Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

TÌNH HÌNH, NHIỆM VỤ CỦA NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.86 KB, 127 trang )

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG CÁN BỘ QUẢN LÝ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

"TÌNH HÌNH, NHIỆM VỤ CỦA NGÀNH
VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH"
THUỘC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

(Tập bài giảng)

1


HÀ NỘI - 2016

BAN BIÊN SOẠN

1. ThS. TRẦN MINH CHÍNH

Trường Cán bộ quản lý VHTTDL

2. ThS.NGUYỄN QUANG HÙNG

Trường Cán bộ quản lý VHTTDL

3. PGS.TS. LÊ NGỌC THẮNG

Trường Cán bộ quản lý VHTTDL

4. PGS.TS NGUYỄN TOÀN THẮNG


Viện Văn hóa&Phát triển, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

5. PGS.TS. LƯƠNG HỒNG QUANG

Viện VHNT Quốc gia Việt Nam

6. PGS.TS. NGUYỄN QUỐC HÙNG

Viện VHNT Quốc gia Việt Nam

7. TS. LÊ ANH THƠ

Nguyên Phó Bí thư ĐU, Bộ VHTTDL

8. ThS. HOÀNG THỊ BÌNH

Trường Cán bộ quản lý VHTTDL

9. ThS. NGUYỄN THANH THỦY

Trường Cán bộ quản lý VHTTDL
2


10. ThS. PHẠM THU HÀ

Trường Cán bộ quản lý VHTTDL

11.ThS. TRẦN THỊ THANH TÂM


Trường Cán bộ quản lý VHTTDL

3


MỤC LỤC

Phần 1. CÁC BÀI GIẢNG
Bài 1

Khái lược quá trình xây dựng và phát triển ngành Văn
hóa, Thể thao và Du lịch

Bài 2

Nhiệm vụ cơ bản và những giải pháp chủ yếu của ngành
Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc thực hiện nhiệm
vụ chính trị

Trang

Phần 2. CÁC BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
Báo cáo CĐ 1

Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham gia vào quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Báo cáo CĐ 2


Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham gia xây dựng
hệ thống chính trị vững mạnh.

Báo cáo CĐ 3

Xây dựng, phát triển ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Việt Nam đáp ứng yêu cầu tình hình và nhiệm vụ mới.

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NQTƯ

Nghị quyết trung ương

BCHTU

Ban chấp hành trung ương

VHNT

Văn hóa nghệ thuật

Bộ VHTTDL

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

VHTTDL


Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Sở VHTTDL

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

UBND

Ủy ban nhân dân

QLNN

Quản lý nhà nước

TDTT

Thể dục thể thao

CHDCND

Cộng hòa dân chủ nhân dân

CLB

Câu lạc bộ

5


LỜI NÓI ĐẦU


Tập bài giảng “Tình hình, nhiệm vụ ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch”
thuộc chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính được biên
soạn trên cơ sở Hướng dẫn số 167/HD-HVCTQG ngày 06/11/2015 của Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tập bài giảng nhằm cung cấp kiến thức, thông
tin, dữ liệu về tình hình, nhiệm vụ ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch làm cơ
sở cho giảng viên nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy phần “Tình hình, nhiệm
vụ địa phương (hoặc ngành)” trong chương trình đạo tạo Trung cấp lý luận
chính trị - hành chính; đồng thời còn là nguồn tài liệu tham khảo giá trị cho học viên,
các cá nhân, đơn vị có nhu cầu. Tập bài giảng gồm có 2 bài và 3 báo cáo chuyên đề.
Để việc sử dụng Tập bài giảng hiệu quả, Ban biên soạn lưu ý các giảng viên, cá nhân,
đơn vị sử dụng tài liệu một số vấn đề sau:
1. Về các bài và báo cáo chuyên đề: Trong quá trình sử dụng, giảng viên
có thể lựa chọn nội dung trọng tâm của bài hoặc báo cáo chuyên đề để phân
tích sâu, chú ý bổ sung, cập nhật thông tin, kiến thức thực tiễn và văn bản quản
lý nhà nước mới được ban hành ở thời điểm giảng dạy.
2. Về phương pháp giảng dạy: Vận dụng phương pháp giảng dạy tích cực,
phát huy tính chủ động của học viên, chú trọng thực hành, thảo luận; sử dụng
công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng.
3. Trong quá trình sử dụng, nếu cần trao đổi nội dung các bài và báo cáo
chuyên đề, có thể liên hệ với Nhà trường để được tư vấn.
Trân trọng cám ơn!
BAN BIÊN SOẠN

6


Phần I
CÁC BÀI GIẢNG
Bài 1

KHÁI LƯỢC QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
1. Những dấu mốc và sự kiện quan trọng trong quá trình xây dựng và
phát triển Ngành
1.1. Giai đoạn 1945 - 1954
Năm 1943, trong bản Đề cương văn hóa, Đảng ta đã định hướng xây dựng
và phát triển nền văn hóa cách mạng theo 3 nguyên tắc: Dân tộc, Khoa học và
Đại chúng. Sau khi Nhà nước mới ra đời (1945), trong “Tuyên cáo về việc thành
lập Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” một trong những cơ quan
đầu tiên của chế độ mới ra đời ngày 28/8/1945 là Bộ Thông tin - Tuyên truyền
(tiền thân của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch hiện nay) do ông Trần Huy Liệu
làm Bộ trưởng1. Từ đó đến nay, ngày 28/8 trở thành ngày truyền thống của
ngành Văn hóa.
a) Lĩnh vực Văn hóa
Từ những ngày đầu, Chính phủ đã thành lập Bộ Tuyên truyền Cổ động do
đồng chí Trần Huy Liệu làm Bộ trưởng. Ngày 03/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký Sắc lệnh số 58/SL về thành lập Bộ Nội vụ. Tổ chức của Bộ Nội vụ có Nha
Thông tin Tuyên truyền với nhiệm vụ “Thu thập và truyền bá các tin tức trong
nước”2. Ngày 02/3/1946, Quốc hội Khóa 1 họp, thành lập Chính phủ Liên hiệp
chính thức thì Bộ Tuyên truyền và Cổ động không còn tồn tại. Ngày 13/5/1945,
Nha Tổng giám đốc Thông tin, Tuyên truyền mới được thành lập thuộc Bộ Nội
Vụ, đến ngày 27/11/1946 đổi thành Nha Thông tin. Các cơ quan trực thuộc có
Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam, thành lập ngày 07/9/1945.
Ngày 24/11/1946, khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất tại
Hà Nội, Hồ Chủ tịch chỉ rõ: Văn hóa phải hướng dẫn quốc dân thực hiện Độc
lập, Tự cường và Tự chủ. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ II họp vào
tháng 7/1948 và Hội nghị Cán bộ văn hóa lần thứ I vào tháng 2/1949, Hồ Chủ
tịch nêu khẩu hiệu:“Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”.
Với tầm nhìn về vai trò quan trọng của các lĩnh vực văn hóa trong kháng
chiến, ngày 17/11/1950, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 172/SL về việc thành

