng, đồ chơi đùng nơi quy định, đồng thời kết hợp
với phụ huynh tập cho cháu các thói quen : Cất đồ dùng ở nhà đúng nơi quy
định, không làm thay trẻ, tập cho trẻ tính tự lập, biết sắp xếp gọn gàng cẩn
thận mọi thứ của trẻ…
- Còn một số phụ huynh còn xem thường giờ giấc vào học, việc cháu đi
học không đúng giờ đã ảnh hưởng đến nề nếp lớp như cháu Tuyết Vy,

Khoa…Cô trao đổi với phụ huynh đưa cháu đi học đúng giờ, như vậy cháu
mới theo kịp các hoạt động của lớp, không ảnh hưởng đến việc chấm ăn…
- Cháu Tuấn Anh ít nói, cháu Ân không tham gia chơi, ngồi riêng lẻ
một mình, qua phụ huynh cô biết là cháu do hoàn cảnh cha mẹ lo làm ăn
kinh tế ít quan tâm đến trẻ không tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với mọi
người xung quanh. Từ đó cô gần giũ với cháu hơn, lúc đầu khi chơi các trò
chơi tập thể cô đứng cạnh cháu tập cháu quen dần.
đ. Trong các giờ học:
- Ngay từ đầu năm, cô tập cho cháu quen dần hiệu lệnh của cô như giờ
thể dục: Lắc trống là so hàng, gõ 1 cái là bỏ tay xuống, 2 cái là quay sang
trái hoặc sang phải…
- Khi chuyển tiếp các hoạt động cô đều cho cháu đọc ca dao hoặc đồng
dao để di chuyển đôi hình, có như thế thì trẻ mới không xô đẩy nhau và
không nói chuyện riêng làm mất trật tự. Thí dụ chủ đề “Phương tiện giao
thông” cho cháu đọc đồng dao “Đi chơi phố” đến xem trình chiếu, hoặc bài
“Đèn giao thông” chuyển nhóm bạn trai bạn gái. Chủ đề “Thực vật” đọc
đồng dao “Na Non…thơm phức”.


. Ngoài ra cô còn sáng tác các câu đồng dao như:
“Nầy các bạn ơi chúng ta cùng xếp
Xếp vòng tròn to giống chữ cái o” để cháu vừa đọc vừa chuyển đội
hình vòng tròn.
. Hoặc “Cô là bóng to, bé là bóng nhỏ
To nhỏ cùng lăn, lăn nhanh đi nào” để cháu chuyển đôi hình
về 3 tổ.
- Trong giờ học vẽ, tập tô chữ cái, chữ số cháu biết giúp cô kê bàn ghế
nhẹ nhàng, sắp xếp ngay ngắn, đây là thói quen cô tập cháu ngay từ đầu
năm, nên giờ học có sử dụng bàn ghế lớp học rất im lặng và không có tiếng
ồn vì cô đã giáo dục cháu tiếng ồn sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường, ảnh

hưởng đến sức khỏe…
- Trong các giờ học còn một số cháu chưa tích cực tham gia phát biểu ý
kiến, còn thụ động, một số cháu chưa theo hiệu lệnh trống lệnh của cô, thích
làm theo ý của mình như cháu Khoa, Ân, Tài…cô thường xuyên gọi cháu
phát biểu hay nhắc lại ý kiến của bạn, cô động viên khuyến khích cháu kịp
thời, khi cháu có tiến bộ dù nhỏ cô cũng khen ngợi tạo sự hứng thú cho
cháu, từ đó cháu học tích cực hơn.
- Trong giờ hoạt động góc, cháu chưa biết tự nguyện tham gia vào góc
chơi chưa thể hiện đúng vai chơi, hay nghịch phá đồ chơi các góc, ở góc
thiên nhiên cháu chơi không gọn gàng, hay làm đổ cát, nước, góc nghệ thuật
cháu chưa tự tin khi tham gia biểu diễn văn nghệ, chơi chưa hết thời gian.
Với những lý do đó đòi hỏi cô bao quát nắm được đặc điểm của trẻ để gần
gũi, tham gia chơi cùng với trẻ để dần dần trẻ có thói quen trong vui chơi và
hứng thú tham gia chơi mà không còn nghịch phá…
3.4. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
. Với đề tài nghiên cứu nầy có thể áp dụng rộng rãi với tất cả giáo viên
trong trường và trường bạn trong huyện và ngoài huyện. Do đó sáng kiến
kinh nghiệm nầy được ra đời đã giải quyết nhu cầu bức thiết của giáo viên


