ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LỤC THỊ MINH NGỌC
NÂNG CAO VAI TRÕ CỦA SỞ VHTT&DL TRONG CÔNG TÁC
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
CỦA TỈNH CAO BẰNG
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP LỄ HỘI PHÁO HOA,
HUYỆN QUẢNG UYÊN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH KHOA HỌC QUẢN LÝ
Hà Nội, 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LỤC THỊ MINH NGỌC
NÂNG CAO VAI TRÕ CỦA SỞ VHTT&DL TRONG CÔNG TÁC
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
CỦA TỈNH CAO BẰNG
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP LỄ HỘI PHÁO HOA,
HUYỆN QUẢNG UYÊN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH KHOA HỌC QUẢN LÝ
ĐÀO TẠO THÍ ĐIỂM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Thị Vân Chi
Hà Nội, 2014
LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở khoa Khoa học Quản lý đến nay,
để hoàn thành bài luận văn tác giả đã nhận được nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của
quý thầy cô, gia đình và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi đến quý thầy cô ở Khoa Khoa học Quản
lý và các thầy cô trong Tổ bộ môn Lý luận và phương pháp quản lý đã truyền đạt
vốn kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Xin gửi lời cảm ơn tới Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Tỉnh Cao Bằng,
Phòng Nghiệp vụ văn hóa Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Tỉnh Cao Bằng, phòng
Văn hóa – Thông tin huyện Quảng Uyên đã nhiệt tình cung cấp thông tin, tài liệu để
tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và động viên trong suốt thời
gian tác giả thực hiện luận văn.
Đặc biệt tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn PGS.TS
Đinh Thị Vân Chi, phó hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã hướng dẫn,
chỉ bảo tận tình để tác giả hoàn thành khóa luận.
Kính chúc các thầy cô, quý cơ quan, gia đình và bạn bè mạnh khỏe, hạnh
phúc và thành công. Một lần nữa tác giả xin chân thành cảm ơn!
Học viên
Lục Thị Minh Ngọc
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 3
3. Mục tiêu nghiên cứu 5
4. Phạm vi nghiên cứu 6
5. Mẫu khảo sát 6
6. Câu hỏi nghiên cứu 6
7. Giả thuyết nghiên cứu 6
8. Phương pháp nghiên cứu 7
9. Kết cấu của luận văn 8
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÕ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC CỦA
SỞ VHTT&DL TỈNH CAO BẰNG TRONG CÔNG TÁC BẢO TỒN, PHÁT
HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG 9
1.1. Một số khái niệm chính 9
1.1.1. Quản lý 9
1.1.2. Quản lý nhà nước 11
1.1.3. Văn hóa 13
1.1.4. Quản lý nhà nước về văn hóa 16
1.2. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội truyền thống 21
1.2.1. Bảo tồn và phát huy 21
1.2.2. Lễ hội và lễ hội truyền thống 24
CHƢƠNG 2: KẾT QUẢ THỰC HIỆN VAI TRÕ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
CỦA SỞ VHTT&DL TỈNH CAO BẰNG TRONG CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA LỄ HỘI PHÁO
HOA HUYỆN QUẢNG UYÊN 31
2.1. Giới thiệu chung về điều kiện tự nhiên xã hội của tỉnh Cao Bằng và Sở
VHTT&DL tỉnh Cao Bằng 31
2.1.1.Giới thiệu về điều kiện tự nhiên xã hội của tỉnh Cao Bằng 31
2.1.2. Giới thiệu về Sở VHTT&DL tỉnh Cao Bằng 33
2.2. Lễ hội Pháo hoa truyền thống huyện Quảng Uyên 35
2.2.1. Vài nét về lễ hội Pháo hoa truyền thống 35
2.2.2. Nội dung, công tác tổ chức lễ hội Pháo hoa 38
2.3. Vai trò quản lý Nhà nước của Sở VHTT&DL tỉnh Cao Bằng 44
2.3.1. Tham mưu cho UBND tỉnh ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quản lý
về lễ hội, các chính sách đối với việc tổ chức lễ hội 45
2.3.2. Vai trò chỉ đạo, điều hành, hỗ trợ 46
2.3.3. Sở VHTT&DL giữ vai trò nòng cốt trong việc giữ gìn và phát huy văn hóa
truyền thống trên địa bàn tỉnh 47
2.4. Vai trò quản lý của Sở VHTT&DL đối với lễ hội Pháo hoa truyền thống 48
2.4.1. Vai trò trong quản lý lễ hội 48
2.4.2. Vai trò của Sở VHTT&DL trong tổ chức phục dựng lễ hội 51