1Tuyên cáo ngày 28 tháng 8 năm 1945 về việc thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Công hòa trong
Việt Nam dân quốc Công báo, Số 1, 29 tháng 9 năm 1945.
2 Khoản III, Điều 1 của Sắc lệnh 58 ngày 3/5/1946 đã xác định Bộ Nội vụ còn có 5 Nha: Nha Công chức và Kế
toán, Nha Pháp chính, Nha Thông tin tuyên truyền, Việt Nam Công an vụ, Nha Dân tộc thiểu số . Mỗi Nha có
một Giám đốc quản trị.
7


lập Vụ Văn học Nghệ thuật thuộc Bộ Giáo dục quốc gia, bao gồm các lĩnh vực:
Văn, Sử, Địa, Triết học, Kinh tế học, Ngôn ngữ, Văn tự và các ngành Nghệ thuật
(Âm nhạc, Ca kịch, Hội họa, Kiến trúc). Ngày 10/7/1951, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra Sắc lệnh số 38/SL sáp nhập Nha Thông tin thuộc Bộ Nội vụ vào Thủ
tướng Phủ. Sắc lệnh số 83/SL hợp nhất Nha Thông tin thuộc Thủ tướng Phủ và
Vụ Văn học, nghệ thuật thuộc Bộ Giáo dục thành Nha Tuyên truyền và Văn nghệ
thuộc Thủ tướng Phủ do đồng chí Tố Hữu phụ trách. Cuộc kháng chiến chống
Pháp chín năm diễn ra ác liệt, song ở đâu có kháng chiến, ở đó có văn hóa kháng
chiến. Đây là một thành tựu lớn của văn học - nghệ thuật - thông tin - tuyên
truyền của ngành Văn hóa.
b) Lĩnh vực Thể dục, Thể thao
Chính phủ cách mạng và Hồ Chủ tịch đặc biệt chú trọng tới TDTT, coi
đây là vấn đề có ý nghĩa trước mắt và lâu dài trong sự nghiệp “kháng chiến, kiến
quốc”. Ngày 30/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 14 thiết lập Nha
Thể dục Trung ương thuộc Bộ Thanh niên, tiền thân của ngành TDTT ngày nay.
Ngày 27/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 33 thiết lập Nha Thanh
niên và Thể dục, gồm có Phòng Thanh niên Trung ương và Phòng Thể dục
Trung ương thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục. Ngày 27/3 trở thành ngày truyền
thống của ngành Thể dục, thể thao Việt Nam.
1.2. Giai đoạn 1954 - 1975
a) Lĩnh vực Văn hóa
Ở miền Bắc, Bộ Tuyên truyền được đổi tên là Bộ Văn hóa, do Giáo sư Hoàng

Minh Giám làm Bộ trưởng. Giai đoạn này, sự nghiệp văn hóa và thông tin được
phát triển toàn diện theo định hướng rõ ràng, đi sâu vào chuyên ngành hoạt
động, phát triển có bài bản về nội dung, đào tạo cán bộ và phương thức hoạt
động… Đây là thời kỳ phát triển cơ bản, toàn diện nhất, xây dựng cơ sở cho nền
văn hóa mới khắp các tỉnh, thành phố miền Bắc.
Ở miền Nam, sau khi chuyển quân, tập kết, lĩnh vực Văn hóa, Thông tin
thực tế không còn tồn tại. Mọi hoạt động phải chuyển vào bí mật, lấy tuyên
truyền miệng là phương thức hoạt động chính. Sau khi Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam ra đời ngày 20/12/1960 tại tỉnh Tây Ninh, ngành Văn hóa
Thông tin ở miền Nam được khôi phục. Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập ngày 06/6/1969, Bộ Thông tin - Văn
hóa ra đời, do ông Lưu Hữu Phước làm Bộ trưởng. Ngành Thông tin - Văn hóa
miền Nam đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước.
b) Lĩnh vực Thể dục, Thể thao
Ban Thể dục, Thể thao Trung ương thành lập năm 1957, đến năm 1960
đổi thành Ủy ban Thể dục, Thể thao.
c) Lĩnh vực Du lịch
8


Ngày 09/7/1960, Chính phủ đã cho thành lập Công ty Du lịch Việt Nam (tiền
thân của Tổng cục Du lịch) trực thuộc Bộ Ngoại thương theo Nghị định số
26/CP. Ngày 16/3/1963 Bộ Ngoại Thương ban hành Quyết định số164-BNTTCCB quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Công ty Du lịch Việt Nam.
Đến năm 1969, chuyển giao Công ty Du lịch Việt Nam sang Phủ Thủ tướng
quản lý (Nghị định 145-CP ngày 18/8/1969 của Hội đồng Chính phủ). Ngày 9/7
hàng năm là ngày truyền thống của ngành Du lịch Việt Nam.
1.3. Giai đoạn sau 1975 đến 1985
a) Lĩnh vực Văn hóa
Sau ngày 30/4/1975, ngành Văn hóa đã triển khai nhiều nhiệm vụ theo
yêu cầu mới của đất nước. Ở miền Bắc, chủ trương vừa khôi phục, vừa xây dựng

đã cổ vũ cán bộ toàn ngành khẩn trương khôi phục sản xuất, xây dựng chương
trình, tiết mục, đào tạo cán bộ và tổ chức hoạt động. Tháng 6/1976, nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập. Chính phủ tổ chức Bộ Văn hóa
do Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu làm Bộ trưởng. Năm 1977, Ủy ban Phát thanh và
Truyền hình Việt Nam ra đời…Tổng cục Thông tin hợp nhất với Bộ Văn hóa
thành Bộ Văn hóa và Thông tin theo Quyết định số 99 NQ/QHK6 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội khóa VI. Đến ngày 04/7/1981 đổi lại là Bộ Văn hóa theo
Nghị quyết kỳ họp thứ I Quốc hội khóa VII.
Ở miền Nam, Bộ đã tổ chức Hội nghị Văn hóa miền Nam vào tháng
10/1976 để phân tích tình hình, xác định mục tiêu, phương hướng công tác. Bộ
đã điều động hơn một nghìn cán bộ và biệt phái khoảng ba trăm cán bộ từ 6
tháng đến 2 năm cho các tỉnh miền Nam. Các tỉnh miền Nam đã san sẻ cán bộ
cho các huyện thành lập Phòng Văn hóa. Hoạt động văn hóa và thông tin được
tăng cường. Các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật như: Điện ảnh, Sân khấu, Ca múa
nhạc, Thư viện, Bảo tồn bảo tàng, hệ thống Thiết chế văn hóa, Nhà sáng tác,
Bảo hộ quyền tác giả, Hợp tác quốc tế cũng như lĩnh vực TDTT, Du lịch… được
đầu tư xây dựng.
Có thể nói thời kỳ 1975 - 1985, ngành Văn hóa - Thông tin chuyển từ
chiến tranh sang hòa bình, tuy mấy năm đầu có lúng túng, bị động, khó khăn,
nhưng đã vượt qua thử thách và phát triển toàn diện với một chất lượng mới trên
phạm vi cả nước.
b) Lĩnh vực Thể dục, Thể thao
Phát triển các phong trào thể dục, thể thao quần chúng, đặc biệt đẩy mạnh cuộc
vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
c) Lĩnh vực Du lịch
Thành lập Tổng cục Du lịch trực thuộc Hội đồng Chính phủ theo Quyết
nghị 262 NQ/QHK6 ngày 27/6/1978 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Ngày 23/01/1979, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 32/CP quy định
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch.
9



1.4. Giai đoạn từ 1986 đến nay
a) Lĩnh vực Văn hóa
Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) là cột mốc của công cuộc đổi mới,
đáp ứng yêu cầu bức thiết của đất nước. Những năm 1986 - 1995 là một giai
đoạn đón lấy thời cơ và đương đầu với những thử thách mới: Công tác nghiên
cứu lý luận về văn hóa và quản lý nhà nước về văn hóa được đầu tư sát hợp với
tình hình mới của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần
định hướng cho việc ra đời các Nghị quyết quan trọng về xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Các lĩnh vực hoạt động như: Báo
chí, Phát thanh và Truyền hình, Xuất bản, Thư viện, Văn hóa nghệ thuật (Sân
khấu, Điện ảnh, Mỹ thuật..), Văn hóa quần chúng, Di sản… được Bộ VHTTDL
quan tâm chỉ đạo kết hợp với sự nỗ lực của cán bộ toàn ngành đã vượt qua lúng
túng ban đầu để đạt được các mục tiêu nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho Ngành.
Công tác xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa, lễ hội, được quan tâm
chỉ đạo xuyên suốt từ cấp Trung ương xuống đến địa phương tạo nên nét mới
trong đời sống văn hóa sau năm 1986. Các cuộc thi như: thi Hoa hậu, thi Người đẹp
thời trang cũng là một nét mới trong đời sống xã hội hướng tới thẩm mỹ lành mạnh.
Quan hệ quốc tế về văn hóa sau những diễn biến phức tạp ở Đông Âu và Liên Xô cũ,
quan hệ với nước ngoài bước sang trang mới với chính sách mới của Đảng và Nhà
nước ta.
Về tài chính: Chỉ thị số 321-CP ngày 17/11/1989 của Chính phủ đã xác
định đi đôi với việc gia tăng đầu tư ngân sách thì khuyến khích các đơn vị văn
hóa, nghệ thuật tìm và mở rộng nguồn thu, song phải đảm bảo chất lượng phục
vụ. Tháng 10/1993, lần đầu tiên Quốc hội, Chính phủ đã thông qua tỷ lệ chi
ngân sách toàn Ngành; giao cho Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin chịu trách
nhiệm quản lý ngân sách toàn ngành từ Trung ương đến Huyện.
Mạng lưới các trường Văn hóa nghệ thuật trực thuộc Bộ trong toàn quốc
được ra đời. Trung ương, các tỉnh, thành quan tâm củng cố đội ngũ giảng viên,