trong việc xây dựng nề nếp, tổ chức các hoạt động trong ngày của trẻ, tránh
được sự ồn ào, mất trật tự mang lại kết quả cao trong hoạt động.
. Nội dung được xây dựng ở tất cả các hoạt động, trong các chủ đề,
đồng thời không ngừng nghiên cứu để tìm ra những biện pháp mới nhất để
việc xây dựng nề nếp của lớp bán trú ngày một tốt hơn.
3.5. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng
kiến lần đầu:
Qua thời gian nghiên cứu tôi thấy 100% trẻ của lớp lá 1 có nề nếp tốt

trong các hoạt động hằng ngày của trẻ: Nếp học, vui chơi, vệ sinh, ăn ngủ
của trẻ tại trường…
Việc trẻ có nề nếp tốt đã mang lại hiệu quả cao trong việc chăm sóc
giáo dục trẻ là kết quả đáng mừng mà tôi hằng mong đợi.
Cháu mạnh dạn, tự tin khi tham gia vào các hoạt động tập thể.
Từ các biện pháp đã đề ra như trên, tôi luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ
đã đạt được những kết quả như sau:
TT
1
2
3
4
5

Nội dung
Nếp học
Nếp chơi
Nếp ăn
Nếp ngủ
Vệ sinh tự phục vụ

Nếp học tiết âm nhạc

Sĩ số
40

Đầu năm
24/40 (60%)
23/40 (57,5%)
20/40 (50)

22/40 (55%)
28/40 (70%)

Cuối năm
40/40 (100%)
40/40 (100%)
39/40 (97,5%)
38/40 (95%)
40/40 (100%)

Nếp chơi hoạt động góc

PC


Tham quan ngã tư đường phố

Hoạt động ngoài trời

Nếp ăn

Nếp chơi dân gian ngoài trời

Nếp đánh răng sau khi ăn

- Việc đưa nội dung xây dựng tốt nề nếp lớp bán trú cho trẻ mẫu giáo
nói chung và lớp lá nói riêng: 100% trẻ đều có ý thức tự giác trong mọi hoạt
động hằng ngày của trẻ.
- Phụ huynh lớp lá 1 ngày càng an tâm hơn khi gởi con vào học lớp bán
trú.

- Việc kết hợp chặt chẽ với phụ huynh đã đóng góp nhiều vào việc phối
hợp chăm sóc giáo dục trẻ đạt hiệu quả
- Đây là điều kiện để cháu có nề nếp tốt khi lên học ở các bậc học tiếp
theo.
3.6. Danh sách những người đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu
có)


Số
TT

Họ và tên

1

Phạm Thị Vân

Ngày
Nơi công Chức
tháng năm tác
danh
sinh
10/07/1965 Trường
Giáo viên

Trình độ
chuyên
môn
Đại học


MNLQ

Nội dung
công việc
hỗ trợ
Nghiên
cứu, khảo
sát,

thử

nghiệm,

2

3

Nguyễn

Thị 15/1/1972

Trường

Hiệu

Nhung

MNLQ

trưởng


Lê Thị Phương 10/4/1970

Trường

P.