2.4.3. Vai trò trong bảo tồn có chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc
trong lễ hội 54
2.4.5. Vai trò trong việc phối hợp với các đơn vị liên quan 60
2.5. Đánh giá kết quả thực hiện vai trò của Sở VHTT &DL trong công tác bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa truyền thống của lễ hội Pháo hoa huyện Quảng Uyên 62
2.5.1. Những thành tựu đạt được 62
2.5.2. Những hạn chế trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền
thống lễ hội Pháo hoa huyện Quảng Uyên 70
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÕ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
CỦA SỞ VHTT&DL TỈNH CAO BẰNG TRONG CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG LỄ HỘI PHÁO HOA
HUYỆN QUẢNG UYÊN 75
3.1. Nguyên nhân hạn chế của Sở VHTT&DL trong công tác bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa truyền thống lễ hội Pháo hoa huyện Quảng Uyên. 75
3.1.1. Nguyên nhân khách quan 75
3.1.2. Nguyên nhân chủ quan 76
3.2. Các thách thức trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Pháo
hoa truyền thống 77
3.3. Phương hướng chung bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội truyền thống 78
3.3.1. Phát huy vai trò của người dân và cộng đồng 79
3.3.2. Tiếp tục hoàn thiện và phổ biến hệ thống văn bản quy pháp về di tích và
lễ hội. 80
3.3.3. Quản lý, tổ chức và khai thác lễ hội, phát triển du lịch lễ hội, có chính sách
đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học về lễ hội. 80
3.3.4. Nhận thức đúng đắn vấn đề xây dựng mô hình lễ hội. 81
3.3.5. Thống kê, khảo sát, đánh giá các lễ hội 82
3.3.6. Về chính sách đầu tư tài chính 82
3.4. Giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý nhà nước của Sở VHTT&DL trong
công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống lễ hội Pháo hoa huyện
Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng. 83
3.4.1. Nhóm giải pháp về chính sách pháp luật 83
3.4.2. Nhóm giải pháp về tổ chức 84
3.4.3. Nhóm giải pháp về tuyên truyền giáo dục 88
KẾT LUẬN 93
KHUYẾN NGHỊ 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
PHỤ LỤC 103
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
Viết đầy đủ
DN
Doanh nghiệp
QLNN
Quản lý nhà nước
Sở VHTT&DL
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
UBND
Ủy ban nhân dân
UBMTTQ
Ủy ban mặt trận tổ quốc
VHTT
Văn hóa thông tin
HĐVH
Hội đồng văn hóa
PTTH
Phát thanh truyền hình
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống QLNN về văn hóa 20
Hình 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Sở VHTT&DL tỉnh Cao Bằng 33
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Biểu đồ 2.1: Đánh giá giá trị văn hóa truyền thống của lễ hội Pháo hoa Quảng Uyên 48
Biểu đồ 2.2: Đánh giá về việc huy động nguồn lực tham gia lễ hội 49
Biểu đồ 2.3: Đánh giá về việc ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực trong lễ hội 50
Biểu đồ 2.4: Đánh giá về việc khôi phục những nghi thức truyền thống 52
Biểu đồ 2.5: Đánh giá về việc phục dựng phần lễ trọng thể, tổ chức phần hội vui
tươi lành mạnh 53
Biểu đồ 2.6: Đánh giá về hình thức tuyên truyền lễ hội Pháo hoa 57
Bảng 2.1: Đánh giá nội dung tổ chức của lễ hội Pháo hoa 54
Bảng 2.2: Việc giới thiệu lễ hội đến với người dân 56
Bảng 2.3: Đánh giá kết quả tuyên truyền về văn bản pháp luật và thực hiện nếp sống
văn hóa trong lễ hội của Sở VHTT&DL 59
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở thực tiễn
Lễ hội truyền thống là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần, bắt nguồn
và phát triển từ thực tiễn hoạt động của đời sống xã hội, sự giao lưu tiếp biến văn
hóa của cộng đồng. Lễ hội truyền thống chứa đựng tất cả những khát vọng những
ước muốn tâm linh vừa linh thiêng, vừa trần tục của cộng đồng dân cư trong những
hoàn cảnh cụ thể. Đây là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân tộc, được lưu
truyền qua hàng nghìn năm lịch sử.