tăng cường cơ sở vật chất để không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.
Trước yêu cầu mới, Bộ Thông tin được lập lại trên cơ sở giải thể Ủy ban
Phát thanh và Truyền hình và tách các bộ phận Quản lý xuất bản, Báo chí,
Thông tin, Cổ động, Triển lãm của Bộ Văn hóa theo Quyết định số 34 của Bộ
Chính trị và Thông cáo ngày 16/2/1986 của Hội đồng Nhà nước. Đồng chí Trần
Hoàn làm Bộ trưởng Bộ Thông tin. Đồng chí Trần Văn Phác làm Bộ trưởng Bộ
Văn hóa.
Ba năm sau (1987 - 1990), một tổ chức mới được hình thành, hợp nhất cả
bốn cơ quan: Bộ Văn hóa, Bộ Thông tin, Tổng cục Thể dục thể thao, Tổng cục
Du lịch thành Bộ Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch theo Nghị định số
241-NĐ/HĐND ngày 31/3/1990 do đồng chí Trần Hoàn làm Bộ trưởng.
10


Năm 1993, Bộ Văn hóa - Thông tin trở lại như trước đây, với chức năng
nhiệm vụ như Nghị định số 81-CP ngày 08/4/1994 của Chính phủ quy định. Bộ
Thông tin có thời gian tồn tại ngắn (3 năm), nhưng cũng đã thực hiện được các
nhiệm vụ có tính nền tảng tạo đà cho sự nghiệp phát triển hiện nay về các lĩnh
vực: Phát thanh - Truyền hình, Báo chí Xuất bản, Thông tin Cổ động, Triển lãm
Kinh tế - Kỹ thuật và Hội chợ - Triển lãm.
Năm 1998, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc” đã mở ra một thời kỳ mới cho sự nghiệp văn hóa Việt
Nam. Bám sát 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 giải pháp chủ
yếu để tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ mới, toàn Ngành đã
phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, tiếp tục khẳng định những thành tựu mới.
Năm 2000 chuyển giao Thiên niên kỷ đã đánh dấu bước phát triển vượt
bậc của ngành Văn hóa - Thông tin. Nhiều hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn
của Đảng và dân tộc được tổ chức, bộ mặt văn hóa nước nhà khởi sắc, chuyển
biến tích cực theo hướng mà Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đề ra. Từ

năm 2006, ngành Văn hóa - Thông tin chủ động triển khai thực hiện Nghị quyết
Đại hội X của Đảng, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (khóa
VIII), Kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) về xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo đảm “sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa nền tảng tinh thần của xã hội”, đặc biệt là sự ra đời của Nghị quyết số 33NQ/TW, ngày 09/6/2014 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước".
b) Lĩnh vực Thể dục, Thể thao:
Năm 2000, thể thao tiếp tục con đường hội nhập quốc tế, tham dự
Olympic mùa hè lần thứ 27 tại Sydney. Năm 2002, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 57/2002/QĐ-TTg ngày 26/4/2002 phê duyệt quy hoạch phát
triển ngành Thể dục, thể thao đến năm 2010.
c) Lĩnh vực Du lịch:
Ngày 15/8/1987, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 120-HĐBT quy
định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch. Nghị quyết Kỳ
họp thứ 9, Quốc hội khóa 8 ngày 12/8/1991 sáp nhập Tổng cục Du lịch vào Bộ
Thương mại và Du lịch. Ngày 26/10/1992, Chính phủ ra Nghị định số 05-CP
thành lập Tổng cục Du lịch là cơ quan thuộc Chính phủ.
Ngày 31/7/2007, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được thành lập, thực hiện
chức năng, nhiệm vụ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực (Nghị quyết số
01/2007/QH12) trên cơ sở sáp nhập Tổng cục Du lịch, Ủy ban Thể dục thể thao,
phần quản lý nhà nước về gia đình từ Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em.
11


Từ năm 2009 đến nay, toàn ngành tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, thể thao và
du lịch nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn và các hoạt động của Chương trình kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long, Hà Nội. Hoàn thành việc xây dựng các đề án lớn
triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị
về “tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới” và
thực hiện các Chiến lược phát triển Văn hóa, Gia đình, Thể thao, Du lịch, Văn

hóa đối ngoại đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030.
Với những thành tựu to lớn đã đạt được kể từ ngày thành lập, lĩnh vực Văn hóa,
Thể thao và Du lịch đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận và trao tặng nhiều phần
thưởng cao quý như: Huân chương Sao vàng (năm 1995), Huân chương Hồ Chí
Minh (lần 2 năm 2015).
2. Truyền thống vẻ vang của Ngành trong quá trình xây dựng và phát triển
2.1. Trong lĩnh vực Văn hóa
Văn hóa Việt Nam trong tiến trình hình thành và phát triển đã tạo dựng
nên các truyền thống quý báu như đa dạng trong thống nhất, văn hóa là vũ khí
sắc bén trên các mặt trận (tư tưởng, chính trị, ngoại giao...) góp phần quan trọng
làm nên thắng lợi của các cuộc kháng chiến và trong thời kỳ hòa bình, đặc biệt
là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cán bộ văn hóa hoạt động theo
tinh thần khẩu hiệu “Yêu nước và căm thù giặc”, và “Cách mạng hóa văn hóa”
lấy việc phổ biến sâu rộng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch:
“Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ” làm nội dung tuyên truyền chủ yếu kết hợp với phổ biến đường lối
kháng chiến của Đảng. Thực hiện khẩu hiệu “Kháng chiến hóa văn hóa, văn
hóa hóa kháng chiến”. Cán bộ văn hóa, văn nghệ cũng xuất trận, ghi lại và phản
ánh kịp thời cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ và hào hùng của quân và dân ta.
Nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, ca khúc cách mạng, hội họa thơ ca v.v. đã
góp phần khích lệ động viên toàn dân tham gia kháng chiến đến thắng lợi. Năm
1950, hoạt động văn hóa kháng chiến đã mở ra quan hệ quốc tế, bắt đầu có sự
giao lưu với Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Một số
tác phẩm văn hóa nghệ thuật của các nước được dịch và phổ biến trong vùng tự
do. Sự giao lưu văn hóa, văn nghệ làm cho bạn bè quốc tế hiểu thêm về văn hóa
Việt Nam và sự chính nghĩa của cách mạng Việt Nam.
Sau năm 1954, ở miền Bắc, văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân
tộc anh em đã được bảo tồn và phát huy, các tỉnh đều có Đoàn nghệ thuật, Hội
văn nghệ. Sự nghiệp văn hóa được phát triển toàn diện theo định hướng đi sâu

vào hoạt động chuyên ngành, phát triển có bài bản về nội dung, về đào tạo cán
bộ và phương thức hoạt động, tập trung nguồn lực văn hóa để xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, tham gia chiến đấu ở miền Nam. Trong cuộc đấu tranh
chống phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, hòa cùng khí thế của cả nước, các
12