Uyên

MNLQ

trưởng

Cao đẳng

viết

sáng

kiến
Đọc

bài

SK, đóng
góp ý kiến
Đọc
bài

Hiệu

Cao đẳng

SK, đóng
góp ý kiến

3.7. Những thông tin cần được bảo mật: Không
3.8. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Các thành viên tham
gia sáng kiến đều có trình độ chuyên môn trên chuẩn, có khả năng sưu tầm
tài liệu có liên quan, phối hợp các thành viên tham gia sáng kiến để viết nên
sáng kiến, đồng thời cần sử dụng các dụng cụ cần thiết như: máy vi tính, ảnh
chụp, giấy…và có sự phối hợp giũa cô và trẻ, phụ huynh…
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự
thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Lương Quới, ngày 20 tháng 4 năm 2013
Người nộp đơn
Phạm Thị Vân
Nguyễn Thị Nhung
Lê Thị Phương Uyên


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập –Tự do –Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số (do hội Thường trực HĐ ghi):……………………………………
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp xây dựng tốt nề nếp lớp bán trú.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục mầm non.
3. Mô tả bản chất của sáng kiến:
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết:
Ở mầm non việc rèn nề nếp cho cho các cháu là hết sức quan trọng
trong việc hình thành, phát triển toàn diện nhân cách của cháu. Là yếu tố



quyết định trực tiếp đến chất lượng chăm sóc và giáo dục. Nhưng cần thiết
nhất là lớp bán trú. Yêu cầu của lớp bán trú là mỗi trẻ đều được học tập, vui
chơi, ăn ngủ, vệ sinh tại trường nên đòi hỏi trẻ phải được thực hiện theo
những quy định chung của lớp về các hoạt động, vì vậy đòi hỏi trẻ phải có ý
thức khi tham gia vào các hoạt động, nhất là khâu chăm sóc, trẻ phải có khả
năng tự phục vụ cao…Nhưng đa số trẻ thì chưa có được điều đó và kinh
nghiệm của giáo viên trong việc chăm sóc giáo dục trẻ bán trú chưa nhiều,
ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng nề nếp của trẻ. Do vậy nếu xây
dựng nề nếp tốt sẽ giúp chúng tôi hoàn thành tốt công tác chăm sóc và giáo
dục trẻ đạt hiệu quả cao. Từ những băn khoăn đó, tôi thấy rằng là một giáo
viên chủ nhiệm lớp việc đổi mới quản lý chăm sóc giáo dục trẻ là điều kiện
hết sức cần thiết. Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp xây
dựng tốt nề nếp lớp bán trú cho trẻ 5-6 tuổi” để góp phần nâng cao chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường.
* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường.
- Các giáo viên trong tổ đoàn kết giúp đỡ nhau.
- Đa số phụ huynh quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ.
- Cả 2 giáo viên trong lớp đều có trách nhiệm cao trong công việc.
- Trường đang xây dựng trường nâng chuẩn Quốc Gia và phổ cập trẻ 5
tuổi nên lớp được trang bị về điều kiện cơ sở vật chất tương đối đầy đủ,
phòng học khang trang, đảm bảo tốt cho các hoạt động học tập, vui chơi, ăn,
ngủ, vệ sinh cho trẻ…
- Thời gian trẻ ở trường khá nhiều, có điều kiện tốt cho việc rèn nề nếp
thói quen của trẻ.
* Khó khăn:
- Số trẻ trong lớp khá đông nên ảnh hưởng đến các hoạt động của trẻ.
- Giáo viên dù qua hai năm thực hiện quản lý lớp bán trú nhưng chưa có

nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, kết quả đạt được của
các năm qua chưa theo mong muốn.


- Tuy vào học lớp 5-6 tuổi nhưng vẫn còn trẻ chưa qua các lớp 4-5 tuổi
nên còn bỡ ngỡ, xa lạ, có cháu thì mới chuyển từ lớp một buổi sang, nên
chưa quen với cách sinh hoạt tập thể như: Còn rụt rè ngần ngại khi ăn uống,
chưa quen với thức ăn, chỗ ngủ ở trường, một số trẻ chưa biết tự thay quần
áo hoặc trải nệm gối vào chỗ của mình.
- Một số trẻ do ba mẹ đi làm xa, trẻ sống với ông bà được cưng chìu nên
đa số trẻ hay nghịch.
- Lớp có nhiều cháu cá biệt, năng động nên ảnh hưởng đến nề nếp của
lớp.
- Một số phụ huynh chưa quan tâm nhiều, do bận làm ăn kinh tế ít đế ý
đến con, chưa phối hớp tốt với giáo viên chủ nhiệm chăm sóc và uốn nắn trẻ.
Từ những khó khăn trên tôi mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp xây dựng
tốt nề nếp lớp bán trú cho trẻ 5-6 tuổi”
* Phương pháp tiến hành:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp khảo sát, thử nghiệm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
3.2. Nội dung của giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
3.2.1. Mục đích của giải pháp:
Xây dựng tốt nề nếp lớp bán trú nhằm giúp cho trẻ có ý thức trong mọi
hoạt động, có khả năng tự phục vụ, rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu giúp
trẻ phát triển tốt về thể chất, tình cảm, thẩm mỹ… và những yếu tố đầu tiên
cho việc hình thành nhân cách trẻ, chuẩn bị cho trẻ bước vào lớp một trường
tiểu học.
Giúp giáo viên có điều kiện chăm sóc giáo dục cháu tốt hơn, cũng như