Muốn nghiên cứu văn hóa truyền thống, lẽ đương nhiên là phải tìm đến lễ
hội, đặc biệt là lễ hội truyền thống. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống
của dân tộc là một hoạt động đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Muốn bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa cần phải nhận diện, đánh giá mọi giá trị văn hóa truyền thống mà
lễ hội truyền thống là một phương tiện tiêu biểu, tồn tại trong những vùng văn hóa
cụ thể.
Kho tàng văn hoá vật thể và phi vật thể của các dân tộc ở Cao Bằng đa dạng
và phong phú, thể hiện qua những lễ hội văn hoá đặc sắc. Nhìn chung các lễ hội đều
mang tính nhân văn sâu sắc hướng tới cái thiện, đó là cầu phúc, cầu lộc, cầu mùa,
trừ tà, mong muốn cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp. Lễ hội Pháo hoa là một trong
những lễ hội lớn và quy mô trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, qua lễ hội các giá trị văn
hóa truyền thống của các dân tộc được khơi dậy, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa
của đồng bào. Lễ hội Pháo hoa thu hút đông đảo đồng bào các dân tộc thiểu số trên
địa bàn và du khách thập phương tới dự. Phần lễ đơn giản, phần hội lại hết sức náo
nhiệt, sôi động. Lễ hội Pháo hoa được tổ chức theo nghi lễ truyền thống và có nhiều
trò chơi dân gian với những giá trị lịch sử văn hoá đặc sắc, đã góp phần làm nên
hình thức sinh hoạt văn hoá lành mạnh, đồng thời là dịp để cho các đồng bào dân
tộc có dịp được trổ tài, được khoe sức và đặc biệt là gửi đến một thông điệp mang ý
nghĩa rất nhân văn.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây những giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp của lễ hội Pháo hoa truyền thống đang dần dần bị biến dạng, bị mai một, mất đi
phần nào nét riêng vốn có của lễ hội. Việc xuất hiện ngày càng nhiều hoạt động
2
ngoài luồng, phi văn hóa, những hình ảnh phản cảm như xóc đĩa, tổ tôm, mê tín dị
đoan đã ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh của lễ hội. Nhiều người đến với lễ hội
chỉ để thỏa chí tò mò, đi chơi hội cho vui, chứ không hề biết lễ hội này có nguồn
gốc như thế nào, thờ vị thần gì, có các trò chơi ra làm sao, phần lễ bao gồm những
gì. Đặc biệt các bạn trẻ dần như đã quên mất giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
của lễ hội. Bởi vậy, cần đánh giá đúng thực trạng vai trò của Sở Văn hóa Thể thao
và Du lịch (VHTT&DL), cơ quan quản lý lễ hội đã đưa ra những chính sách, cách
thức tổ chức quản lý như thế nào. Từ đó có các giải pháp để nâng cao hơn nữa vai
trò của Sở, nhằm bảo tồn và phát huy hơn nữa giá trị văn hóa truyền thống của lễ
hội Pháo hoa trong sự phát triển toàn diện đất nước. Đây là nhiệm vụ quan trọng, có
ý nghĩa khoa học và thực tiễn hiện nay.