văn nghệ sĩ đã thâm nhập thực tế, vừa sáng tác vừa giúp địa phương đẩy mạnh
phong trào văn hóa, văn nghệ.
Ở miền Nam hoạt động văn hóa, văn nghệ trở thành một mặt trận trong
đấu tranh chính trị, thu hút các văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên tham gia. Xuất hiện
những tác phẩm lớn phản ánh cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Đây là giai
đoạn vô cùng sôi động của ngành Văn hóa trong cả nước, thời kỳ xây dựng cơ sở
cho nền văn hóa mới ở khắp các tỉnh, thành phố ở miền Bắc và tham gia kháng chiến
ở miền Nam, góp phần không nhỏ vào Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Sau khi đất nước thống nhất (1975), văn hóa của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam hội tụ trong một đất nước thống nhất, việc giao lưu văn hóa nghệ thuật
trong cả nước ngày càng phát triển. Các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vốn
bị tàn phá, ngưng trệ trong thời gian chiến tranh đã dần được bảo vệ, phục hồi.
Ngành Văn hóa thực hiện phương châm hoạt động thực tiễn đi đôi với việc nghiên
cứu lý luận để nâng cao nhận thức, soi sáng cho hoạt động thực tiễn, tổ chức hội thảo
khoa học về đời sống văn hóa cơ sở. Mở các cuộc vận động văn nghệ quần chúng: ca
múa hát dân gian, kịch nói và kịch truyền thông, hát múa tập thể; khơi dậy vốn văn
nghệ dân gian của các dân tộc, phát động và duy trì cuộc vận động xây dựng nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa trên phạm vi toàn quốc.
Quan hệ ngoại giao với các nước và khu vực tiếp tục được thiết lập. Nhiều
hiệp định văn hóa giữa nước ta và các nước được ký kết. Những ngày văn hóa
của các một số nước được tổ chức tại Việt Nam. Những ngày văn hóa Việt Nam
cũng được tổ chức tại nhiều nước trong thời gian này.
Trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay, ngành Văn hóa đã tập trung chỉ đạo

xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm thống nhất quản lý các hoạt
động văn hóa trên phạm vi cả nước. Tinh thần yêu nước của cộng đồng các dân
tộc trong thời kỳ mới được khơi dậy và hướng đến bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống trước sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của lối sống và văn
hóa ngoại lai trong bối cảnh toàn cầu hóa. Trong giai đoạn này, văn hóa nghệ
thuật đã có những thay đổi khá mạnh mẽ, nhiều hoạt động khởi sắc, toàn ngành tổ
chức tốt các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn.
Hoàn thành việc xây dựng các đề án, chương trình, chiến lược quan trọng; Công
tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa tiếp tục đạt được những thành tựu quan
trọng. Văn học, nghệ thuật có nhiều chuyển biến tích cực. Hoạt động giao lưu,
hợp tác quốc tế trên mặt trận văn hóa nghệ thuật đạt được nhiều thành công, hiệu
quả thiết thực. Việt Nam đã tham gia Ban chấp hành của Tổ chức Giáo dục - Văn
hóa - Khoa học của Liên Hiệp Quốc (UNESCO), và một số chuyên ngành của tổ
chức này. Văn hóa Việt Nam đã đạt được nhiều danh hiệu thế giới như các di sản
văn hóa và thiên nhiên, di sản văn hóa phi vật thể.v.v. Các ngày văn hóa Việt Nam
được tổ chức ở nước ngoài ngày càng nhiều. Công tác quản lý nhà nước về Văn
hóa cũng như việc gắn kết giữa các lĩnh vực trong Ngành, giữa Ngành với các
13


ngành khác và toàn xã hội được tăng cường, đóng góp ngày càng quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước.
2.2. Trong lĩnh vực Gia đình
Gia đình Việt Nam có truyền thống tương thân tương ái, là môi trường
đầu tiên giáo dục, hình thành nhân cách con người, bảo tồn các giá trị truyền
thống, bản sắc văn hóa dân tộc... Từ năm 2007 đến nay, công tác quản lý nhà
nước về gia đình đặt ra nhiều thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức.
Cùng với Hiến pháp năm 2013, Luận Hôn nhân gia đình sửa đổi năm
2014, các đề án của Chính phủ liên quan đến việc thực hiện Chiến lược phát
triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Nghị định số

02/2013/NĐ-CP, ngày 03/01/2013 của Chính phủ Quy định về công tác gia đình
là những văn bản quan trọng phục vụ trực tiếp cho công tác quản lý nhà nước về
lĩnh vực gia đình. Công tác gia đình đã triển khai nhiều hoạt động thông qua các
phong trào, các cuộc vận động như:“Xây dựng nhân cách người Việt Nam từ
giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình”, nhấn mạnh vai trò của giáo dục gia
đình đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam; hưởng ứng Ngày
Quốc tế Hạnh phúc (20/3), Ngày Gia đình Việt Nam (28/6), Ngày Thế giới xóa
bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái (25/11); thi viết về Tấm gương điển
hình trong phòng, chống bạo lực gia đình, gia đình văn hóa; Hội thi Câu lạc bộ
Gia đình chủ đề về “Gia đình hạnh phúc",... Các hoạt động đó nhằm tôn vinh
những giá trị nhân văn sâu sắc của gia đình Việt Nam; đề cao trách nhiệm của
lãnh đạo các ngành, các cấp, các đoàn thể, tổ chức xã hội và các gia đình trong
việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc…
Các đoàn thể, chính quyền tăng cường phối hợp nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình, đặc biệt là ở cấp cơ sở (thôn, bản, khối
phố, cộng đồng dân cư). Bộ VHTTDL cùng các địa phương trong cả nước tập trung
tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác gia đình.
Đó là những hoạt động tạo nên truyền thống công tác gia đình nhằm bảo
tồn, phát huy, xây dựng giá trị gia đình đã được vun đắp, giữ gìn trong suốt tiến
trình lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc.
2.3. Trong lĩnh vực Thể dục, Thể thao
Thể dục, thể thao hiện nay của đất nước ta được kế thừa truyền thống quý
báu với tinh thần thượng võ, hun đúc lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trách
nhiệm công dân. Từ khi ra đời đến nay ngành TDTT đã đạt được được những thành
tựu quan trọng tạo dựng nên truyền thống đáng tự hào:
Trong kháng chiến chống Pháp, ở vùng tự do trên địa bàn nông thôn và
vùng núi, TDTT tích cực phục vụ thiết thực cho việc rèn luyện bộ đội, dân quân,
thanh niên xung phong tăng cường sức khỏe để chiến đấu chống giặc. Các môn
thể dục, võ thuật và thể thao quần chúng vẫn được tổ chức tập luyện, thi đấu
thường xuyên trên các chiến khu, chiến trường toàn quốc. Hoạt động TDTT ở

14


vùng chiến khu cách mạng chuyển hướng kịp thời phục vụ kháng chiến, tăng
cường sức khỏe cho nhân dân lao động, đặc biệt là lực lượng vũ trang. Tính chất
quần chúng trong TDTT thời kỳ này được thực hiện nhất quán xuyên suốt cuộc
kháng chiến.
Giai đoạn 1954 - 1975, trên tinh thần yêu nước, truyền thống thượng võ
của dân tộc, từ phong trào “Khỏe vì nước” do Nha Thanh niên và Thể dục phát
động năm 1946 tới các phong trào “Thể dục vệ sinh”, “5 môn chạy - nhảy - bơi
- bắn - võ”, “Luyện vai trăm cân, luyện chân nghìn dặm”, “Thi đua tiên tiến về thể
dục, thể thao” đã trở thành một trong những nội dung của cuộc vận động “Ba sẵn
sàng” trong thanh niên, góp phần đáng kể tạo nên khí thế hào hùng của nhân dân ta
trong những năm chống Mỹ cứu nước. Từ 1954 - 1958, miền Bắc đã khôi phục và
phát triển các hoạt động TDTT quần chúng. Đến 1959 - 1960, các vận động viên trẻ
đã vượt qua hầu hết các kỷ lục thể thao của Đông Dương trước năm 1954.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960), phong trào“Thể dục,
vệ sinh” phát triển khá rầm rộ và có hiệu quả thiết thực thu hút đông đảo nhân
dân tham gia, tạo nên nét độc đáo, sáng tạo của nền TDTT Việt Nam. 8 môn thể
thao Olympic và một số môn thể thao quốc phòng, thể thao dân tộc được phát
triển. Các hội khỏe, đại hội thể thao, các giải đấu thể dục, thể thao cấp tỉnh, quân
khu hay toàn miền Bắc đã tạo nên không khí sôi nổi, nâng cao tinh thần chiến
đấu của các cán bộ chiến sĩ.
Thể thao thành tích cao đã bắt đầu được coi trọng. Năm 1963 thể thao
Việt Nam tham gia Đại hội Thể thao Quốc tế GANEFO I tại Jakarta (Indonesia)
chỉ đạt 1 huy chương đồng. Đến GANEFO châu Á lần thứ I năm 1966 đoàn thể
thao Việt Nam đã đạt được 4 huy chương vàng, 10 huy chương bạc và 13 huy
chương đồng. Các quan hệ quốc tế về thể dục, thể thao ở miền Bắc đã bám sát
và phục vụ các nhiệm vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thắt chặt quan hệ
Việt Nam - Lào - Campuchia; đoàn kết hợp tác với các nước Á, Phi, Mỹ Latin;