có nhiều kinh nghiệm góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ
trong nhà trường.
3.2.2. Nội dung giải pháp:
a. Tính mới của giải pháp:


- Giáo viên nắm vững về kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ lớp bán trú.
- Phụ huynh ngày càng tin tưởng sự chăm sóc giáo dục trẻ nên đã thu hút
đông đảo trẻ học bán trú, hoàn thành tốt việc phổ cập trẻ 5 tuổi.
- Trẻ ngoan và năng động sáng tạo hơn trong mọi hoạt động học tập và
vui chơi, ăn, ngủ, vệ sinh…
b. Cách thức thực hiện, các bước thực hiện cụ thể của giải pháp mới:
b.1. Xây dựng kế hoạch:
Giáo viên xây dựng kế hoạch theo từng chủ đề, theo tuần, ngày về các
mặt chăm sóc giáo dục như nếp học, nếp ăn, nếp ngủ, vui chơi, vệ sinh… để
giáo viên dựa vào đó mà thực hiện.
b.2. Học tập và rèn luyện:
- Bản thân tôi luôn học tập nâng cao trình độ, sưu tầm tài liệu, nghiên
cứu sâu chuyên môn qua tạp chí, báo đài, tài liệu hướng dẫn thực hiện
chương trình Mầm non mới, tham gia các đợt tập huấn chuyên môn của
ngành về giáo dục kỹ năng sống vào đầu học kỳ II, học hỏi trao đổi kinh
nghiệm với đồng nghiệp qua hội giảng cụm, thao giảng trường, để thực hiện
tốt nhiệm vụ chăm sóc giáo dục.
- Phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nhà giáo, luôn gương
mẫu trước trẻ để trẻ noi theo.
b.3. Chăm sóc giáo dục:
* Chăm sóc:
- Rèn cho trẻ biết thực hiện các chế độ sinh hoạt: chơi, ăn, ngủ, vệ
sinh… tại trường, số lượng thời gian cho từng hoạt động và thực hiện theo
một trình tự sắp xếp theo chế độ sinh hoạt của trẻ, thực hiện chuyển từ hoạt

động nầy sang hoạt động khác nhanh nhẹn nhằm hình thành cho trẻ thói
quen, tính tổ chức kỷ luật cao.
- Rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ là cô không làm thay trẻ mà hướng dẫn
trẻ làm, qua việc cô làm mẫu hoặc tuyên dương những bạn thực hiện được
nhằm khuyến khích trẻ thực hiện…