1.2. Cơ sở lý luận
Xây dựng và phát triển văn hóa luôn được Đảng, Nhà nước ta xác định là một
bộ phận cấu thành quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Tại đại hội lần thứ VII,
Đảng ta đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực và là mục tiêu
của sự phát triển kinh tế xã hội”. Tư tưởng này tiếp tục được khẳng định ở các kỳ
đại hội VIII, IX, qua đó ta khẳng định được vai trò quan trọng của văn hóa trong đời
sống con người.
Nhận thức rõ điều đó, Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã
khẳng định: “Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở
hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của
dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy
giá trị các di sản văn hóa với phát triển du lịch và hoạt động thông tin nhằm truyền
bá sâu rộng các giá trị văn hóa truyền thống trong công chúng, đặc biệt là thế hệ
trẻ”. (Báo cáo chính trị tại Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ XI).
Việc kế thừa văn hóa truyền thống là cần thiết, song ở nhiều nơi lại thiếu chọn
lọc, thiếu tính phê phán và có xu hướng làm méo mó đi. Vấn đề đáng quan tâm hơn
cả là làm sao tổ chức tốt lễ hội, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của đồng bào
các dân tộc, làm thế nào để gìn giữ những tinh hoa văn hóa của lễ hội truyền thống
và xóa bỏ được những hủ tục lạc hậu, phát huy được yếu tố tích cực của lễ hội trong
việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, bảo vệ an ninh, bảo vệ môi trường.
3
Do đó, cơ quan tổ chức, quản lý lễ hội có vai trò vô cùng quan trọng trong
bảo tồn kế thừa và phát huy giá trị của lễ hội truyền thống. Tìm hiểu về thực trạng
và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Sở VHTT&DL tỉnh Cao Bằng
trong việc bảo tồn vào phát huy giá trị văn hóa truyền thống là một vấn đề cấp bách,
bảo đảm cho lễ hội truyền thống ngày càng thực sự là nhu cầu đời sống xã hội, sáng
tạo và làm phong phú hơn những mô hình mới phù hợp với thời kỳ hội nhập. Bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc là một trong những nhiệm
vụ quan trọng trong thời kỳ hội nhập.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: Nâng cao vai trò của Sở
VHTT và DL trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống
của tỉnh Cao Bằng (Nghiên cứu trƣờng hợp lễ hội Pháo hoa, huyện Quảng
Uyên) làm luận văn tốt nghiệp, với mong muốn bài luận văn này sẽ góp phần tìm ra
được hướng đi mới, cho công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội truyền
thống trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong những năm tới.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu về lễ hội
Nghiên cứu về lễ hội không phải là một đề tài mới. Từ trước tới nay đã có nhiều
tác giả nghiên cứu về vấn đề này. Có thể tập hợp và phân loại thành các nhóm sau:
- Nhóm công trình nghiên cứu theo khuynh hướng miêu tả, tường thuật lại
từng lễ hội cụ thể:
Nổi trội nhất và có số lượng công trình nhiều nhất như các công trình của tác
giả Thạch Phương - Lê Trung Vũ, xuất bản năm 1995 có tựa đề: 60 lễ hội truyền
thống của người Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Nguyễn Chí Bền (
trưởng ban tuyển chọn) xuất bản sách: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam, Nxb
Văn hóa Dân tộc và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, năm 2000…Các công
trình nghiên cứu trên đây chủ yếu dừng ở việc miêu tả và giải nghĩa các lễ hội.