đoàn kết và tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn này, ở vùng giải phóng của miền Nam, trong hoàn cảnh
chiến tranh ác liệt, hoạt động TDTT vẫn được duy trì. Nhiều lớp TDTT lưu động
được mở trong vùng giải phóng… Những hoạt động đó đã tạo nên không khí lạc
quan tin tưởng, nâng cao tinh thần chiến đấu của quân dân ta đến ngày thắng lợi.
Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng (1975) đến trước đổi mới
(1985), tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về TDTT và bộ máy tổ chức quản lý ngành từ miền Bắc đã lan tỏa ra
cả nước, hướng đến mục tiêu: “xây dựng một nền thể dục, thể thao xã hội chủ
nghĩa phát triển cân đối có tính dân tộc, khoa học và nhân dân”.
Sau năm 1975, trên cả nước phát triển 19 môn thể thao cơ bản. Trong giai
đoạn này thể thao Việt Nam bắt đầu hội nhập sâu rộng với thể thao khu vực,
châu lục và thế giới, tham gia các Đại hội Thể dục, thể thao Đông Nam Á (SEA
15


Game), châu Á (Asiad) và thế giới (Olympic), bắt đầu từ Olympic Moskva 1980
và thể thao châu Á tại Asiad 9 ở New Delhi năm 1982.
Từ năm 1986 đến nay, TDTT đã phát triển mạnh mẽ trên cả nước thống
nhất về cả hai lĩnh vực: Phong trào TDTT quần chúng và Thể thao thành tích
cao. Trong xu thế phát triển mới của TDTT thế giới, ngày 03/12/2010, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2198/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát
triển thể dục thể thao Việt Nam đến năm 2020. Tiếp đó, Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 01/12/2011 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng,
tạo bước phát triển mạnh mẽ về TDTT đến năm 2020. Năm 2011, Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt “Đề án tổng quát nâng cao thể lực và tầm vóc người Việt
Nam đến năm 2030” mà TDTT quần chúng là một trong những nội dung và biện
pháp thực thi nhằm nâng cao sức khỏe, cải tạo nòi giống.
Lần đầu tiên, thể thao Việt Nam tham gia vũ đài thể thao khu vực Đông
Nam Á tại SEA Game 15 ở Kualalumpur (1989). Việc tham gia thành công SEA
Game lần này, đã cho thấy Việt Nam hoàn toàn có thể hội nhập với thể thao khu

vực theo hướng phát triển các môn thể thao cơ bản.
2.4. Trong lĩnh vực Du lịch
Du lịch Việt Nam bước đầu hình thành, tạo ra hệ thống bảo tồn các giá trị
truyền thống dân tộc, quảng bá các di sản vật thể và phi vật thể, di sản thiên
nhiên ra thế giới; giúp cộng đồng trong nước và quốc tế hiểu về Việt Nam, tăng
thêm niềm tự hào, tăng nhu cầu thụ hưởng văn hóa...
Sau năm 1954, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tiến hành hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đến năm
1960 nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 12 nước, quan hệ thương mại với 22
quốc gia. Trên cơ sở đó, Chính phủ cho thành lập Công ty Du lịch trực thuộc Bộ
Ngoại thương. Du lịch Việt Nam trong giai đoạn khởi đầu còn nhiều khó khăn
nhưng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đón tiếp, phục vụ nhu cầu du lịch, tham quan
nghỉ mát của cán bộ, bộ đội, nhân dân và bạn bè quốc tế. Hoạt động du lịch thời
kỳ này đã góp phần làm cho cộng đồng trong nước và quốc tế hiểu về con người
và đất nước Việt Nam. Đây là thời gian khởi đầu rất quan trọng đặt nền móng
cho sự phát triển của du lịch Việt Nam trong các giai đoạn tiếp sau.
Trong giai đoạn 1975 - 1986, Du lịch Việt Nam hoạt động trong điều kiện
đất nước hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế trong hoàn cảnh bị
bao vây, cấm vận. Du lịch Việt Nam được mở rộng ra phạm vi toàn quốc, hình
thành mạng lưới du lịch ở một số địa phương trong cả nước và bắt đầu mở rộng
ra các thị trường du lịch ngoài khối xã hội chủ nghĩa.
Du lịch đã góp phần tích cực tuyên truyền giới thiệu về đất nước, con
người Việt Nam với bạn bè thế giới và tổ chức cho nhân dân đi du lịch giao lưu
hai miền Nam - Bắc, góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, tinh thần tự hào dân
tộc. Thông qua du lịch, thế giới hiểu rõ thêm quan điểm, nguyện vọng của Đảng,
16


Nhà nước và nhân dân Việt Nam sau chiến tranh muốn là bạn của tất cả các
nước trên thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.

Về mặt kinh tế - xã hội, lĩnh vực Du lịch đã hoạt động có kết quả tốt, đặt
nền móng cho giai đoạn mới và được xác định là ngành kinh tế tổng hợp quan
trọng.
Từ năm 1986, trong bối cảnh chính sách mở cửa và hội nhập của Đảng và
Nhà nước, đất nước chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Du lịch Việt Nam đi
sâu khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống của dân tộc.
Thế mạnh văn hóa truyền thống và sự đa dạng hệ sinh thái của đất nước đã được
phát huy để phát triển du lịch. Du lịch phát triển đã tạo thêm nguồn thu để bảo
tồn, tu bổ và phục hồi các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể… Hoạt động du
lịch phát triển dẫn đường cho sự mở rộng giao lưu kinh tế văn hoá giữa các
vùng, miền trong nước và hội nhập quốc tế. Du lịch phát triển còn góp phần
không nhỏ vào việc giáo dục truyền thống, đào tạo kiến thức và rèn luyện, bồi
dưỡng thể chất, tinh thần cho mọi tầng lớp dân cư.
Sự phát triển du lịch ở Việt Nam thời kỳ này được Tổ chức Du lịch Thế
giới (UNWTO) ghi nhận và xếp Việt Nam vào danh sách các quốc gia có mức
tăng trưởng du lịch cao. Hợp tác quốc tế về du lịch trong giai đoạn này phát triển
khá mạnh. Du lịch Việt Nam đã ký kết điều ước, thỏa thuận quốc tế với gần 100
quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã ký nhiều hiệp định hợp tác du lịch song
phương với các nước; ký hiệp định hợp tác du lịch đa phương với 10 nước
ASEAN; tham gia chủ động trong hợp tác du lịch Tiểu vùng Mêkông mở rộng,
hợp tác Hành lang Đông - Tây, hợp tác sông Mêkông - sông Hằng.
Sau 56 năm thành lập và phát triển, Du lịch Việt Nam đã trải qua nhiều
giai đoạn thăng trầm, đan xen những khó khăn, thuận lợi, cơ hội và thách thức.
Trong bối cảnh đất nước ổn định, nước ta có vị thế ngày càng cao trên trường
quốc tế, Du lịch Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước
giao phó, tạo được tiền đề vững chắc cho du lịch phát triển cao hơn trong thời
gian tới.
3. Thành tựu của Ngành trong những năm gần đây (2007 đến nay)
3.1. Những thành tựu cơ bản
- Củng cố hoàn thiện bộ máy, cơ chế quản lý của Ngành từ Trung ương

đến địa phương
Ngày 31/7/2007, Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ nhất đã quyết định hợp
nhất Ủy ban Thể dục, thể thao và Tổng cục Du lịch với Bộ Văn hóa -Thông tin
và đổi tên thành Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch được thành lập theo Nghị định số 185/2007/NĐ-CP ngày 25/12/2007.
Để hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn mới, trong thời gian
qua Bộ đã ưu tiên củng cố, hoàn thiện bộ máy từ Trung ương đến địa phương.
17