Ví dụ: Trẻ tự thay và gấp quần áo, biết tự lấy nệm trải vào nơi mình ngủ
và biết tự lấy gối, biết rửa tay trước và sau khi ăn, sau khi đi vệ sinh để đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng chống dịch bệnh, biết cất bát đĩa
sau khi ăn xong, biết đánh răng sau khi ăn để bảo vệ răng miệng…
- Giờ ăn cô giới thiệu các món ăn nhanh chóng, áp dụng giáo dục dinh
dưỡng cho trẻ, tránh để cho trẻ chờ đợi quá lâu. Khen ngợi động viên nhắc
nhở trẻ ăn nhanh không ngậm, không rơi vãi, không nói chuyện, ăn hết suất,
biết mời cô và các bạn…
- Đối với trẻ suy dinh dưỡng cô khuyến khích trẻ ăn hết suất, ăn đủ chất,
uống thêm sữa, ăn yauort sau bữa ăn, ngủ đủ giấc, và theo dõi bằng biểu đồ,
thực hiện cân đo trẻ hằng tháng…Trẻ béo phì được tham gia vận động, cô
cho cháu chạy bộ sau giờ tập thể dục sáng, giáo dục trẻ ăn nhiều thực phẩm
giàu vitamin.
Ví dụ: Giờ ăn xế nếu ngày nào uống sửa, hoặc ăn chè thì cô báo cho cấp
dưỡng thay bằng trái cây. Như vậy cứ tạo cho trẻ trở thành thói quen khi gặp
trường hợp như thế trẻ tự biết lấy thức ăn cho mình mà không đợi cô nhắc.
* Giáo dục:
- Đối với trẻ chưa có thói quen trong học tập còn nhút nhát cô không
chê trách mà luôn khéo léo động viên trẻ tạo cơ hội cho trẻ được phát biểu,
tôn trọng ý kiến của trẻ giúp trẻ tự tin và tham gia vào các hoạt động ở lớp.
- Đối với trẻ năng động nghịch phá cô quan tâm đặc biệt hơn trong giờ
học, gọi trẻ phát biểu, để trẻ không nói chuyện hoặc làm việc riêng ảnh
hưởng đến bạn khác. Ngoài ra cô cũng thường giao việc cho trẻ giúp cô để

cô dễ quản lý trẻ, từ đó trẻ cảm thấy thích thú và sẽ không có cảm giác bị bỏ
rơi.
- Ở lớp cô luôn đề ra những quy định chung: Về giờ giấc đến lớp, sinh
hoạt ăn, ngủ, học tập vui chơi, lao động tự phục vụ, nhằm tạo tính kỷ luật,
tính tập thể cho trẻ.


- Chú trọng rèn cho trẻ một số thói quen tốt như: Khi khách đến lớp phải
biết đứng dậy chào, nhận hoặc đưa đồ vật bằng hai tay, muốn phát biểu phải
giơ tay, trả lời tròn câu...
- Cô chia tổ, có tổ trưởng kiểm tra vệ sinh mỗi sáng, thực hiện trực
nhật… đưa trẻ vào nề nếp.
- Dạy trẻ thói quen thực hiện hiệu lệnh: Xếp hàng, tập hợp, lấy và cất đồ
dùng, đồ chơi…nhằm rèn trẻ nhanh nhẹn khẩn trương trong sinh hoạt học
tập, vui chơi.
- Cho trẻ xem tranh “Việc làm đúng sai”, kể chuyện “Vì sao thỏ cụt
đuôi”, hát và vận động “Vì sao mèo rửa mặt, Thật đáng chê…”, đọc thơ “Cái
bát xinh xinh” qua đồng dao “Đèn giao thông” có nội dung mang tính giáo
dục cao: Ý thức giữ vệ sinh bảo vệ môi trường, giáo dục an toàn giao thông
biết yêu quý sản phẩm làm ra… nhằm hình thành nhân cách cho trẻ.
- Đưa ra tiêu chuẩn bé ngoan để khuyến khích trẻ thực hiện tốt các hoạt
động trong ngày.
- Cô thường xuyên sử dụng biện pháp tuyên dương nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo giúp trẻ tự tin và dạn dĩ hơn.
- Cô tận dụng thời gian ở trường cùng trẻ làm đồ dùng đồ chơi bằng
nguyên vật liệu tự nhiên, nhằm tạo những loại đồ chơi phong phú, giúp trẻ
khéo léo hơn, sáng tạo hơn.
- Cho trẻ chơi dân gian “Chi chi chành chành, nu na nu nống” cho trẻ
chơi cùng nhau, đọc ca dao “Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”

Đọc đồng dao “ Đi chơi phố, đèn giao thông”… cho trẻ chuyển đội
hình, tạo cho trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào hoạt động, hò vè cho trẻ
chú ý lắng nghe và đáp lại.
Thí dụ: Cô: Nghe vẻ nghe ve nghe vè cô đố
Quả gì không phải để ăn
Mà dùng để đá để lăn để chuyền
Đó là quả gì, quả gì cái mà quả gì?