Ở cấp Trung ương, theo Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18/4/2012 và
Nghị định số 76/2013/NĐ-CP ngày 16/7/2013 của Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước
đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ
công thuộc ngành, lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch. Bộ
VHTTDL có nhiệm vụ và quyền hạn trình Thủ tướng Chính phủ, ban hành, chỉ
đạo, kiểm tra, thẩm định, tổ chức, tham gia, quyết định, hướng dẫn, công nhận,
giải quyết, xây dựng, quản lý các nội dung thuộc các lĩnh vực: pháp luật; chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch; hợp tác quốc tế; cải cách hành chính; doanh nghiệp,
hợp tác xã và các loại hình kinh tế tập thể, tư nhân; hội, tổ chức phi chính phủ;
tổ chức bộ máy; cán bộ công chức, viên chức; thanh tra, kiểm tra; quản lý tài
chính, tài sản. Cơ cấu tổ chức của Bộ gồm có các Vụ, Văn phòng Bộ, Thanh tra
Bộ, Cục, Tổng cục. Bộ còn có các đơn vị sự nghiệp công lập như: các đơn vị
nghiên cứu chiến lược, chính sách; Báo, Tạp chí, Trung tâm Thông tin; Trường
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Ở địa phương, theo Nghị định 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 quy định
tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương áp dụng đối với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh gồm có sở
và cơ quan ngang sở (gọi chung là sở) thì Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ
quan thuộc UBND cấp tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND cấp

tỉnh quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch theo quy
định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của UBND cấp tỉnh, Chủ
tịch UBND tỉnh.
Sở VHTTDL có nhiệm vụ, quyền hạn trình UBND cấp tỉnh, dự thảo văn
bản pháp quy, tổ chức thực hiện, giúp UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước, hướng
dẫn, kiểm tra, thực hiện hợp tác quốc tế, hướng dẫn chuyên môn đối với cơ quan
chuyên môn cấp huyện và chức danh chuyên môn cấp xã; tổ chức nghiên cứu
ứng dụng khoa học công nghệ, xây dựng và áp dụng cơ sở dữ liệu thông tin vào
quản lý, tổ chức và quản lý bộ máy, tài chính, thực hiện chế độ báo cáo và các
nhiệm vụ khác… do UBND tỉnh giao.
Theo Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy
định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, Phòng Văn hóa - Thông tin là cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp huyện; thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện
quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, TDTT và du lịch theo quy định của pháp
luật; góp phần bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác
ở địa phương. Phòng Văn hóa - Thông tin thuộc UBND cấp huyện chịu sự chỉ
đạo, quản lý về tổ chức, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công
chức và công tác của UBND cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra,
hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp
18


tỉnh. Phòng Văn hóa - Thông tin có nhiệm vụ và quyền hạn trình UBND huyện
các văn bản pháp quy; tổ chức thực hiện, giúp UBND huyện quản lý nhà nước
về văn hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch liên quan đến các đối tượng xã
hội, thành phần kinh tế trên địa bàn; ứng dụng khoa học công nghệ, xây dựng và
áp dụng cơ sở dữ liệu thông tin vào quản lý, tổ chức và quản lý bộ máy, tài
chính, thực hiện chế độ báo cáo và các nhiệm vụ khác. Đứng đầu là Trưởng
phòng, chịu trách nhiệm trước UBND huyện về nhiệm vụ được giao. Cấp dưới

giúp việc là các Phó phòng.
Bộ máy tổ chức cấp Sở, Phòng có mối quan hệ với Bộ VHTTDL về
chuyên môn nghiệp vụ nhưng về cơ cấu tổ chức và đội ngũ là do UBND tỉnh,
huyện quy định.
- Về quản lý nhà nước
Trong lĩnh vực Văn hóa: Gần hai thập kỷ từ khi mang tên là Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, ngành đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các
bình diện: ra đời Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 (ban hành kèm
theo Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06 tháng 5 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ); Quản lý về Di sản văn hóa (gồm các Bảo tàng, di tích, di sản văn
hóa và di sản thiên nhiên cấp quốc gia và quốc tế, di vật và cổ vật quốc gia);
Quản lý về Nghệ thuật biểu diễn (gồm các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước);
Quản lý về Điện ảnh (gồm các vấn đề liên quan đến thực hiện chiến lược, quy
hoạch phát triển ngành Điện ảnh); Quản lý về Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm
(gồm các vấn đề thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển ngành Mỹ thuật,
Nhiếp ảnh, Triển lãm và quy hoạch tượng đài, tranh… cấp quốc gia); Quản lý về
Quyền tác giả, quyền liên quan;Quản lý về Thư viện; Quản lý về Quảng cáo
(hướng dẫn việc xây dựng quy hoạch quảng cáo ngoài trời tại các địa phương;
thẩm định sản phẩm quảng cáo theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân); Quản lý về
Văn hóa quần chúng,Văn hóa dân tộc và Tuyên truyền cổ động; Quản lý về Văn
học (xây dựng và hướng dẫn, tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách về hoạt động
văn học; hướng dẫn tổ chức thực hiện và kiểm tra hoạt động; tham gia ý kiến
thẩm định tác phẩm văn học theo yêu cầu của tổ chức và cá nhân; phối hợp tổ
chức trại sáng tác văn học nghệ thuật).
Trong lĩnh vực Gia đình: Do tính chất đặc thù nên Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 và Luật Hôn nhân gia đình sửa đổi năm 2014 không đề cập đến
nội dung QLNN về gia đình. Tuy nhiên, công tác gia đình đã được Nghị định số
02/2013/NĐ-CP ngày 03/01/2013 của Chính phủ quy định. Căn cứ vào Nghị
định này, quản lý nhà nước về công tác gia đình trong những năm qua đã mang
lại những thành tựu quan trọng: Hướng dẫn, tổ chức thực hiện Chiến lược phát

triển gia đình Việt Nam; Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hướng
dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về công tác gia đình và phòng, chống
bạo lực gia đình; Tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống, cách ứng xử trong
19


gia đình; Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng tiêu chí gia
đình văn hóa; Xây dựng cơ sở dữ liệu về gia đình và phòng, chống bạo lực gia
đình; Xây dựng, nhân rộng mô hình gia đình điển hình tiên tiến thuộc phạm vi
nhiệm vụ được giao. Ngày 29/5/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 629/QĐ-Ttg phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn 2030. Bộ VHTTDL đã chủ trì, tham mưu, tổ chức và triển khai
công tác gia đình và cùng các ban, ngành liên quan tổ chức các đề án, chương
trình, đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cư và đơn vị văn
hóa.
Trong lĩnh vực Thể dục, thể thao: sau khi Ủy ban TDTT chuyển về Bộ,
cùng với Luật Thể thao được ban hành năm 2006, Ngành đã triển khai các hoạt
động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực: Xây dựng, ban hành và tổ chức thực
hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển TDTT, các văn bản
quy phạm pháp luật, đặc biệt là Chiến lược Phát triển thể dục thể thao Việt Nam
đến năm 2020 (Ban hành theo Quyết định số 2198/QĐ-TTg ngày 03 tháng 12
năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ); Tổ chức, chỉ đạo công tác đào tạo, bồi
dưỡng nhân lực; Kiểm tra, đánh giá phát triển TDTT quần chúng và hoạt động
thi đấu thể thao; Tổ chức, chỉ đạo hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và
công nghệ trong lĩnh vực TDTT; Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực phát
triển sự nghiệp TDTT; Tổ chức, chỉ đạo công tác thi đua, khen thưởng; Tổ chức,
chỉ đạo thực hiện hợp tác quốc tế về thể thao; Thanh tra, kiểm tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về TDTT …
Các cơ quan chức năng đã tiến hành hướng dẫn và tổ chức thực hiện chiến
lược, quy hoạch và các chương trình quốc gia phát triển TDTT; Tổ chức đại hội

TDTT toàn quốc, đại hội thể thao khu vực, châu lục và thế giới; thực hiện chiến
lược, quy hoạch, phát triển thể thao thành tích cao và định hướng phát triển thể
thao chuyên nghiệp; thực hiện quy định về chế độ, chính sách đối với vận động
viên, huấn luyện viên, trọng tài trong lĩnh vực thể thao thành tích cao và thể thao
chuyên nghiệp.
Trong lĩnh vực Du lịch: Luật Du lịch (2005) xác định nội dung quản lý
nhà nước như sau: Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và chính sách phát triển du lịch; Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện
văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật trong hoạt
động du lịch; Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch;
Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; Nghiên cứu,
ứng dụng khoa học và công nghệ; Điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch để xây
dựng quy hoạch phát triển du lịch, xác định khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du
lịch, đô thị du lịch; Thực hiện hợp tác quốc tế về du lịch; Hoạt động xúc tiến du
lịch ở trong nước và nước ngoài; Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về
du lịch, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý nhà nước về
20


du lịch; Cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về hoạt động du lịch; Kiểm tra,
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về du lịch.
Lĩnh vực Du lịch thời gian qua đã đạt được những thành tựu quan trọng
như: Bộ máy và năng lực quản lý nhà nước về Du lịch, ra đời Chiến lược phát
triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Ban hành theo
Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ); hệ
thống kinh doanh du lịch từng bước được kiện toàn, thích ứng dần với cơ chế
mới; Huy động các nguồn lực đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao chất
lượng và đa dạng hóa sản phẩm du lịch; Nguồn nhân lực du lịch được tăng
cường, phát triển về số lượng và chất lượng; Quan hệ phối hợp liên ngành và địa
phương được tăng cường, phát triển; Quan hệ hợp tác quốc tế phát triển song

phương và đa phương với hàng chục Hiệp định, hàng chục nước và hàng ngàn
hãng du lịch trên thế giới.
3.2. Nguyên nhân của thành tựu
Một là, tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển. Đây là nguyên nhân
tạo ra sự nhận thức lý luận sát hợp với thực tiễn, sự định hướng trong hoạch
định chủ trương, chính sách phát triển, xây dựng nền văn hóa, con người Việt
Nam phù hợp với tình hình mới.
Hai là, nhận thức về văn hóa, gia đình, TDTT và du lịch của các cấp, các
ngành và toàn dân được nâng lên. Đây là nhân tố chủ quan tạo ra hiệu quả cho
sự phát triển toàn diện của Ngành và tác động quan trọng đến đời sống xã hội.
Ba là, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống văn hóa của nhân dân, sản
phẩm văn hóa ngày càng phong phú, các giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành là
nguyên nhân và động lực quan trọng cho văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và
du lịch đạt được những thành tựu như trên.
Bốn là, từng bước hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về văn hóa, gia
đình, thể thao và du lịch.
Năm là, đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động văn hóa, gia đình, thể thao và du
lịch góp phần đáng kể vào việc tạo nguồn lực cho xây dựng các thiết chế văn
hóa, tu bổ, tôn tạo di tích, phục hồi lễ hội, nâng cao chất lượng công tác gia
đình, phát triển thể thao, du lịch.
4.Tồn tại, hạn chế của ngành trong những năm gần đây
4.1. Những tồn tại, hạn chế
- Lĩnh vực Văn hóa: Nghị quyết số 33 - NQ/TW của Hội nghị lần thứ 9
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2014) về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã đánh
giá, đồng thời chỉ ra những tồn tại cần được nhận thức, khắc phục trong thời
gian tới:
21



Thứ nhất, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng, chưa đủ để
tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong xã hội có
chiều hướng gia tăng.
Thứ hai, đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu.
Khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và
trong các tầng lớp nhân dân chưa được rút ngắn.
Thứ ba, môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai,
trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng.
Thứ tư, còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư
tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất
lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật
chưa theo kịp thực tiễn sáng tác.
Thứ năm, việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao,
nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn
hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa
chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho
hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả
sử dụng thấp. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản
phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ
phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.
Thứ sáu, công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn
hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập.
- Lĩnh vực Gia đình: Tham mưu, xây dựng, ban hành, trình cấp có thẩm
quyền ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản triển khai thực hiện Quyết
định số 629/QĐ-TTg ngày 29/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến
lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 còn nhiều hạn
chế, bất cập; Tổ chức các hoạt động thực hiện nhiệm vụ đột phá "Đẩy mạnh và
nâng cao hiệu quả của việc nhân rộng mô hình can thiệp làm giảm tình trạng bạo

lực gia đình ở địa bàn thôn/ấp, tổ dân phố trên phạm vi toàn quốc" chưa sâu sát
cụ thể; Hoạt động thực hiện nhiệm vụ phòng, chống bạo lực gia đình, tuyên
truyền theo chủ đề: xây dựng gia đình gắn với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
hiệu quả còn hạn chế chưa đạt mục tiêu đề ra; Việc tổ chức thực hiện "Đề án
Tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình Việt Nam, giai đoạn
2010 - 2020" còn hạn chế trong thực hiện các giải pháp và mục tiêu đề ra; Các
chương trình phối hợp về công tác gia đình ký kết với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Người cao tuổi
Việt Nam; Công đoàn Viên chức Việt Nam… chưa thường xuyên và thật sự hiệu
quả; Tổ chức các hoạt động bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác gia đình
cho đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình các cấp còn hạn chế; Công tác thu thập
22


dữ liệu, tổng hợp báo cáo số liệu về gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình
còn yếu kém; Hoạt động kiểm tra, giám sát chuyên ngành, liên ngành về công
tác gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình chưa thật thường xuyên; Hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình chưa được đẩy
mạnh để chia sẻ kinh nghiệm.
- Lĩnh vực Thể thao: Phong trào TDTT quần chúng phát triển mạnh nhưng
chưa đồng đều, chất lượng chưa cao; Các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo
còn thiếu các phương tiện tập luyện và thiếu cán bộ hướng dẫn viên TDTT;
Chưa chú trọng xây dựng và quản lý hệ thống các đơn vị cơ sở, các câu lạc bộ
TDTT quần chúng ở cơ sở; Công tác giáo dục thể chất trong nhà trường và các
hoạt động thể thao ngoại khóa của học sinh, sinh viên chưa được coi trọng, chưa
đáp ứng yêu cầu; Thiếu chính sách thu hút nhân tài thể thao, thiếu hụt nguồn vận
động viên, huấn luyện viên, trọng tài… quy chế tuyển dụng vận động viên nước
ngoài đối với các đội tuyển thể thao chưa phù hợp với thực tiễn phát triển thể
thao chuyên nghiệp; Chưa có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho thể dục,
thể thao, thiếu chính sách và các quy định về đào tạo nguồn nhân lực cho TDTT,

nhất là đối với thể thao thành tích cao; Hoạt động của một số Liên đoàn, Hiệp
hội TDTT còn bị động, phụ thuộc vào sự hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước;
Thiếu các quy định pháp lý về việc tham gia thực hiện một số hoạt động tác
nghiệp; Hợp tác quốc tế về TDTT chưa tương xứng với tiềm năng của ngành.
- Lĩnh vực Du lịch: Quản lý khai thác tài nguyên du lịch chưa xứng với
tiềm năng; Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch chưa đồng bộ và chất
lượng thấp, chưa kết nối thành mạng lưới, chưa hình thành được hệ thống các
khu du lịch quốc gia với thương hiệu nổi bật; Nguồn nhân lực du lịch chưa đáp
ứng yêu cầu đòi hỏi về tính chuyên nghiệp, kỹ năng quản lý, giao tiếp và chất
lượng phục vụ; Phát triển sản phẩm và thị trường của sản phẩm du lịch nghèo
nàn và trùng lắp giữa các vùng miền; Xúc tiến quảng bá du lịch chưa chuyên
nghiệp, chưa bài bản, chưa hiệu quả; Quản lý du lịch chậm đổi mới, vai trò của
Nhà nước, Luật du lịch và các luật, pháp lệnh liên quan, hệ thống văn bản pháp
quy hướng dẫn thi hành còn thiếu đồng bộ và chưa huy động được các nguồn
lực cho phát triển du lịch. Nhiều chính sách còn chồng chéo; Nhận thức về du
lịch cả ở cấp quản lý nhà nước, quản lý kinh doanh và trong nhân dân còn thấp,
chưa đầy đủ và đồng bộ… vẫn còn khoảng cách xa so với yêu cầu phát triển.
4.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, hoạt động của ngành và các cơ quan chức năng chưa làm cho
các cấp ủy, chính quyền ý thức, quan tâm đầy đủ về lĩnh vực văn hóa, vai trò
quan trọng trước mắt và lâu dài của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, đời
sống cộng đồng và quốc gia nên chưa có các giải pháp lãnh đạo hiệu quả đối với
sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu,
tình hình thực tiễn đặt ra.
23