Trẻ: Nghe vẻ nghe ve nghe vè con đáp
Quả gì không phải để ăn
Mà dùng để đá, để lăn để chuyền
Đó là quả bóng, quả bóng cái mà quả bóng.
- Cô giáo dục trẻ khi chơi với đồ chơi ngoài trời không được giành đồ
chơi, xô đẩy nhau, nếu ai vi phạm tức là vi phạm tiêu chuẩn bé ngoan và
không được cắm cờ ngày hôm đó. Dần dần trở thành thói quen và không để
vi phạm.
b.4. Công tác phối hợp với phụ huynh:
- Giáo viên phối hợp với phụ huynh thông qua nhiều hình thức: Trao
đổi qua giờ đón, trả trẻ, qua bảng tuyên truyền của lớp theo tuần, theo chủ
đề, thực hiện số bé ngoan hằng tuần, xây dựng trọng tâm hằng tháng để phụ
huynh cùng rèn nề nếp với giáo viên chủ nhiệm, tổ chức đại hội phụ huynh 3
lần/năm, nhằm báo cáo tình hình học tập, tình trạng sức khỏe của cháu, bồi
dưỡng những trẻ có năng khiếu đặc biệt như năng khiếu vẽ để cháu tham gia
thi vẽ tranh do nhà trường phát động. Trong họp phụ huynh, cô trao đổi thu
thập thông tin về trẻ: Trẻ ít chơi, trẻ không hòa đồng…khó khăn của trẻ
trong việc thực hiện các yêu cầu của cô, chế độ ăn uống nâng cao sức khỏe
phòng chống suy dinh dưỡng, béo phì.
- Việc phối hợp với gia đình và giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục
trẻ là rất cần thiết, tạo sự thống nhất giữa gia đình và giáo viên chủ nhiệm,

mặt khác giúp cho giáo viên phát huy được thế mạnh của gia đình trong
công tác chăm sóc giáo dục trẻ như đóng góp dụng cụ học tập: Chì đen, chì
màu, đất nặn, bảng, que tính, hồ, kéo…Ngoài ra còn hỗ trợ việc chăm sóc
như dép cho cháu ra nhà ăn không bị té, kem, bàn chải cho cháu đánh răng
sau khi ăn, gối, nệm cho cháu ngủ…
- Thực tế cho thấy, nếu gia đình và nhà trường có sự phối hợp chặt chẽ
với nhau thì trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ sẽ tạo điều kiện thuận lợi
và có hiệu quả. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ với phụ huynh mà giáo viên biết


được tính cách riêng của trẻ, từ đó có biện pháp uốn nắn kịp thời nhanh
chóng đưa trẻ vào nề nếp.
* Thí dụ: Trong giờ học cháu Sang, Tài… ngồi chưa đúng tư thế khi
ngồi tô chữ cái hay cúi đầu xuống bàn hoặc ngã về một bên. Cô trao đổi với
phụ huynh giờ trả trẻ để về nhà phụ huynh thường xuyên chú ý nhắc nhỡ
cháu ngồi đúng tư thế lúc ngồi ăn, ngồi học…
. Cháu Tuấn Anh còn thụ động chưa tham gia vào các hoạt động của
lớp, cháu cầm viết chưa đúng,, chưa có kỹ năng tô màu… Cô trao đổi với
phụ huynh để nắm được tình hình học tập ở lớp để tiếp tục giúp đỡ cho trẻ
thực hiện ở nhà.
. Cháu lấy cất đồ dùng đồ chơi không đúng nơi quy định, nghịch phá
đồ dùng của bạn… như cháu Tú, Nhật Ánh… Giao1 viên tập cho cháu biết
lấy và cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định, đồng thời kết hợp với phụ
huynh tập cho cháu các thói quen : Cất đồ dùng ở nhà đúng nơi quy định,
không làm thay trẻ, tập cho trẻ tính tự lập, biết sắp xếp gọn gàng cẩn thận
mọi thứ của trẻ…
- Còn một số phụ huynh còn xem thường giờ giấc vào học, việc cháu đi
học không đúng giờ đã ảnh hưởng đến nề nếp lớp như cháu Tuyết Vy,
Khoa…Cô trao đổi với phụ huynh đưa cháu đi học đúng giờ, như vậy cháu
mới theo kịp các hoạt động của lớp, không ảnh hưởng đến việc chấm ăn…

- Cháu Tuấn Anh ít nói, cháu Ân không tham gia chơi, ngồi riêng lẻ một
mình, qua phụ huynh cô biết là cháu do hoàn cảnh cha mẹ lo làm ăn kinh tế
ít quan tâm đến trẻ không tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với mọi người xung
quanh. Từ đó cô gần giũ với cháu hơn, lúc đầu khi chơi các trò chơi tập thể
cô đứng cạnh cháu tập cháu quen dần.
b.5. Trong các giờ học:
- Ngay từ đầu năm, cô tập cho cháu quen dần hiệu lệnh của cô như giờ
thể dục: Lắc trống là so hàng, gõ 1 cái là bỏ tay xuống, 2 cái là quay sang
trái hoặc sang phải…


- Khi chuyển tiếp các hoạt động cô đều cho cháu đọc ca dao hoặc đồng
dao để di chuyển đôi hình, có như thế thì trẻ mới không xô đẩy nhau và
không nói chuyện riêng làm mất trật tự. Thí dụ chủ đề “Phương tiện giao
thông” cho cháu đọc đồng dao “Đi chơi phố” đến xem trình chiếu, hoặc bài
“Đèn giao thông” chuyển nhóm bạn trai bạn gái. Chủ đề “Thực vật” đọc
đồng dao “Na Non…thơm phức”.
. Ngoài ra cô còn sáng tác các câu đồng dao như:
“Nầy các bạn ơi chúng ta cùng xếp
Xếp vòng tròn to giống chữ cái o” để cháu vừa đọc vừa chuyển đội
hình vòng tròn.
. Hoặc “Cô là bóng to, bé là bóng nhỏ
To nhỏ cùng lăn, lăn nhanh đi nào” để cháu chuyển đôi hình
về 3 tổ.
- Trong giờ học vẽ, tập tô chữ cái, chữ số cháu biết giúp cô khiêng bàn
ghế nhẹ nhàng, sắp xếp ngay ngắn, đây là thói quen cô tập cháu ngay từ đầu
năm, nên giờ học có sử dụng bàn ghế lớp học rất im lặng và không có tiếng
ồn vì cô đã giáo dục cháu tiếng ồn sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường, ảnh
hưởng đến sức khỏe…
- Trong các giờ học còn một số cháu chưa tích cực tham gia phát biểu ý

kiến, còn thụ động, một số cháu chưa theo hiệu lệnh trống lệnh của cô, thích
làm theo ý của mình như cháu Khoa, Ân, Tài…cô thường xuyên gọi cháu
phát biểu hay nhắc lại ý kiến của bạn, cô động viên khuyến khích cháu kịp
thời, khi cháu có tiến bộ dù nhỏ cô cũng khen ngợi tạo sự hứng thú cho
cháu, từ đó cháu học tích cực hơn.
- Trong giờ hoạt động góc, cháu chưa biết tự nguyện tham gia vào góc
chơi chưa thể hiện đúng vai chơi, hay phá đồ chơi các góc, ở góc thiên nhiên
cháu chơi không gọn gàng, hay làm đổ cát, nước, góc nghệ thuật cháu chưa
tự tin khi tham gia biểu diễn văn nghệ, chơi chưa hết thời gian. Với những lý
do đó đòi hỏi cô bao quát nắm được đặc điểm của trẻ để gần gũi, tham gia