Thứ hai, việc chủ động triển khai và phối hợp với các ngành hữu quan,
chính quyền các cấp của ngành trong việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết
của Đảng về văn hóa còn chậm, thiếu đồng bộ. Việc tuyên truyền các văn bản

Luật về các lĩnh vực hoạt động của ngành còn hạn chế đi vào đời sống xã hội
nên một bộ phận không nhỏ các tầng lớp nhân dân chưa rõ và đôi khi vi phạm
các vấn đề liên quan trong đời sống văn hóa ở cộng đồng và địa phương.
Thứ ba, công tác quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể thao và du
lịch chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng kỷ luật,
kỷ cương không nghiêm.
Thứ tư, đầu tư cho lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể thao, du lịch chưa tương
xứng và còn dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để
đầu tư đúng hướng và có hiệu quả.
Thứ năm, chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể thao, du lịch nhất là đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
5. Một số vấn đề về công tác xây dựng Đảng của ngành
5.1. Công tác tổ chức và các nhiệm vụ cơ bản
a) Thời kỳ trước năm 2008
Tổ chức cơ sở đảng đầu tiên của Đảng bộ cơ quan Bộ Văn hóa - Thông
tin được hình thành cùng với sự hình thành Bộ Thông tin Tuyên truyền (tháng
8/1945) và phát triển cùng với Bộ qua các thời kỳ. Đảng bộ cơ quan Bộ Văn hóa Thông tin là Đảng bộ cấp trên cơ sở, trực thuộc Đảng ủy Khối cơ quan Trung ương
về công tác tư tưởng. Tháng 10/2005, Đảng bộ cơ quan Bộ Văn hóa, Thông tin
đã tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ V, nhiệm kỳ 2006 - 2010. Tại thời
điểm này toàn Đảng bộ có 71 cấp ủy trực thuộc, gồm 13 Đảng bộ và 58 chi bộ
với trên 1.300 đảng viên. Để thuận tiện cho sinh hoạt, các cấp ủy trực thuộc
Đảng bộ được phân chia thành 06 khối đơn vị công tác, bao gồm: Khối tham
mưu (12 cơ sở); Khối Điện ảnh (10 cơ sở); Khối Nghệ thuật biểu diễn (16 cơ
sở); Khối Bảo tàng (12 cơ sở); Khối Xuất bản báo chí (14 cơ sở) và Khối Doanh
nghiệp (07 cơ sở). Đến tháng 01/2008, Đảng bộ cơ quan Bộ Văn hóa - Thông tin
được sáp nhập vào Đảng bộ Bộ VHTTDL.
Đảng bộ cơ quan Ủy ban TDTT được hình thành cùng với sự hình thành
Nha Thanh niên và Thể dục (tháng 3/1946) và phát triển cùng với sự phát triển
của Ban TDTT Trung ương, Ủy ban TDTT, Tổng cục TDTT qua các thời kỳ.

Đảng bộ cơ quan Ủy ban TDTT là Đảng bộ được giao quyền cấp trên cơ sở, trực
thuộc Đảng bộ Khối cơ quan Khoa giáo Trung ương. Tháng 11/2006, Đảng bộ
cơ quan Ủy ban TDTT đã tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XVIII, nhiệm kỳ
2006 - 2010. Tại thời điểm này toàn Đảng bộ có 23 cấp ủy trực thuộc, gồm 06
chi bộ trực thuộc và 16 chi bộ cơ sở với trên 300 đảng viên. Đến tháng 01/2008,
Đảng bộ cơ quan Ủy ban TDTT được sáp nhập vào Đảng bộ Bộ VHTTDL.
24


Tổ chức cơ sở đảng đầu tiên của Đảng bộ cơ quan Tổng cục Du lịch được
hình thành cùng với sự hình thành Công ty Du lịch Việt Nam (tháng 7/1960) và
liên tục phát triển cùng với sự phát triển của Tổng công ty Du lịch Việt Nam,
Tổng cục Du lịch qua các thời kỳ. Đảng bộ cơ quan Tổng cục Du lịch là Đảng
bộ cơ sở, trực thuộc Đảng bộ cơ quan Khối Kinh tế Trung ương. Tháng 10/2006,
Đảng bộ cơ quan Tổng cục Du lịch đã tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ X. Tại
thời điểm này toàn Đảng bộ có 14 chi bộ trực thuộc, với gần 200 đảng viên. Đến
tháng 01/2008, Đảng bộ cơ quan Tổng cục Du lịch được sáp nhập vào Đảng bộ
Bộ VHTTDL.
b) Thời kỳ từ 2008 đến nay
Ngày 18/01/2008 Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương ban hành Quyết
định số 309-QĐ/ĐUK thành lập Đảng bộ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trên
cơ sở tổ chức đảng và đảng viên của Đảng bộ cơ quan Bộ Văn hoá - Thông tin,
Đảng bộ cơ quan Uỷ ban Thể dục, Thể thao, Đảng bộ cơ quan Tổng cục Du lịch
và Chi bộ Vụ Gia đình thuộc Đảng bộ cơ quan Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ
em. Hội nghị hợp nhất, thành lập Đảng bộ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch diễn
ra tại cơ quan Bộ vào ngày 25/01/2008. Đảng bộ Bộ Bộ VHTTDL là Đảng bộ
cấp trên cơ sở, trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương. Ngay sau khi
thành lập, Đảng uỷ Bộ đã xây dựng và ban hành các Quy chế làm việc và
Chương trình công tác 2008 - 2010.
Về cơ cấu tổ chức, Đảng bộ Bộ VHTTDL gồm 75 tổ chức cơ sở đảng

trong đó có 25 Đảng bộ và 39 chi bộ cơ sở, 11 chi bộ trực thuộc Đảng ủy bộ và
139 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở với trên 2.300 đảng viên; hoạt động trên 3
loại hình: cơ quan quản lý nhà nước (23 cơ sở); đơn vị sự nghiệp (33 cơ sở) và
doanh nghiệp (19 cơ sở). Để thuận tiện cho sinh hoạt, các cấp ủy trực thuộc
Đảng bộ được phân chia thành 08 khối đơn vị công tác, bao gồm: Khối tham
mưu tổng hợp (12 cơ sở); Khối Điện ảnh (12 cơ sở); Khối Nghệ thuật biểu diễn
(15 cơ sở); Khối Di sản, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh (10 cơ sở); Khối Nghiên cứu, Báo
chí, Xuất bản báo chí (13 cơ sở); Khối TDTT (17 cơ sở); Khối Du lịch (12 cơ
sở) và Khối Doanh nghiệp (07 cơ sở).
Tại Quyết định 309-QĐ/ĐUK ngày 18/01/2008 Đảng bộ Khối các cơ
quan Trung ương chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ VHTTDL nhiệm kỳ 2008
- 2010 có 27 uỷ viên, Ban Thường vụ có 09 uỷ viên, Ủy ban kiểm tra có 05 ủy
viên. Đồng chí Nguyễn Danh Thái, ủy viên Ban cán sự Đảng, Thứ trưởng
Thường trực Bộ VHTTDL giữ chức Bí thư đảng ủy; có 03 đồng chí Phó Bí thư.
Uỷ ban kiểm tra của Đảng ủy có 05 đồng chí, trong đó 02 đồng chí là uỷ viên
Ban chấp hành. Văn phòng Đảng uỷ có 05 cán bộ chuyên trách, trong đó 02
đồng chí trong Ban Chấp hành, Ban Tổ chức có 04 đồng chí, Ban Dân vận 04
đồng chí, Ban Tuyên giáo có 03 đồng chí.
25


×