chơi cùng với trẻ để dần dần trẻ có thói quen trong vui chơi và hứng thú
tham gia chơi mà không còn nghịch phá…
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp:
- Với đề tài nghiên cứu nầy có thể áp dụng rộng rãi với tất cả giáo viên
trong trường và trường bạn trong huyện và ngoài huyện. Do đó sáng kiến
kinh nghiệm nầy được ra đời đã giải quyết nhu cầu bức thiết của giáo viên
trong việc xây dựng nề nếp, tổ chức các hoạt động trong ngày của trẻ, tránh
được sự ồn ào, mất trật tự mang lại kết quả cao trong hoạt động.
- Nội dung được xây dựng ở tất cả các hoạt động, trong các chủ đề,
đồng thời không ngừng nghiên cứu để tìm ra những biện pháp mới nhất để
việc xây dựng nề nếp của lớp bán trú ngày một tốt hơn.
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng giải pháp:
Qua thời gian nghiên cứu tôi thấy 100% trẻ của lớp lá 1 có nề nếp tốt
trong các hoạt động hằng ngày của trẻ: Nếp học, vui chơi, vệ sinh, ăn ngủ
của trẻ tại trường…
Việc trẻ có nề nếp tốt đã mang lại hiệu quả cao trong việc chăm sóc
giáo dục trẻ là kết quả đáng mừng mà tôi hằng mong đợi.

Cháu mạnh dạn, tự tin khi tham gia vào các hoạt động. Trẻ có được kỹ
năng sống.
Từ các biện pháp đã đề ra như trên, tôi luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ
đã đạt được những kết quả như sau:
TT
1
2
3
4
5

Nội dung
Nếp học
Nếp chơi
Nếp ăn
Nếp ngủ
Vệ sinh tự phục vụ

Sĩ số
40

Đầu năm
24/40 (60%)
23/40 (57,5%)
20/40 (50)
22/40 (55%)
28/40 (70%)

Cuối năm
40/40 (100%)

40/40 (100%)
39/40 (97,5%)
38/40 (95%)
40/40 (100%)

PC


Nếp học tiết âm nhạc

Nếp chơi hoạt động góc
Tham quan ngã tư đường phố


Hoạt động ngoài trời

Nếp ăn

Nếp chơi dân gian ngoài trời

Nếp đánh răng sau khi ăn

- Việc đưa nội dung xây dựng tốt nề nếp lớp bán trú cho trẻ mẫu giáo
nói chung và lớp lá nói riêng: 100% trẻ đều có ý thức tự giác trong mọi hoạt
động hằng ngày của trẻ.
- Phụ huynh lớp lá 1 ngày càng an tâm hơn khi gởi con vào học lớp bán
trú.
- Việc kết hợp chặt chẽ với phụ huynh đã đóng góp nhiều vào việc phối
hợp chăm sóc giáo dục trẻ đạt hiệu quả
- Đây là điều kiện để cháu có nề nếp tốt khi lên học ở các bậc học tiếp

theo.
3.5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu


Số
TT

Họ và tên

1

Phạm Thị Vân

Ngày
Nơi công Chức
tháng năm tác
danh
sinh
10/07/1965 Trường
Giáo viên

Trình độ
chuyên
môn
Đại học

MNLQ

Nội dung
công việc

hỗ trợ
Nghiên
cứu, khảo
sát,

thử

nghiệm,

2

3

Nguyễn

Thị 15/1/1972

Trường

Hiệu

Nhung

MNLQ

trưởng

Lê Thị Phương 10/4/1970

Trường


P.

Uyên

MNLQ

trưởng

Cao đẳng

viết

sáng

kiến
Đọc

bài

SK, đóng
góp ý kiến
Đọc bài

Hiệu
Cao đẳng

SK, đóng
góp ý kiến


3.6. Những thông tin cần được bảo mật: Không
3.7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Các thành viên tham
gia sáng kiến đều có trình độ chuyên môn trên chuẩn, có khả năng sưu tầm
tài liệu có liên quan, phối hợp các thành viên tham gia sáng kiến để viết nên
sáng kiến, đồng thời cần sử dụng các dụng cụ cần thiết như: máy vi tính, ảnh
chụp, giấy…và có sự phối hợp giũa cô và trẻ, phụ huynh…
3.8. Tài liệu kèm theo gồm:
- Bản vẽ, sơ đồ: Không
- Bản tính toán: Không
- Các tài liệu khác: Không
Bến Tre, ngày 20 tháng 4 năm 2013


×