- Nhóm công trình nghiên cứu lễ hội theo khuynh hướng bình diện tổng thể:
Tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng này là GS. Đinh Gia Khánh với các
công trình ý nghĩa xã hội và văn hóa của hội lễ dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội[14] và Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội[15];
4
Một trong những công trình khác đánh giá tương đối đầy đủ về thực trạng lễ
hội truyền thống Việt Nam là đề tài khoa học cấp Bộ Văn hóa – Thông tin của các
tác giả Nguyễn Thu Linh và Phan Văn Tú về Quản lý lễ hội cổ truyền: thực trạng
và giải pháp [18]. Nhóm nghiên cứu nhận xét: “Con người các thế hệ đã biết và
hiểu về lịch sử- văn hóa dân tộc, địa phương mình qua các trải nghiệm hội hè. Rất
nhiều trò chơi, trò diễn dân gian có giá trị tìm lại được môi trường phục sinh và tôn
tạo. Hàng loạt các nghề thủ công – mỹ nghệ, ẩm thực truyền thống…được củng cố
và phát triển tạo ra những cơ hội việc làm và thu nhập cho không ít lao động, góp
phần bảo vệ di sản công nghệ dân gian đang có cơ trở thành hàng hóa có giá trị
trong xã hội hiện đại” [18,tr.44]
Công trình nghiên cứu của tác giả Đoàn Minh Châu, công trình của ông vốn
là một luận án TS chuyên ngành lịch sử văn hóa và nghệ thuật, khoa học lịch sử bảo
vệ năm 2002 tại Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam. Năm 2010 luận án của ông
được in thành sách với nhan đề Cấu trúc lễ hội đương đại, mục tiêu của ông là
nghiên cứu cấu trúc lễ hội đương đại, cấu trúc lễ hội truyền thống với ông chỉ là đối
tượng để so sánh.
2.2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu về lễ hội Pháo hoa, huyện Quảng Uyên
Thời gian qua, đã có nhiều nhà nghiên cứu trung ương và địa phương nghiên
cứu, tìm hiểu, làm rõ về các lễ hội trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Tiêu biểu như công
trình nghiên cứu của tác giả Chương Hồng Chiến (chủ nhiệm), với đề tài “Phục
dựng Lễ hội nàng Hai xã Kim Đồng, huyện Thạch An” do Sở VHTT&DL thực hiện,
2009; Tác giả Phùng Chí Kiên ( chủ biên), với đề tài “Phục dựng lễ hội chùa Trùng
phúc huyện Hạ Lang, Thị trấn Hạ Lang” do Bảo tàng tỉnh Cao Bằng thực hiện,
2012… Song chủ yếu những công trình nghiên cứu, những bài viết mới chỉ dừng lại
ở giới thiệu hoặc miêu tả dưới góc độ đơn lẻ từng lễ hội hoặc tập trung vào một số
lễ hội tiêu biểu của tỉnh Đền Vua Lê ( Hòa An), lễ hội đền Kỳ Sầm…Chưa có công
trình nghiên cứu nào đi sâu một cách cặn kẽ và đưa ra được hướng giải pháp để bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của lễ hội một cách triệt để.
Công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống lễ hội nói chung và
lễ hội Pháo hoa huyện Quảng Uyên nói riêng đã được đề cập nhiều trên các sách
báo, tạp chí, có nhiều bài viết về lễ hội nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc. Tiêu biểu là bài viết: “Lễ hội truyền thống tiêu biểu tỉnh Cao Bằng”; “Lễ
5
hội Cao Bằng cần gìn giữ ” của Hoàng Kim Tuyến - Trưởng phòng nghiệp vụ văn
hóa Sở VHTT&DL Cao Bằng; bài tham luận “Thực trạng hoạt động của lễ hội các
dân tộc thiểu số tỉnh Cao Bằng” hay bài viết “Lễ hội ở Cao Bằng” của Hà Văn
Hiển Giám đốc Sở VHTT&DL; PGS.TS. Hồ Sĩ Vịnh với bài viết:“Cao Bằng: Lễ
hội Pháo hoa Quảng Uyên” Song chủ yếu các bài viết mới quan tâm tới thực
trạng của lễ hội, còn về vai trò của cơ quan quản lý nhằm bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa truyền thống lễ hội đang dừng lại ở mức độ rất hạn chế.
Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa của Bộ VHTT &DL,
Sở VHTT&DL tỉnh Cao Bằng đã phối hợp với Ủy ban Nhân dân (UBND) huyện
Quảng Uyên thực hiện Dự án “Bảo tồn và phục dựng lễ hội Pháo hoa truyền thống
tại thị trấn Quảng Uyên, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng” năm 2008. Nhìn
chung công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc khảo cứu, thống kê giới
thiệu sơ lược về lễ hội, chưa đề cập một cách có hệ thống về vai trò của cơ quản lý
lễ hội và chưa đưa ra được những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo tồn và phát huy lễ
hội trong giai đoạn hiện nay.
Chính sự thiếu vắng những nội dung trên đã gợi mở cho tác giả thực hiện đề
tài: “Nâng cao vai trò của Sở VHTT&DL trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa truyền thống của tỉnh Cao Bằng ( Nghiên cứu trường hợp lễ hội Pháo hoa,
huyện Quảng Uyên)”. Hy vọng rằng công trình này sẽ góp một phần nhỏ vào việc đánh
giá đúng thực trạng của lễ hội Pháo hoa, phân tích vai trò của Sở VHTT&DL tỉnh Cao
Bằng trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống và đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của Sở VHTT&DL trong công tác bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa quản lý lễ hội trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vai trò của Sở VHTT&DL Cao
Bằng trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, trên cơ sở đó
đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của Sở VHTT&DL trong
công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của lễ hội Pháo hoa huyện
Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ các khái niệm, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của lễ hội
Pháo hoa;
6
+ Đánh giá thực trạng của lễ hội, những hoạt động của Sở VHTT&DL tỉnh
Cao Bằng trong công tác quản lý lễ hội và các nhân tố tác động đến công tác bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống;
+ Phân tích vai trò của Sở VHTT&DL trong công tác bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa truyền thống lễ hội Pháo hoa huyện Quảng Uyên;
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng vai trò của Sở VHTT&DL trong công
tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống lễ hội Pháo hoa huyện Quảng
Uyên, tỉnh Cao Bằng.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của Sở VHTT&DL Cao Bằng trong công tác
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, cụ thể là nghiên cứu trường hợp lễ
hội Pháo hoa huyện Quảng Uyên.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Giới hạn về không gian: Thị trấn Quảng Uyên, huyện Quảng Uyên, tỉnh
Cao Bằng.
+ Giới hạn về thời gian: Nghiên cứu lễ hội cả truyền thống và hiện đại, trong
đó thời gian hiện đại giới hạn trong khoảng từ năm 2007 đến nay. ( Mốc thời gian
thực hiện dự án “Bảo tồn và phục dựng lễ hội Pháo hoa truyền thống tại thị trấn
Quảng Uyên, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng”).
5. Mẫu khảo sát
- Nghiên cứu trường hợp lễ hội Pháo hoa, huyện Quảng Uyên
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng vai trò của Sở VHTT&DL trong việc bảo tồn vào phát huy giá trị
văn hóa truyền thống lễ hội Pháo hoa huyện Quảng Uyên là như thế nào?
- Những giải pháp nào giúp nâng cao vai trò của Sở VHTT&DL trong việc bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống lễ hội Pháo hoa huyện Quảng Uyên?
7. Giả thuyết nghiên cứu
- Trong những năm qua Sở VHTT&DL đã thực hiện khá tốt vai trò quản lý
văn hóa đối với lễ hội Pháo hoa truyền thống, cụ thể: trong việc quản lý lễ hội, tổ
chức phục dựng lễ hội, bảo tồn lễ hội, vận động tuyên truyền giáo dục cộng đồng,
phối hợp với các đơn vị liên quan. Nhìn chung lễ hội được diễn ra thành công theo
đúng kế hoạch của ban tổ chức lễ hội đề ra, thể hiện trang nghiêm, trọng thể, an
toàn, tiết kiệm.
7
- Các giải pháp được đề xuất như sau: Hoàn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ
kinh phí, chính sách hỗ trợ về mặt chuyện môn đối với việc tổ chức và quản lý lễ
hội; Xây dựng quy chế tổ chức lễ hội phù hợp với nội dung, tính chất của lễ hội;
Quán triệt quan điểm, phương hướng trong nhận thức của lãnh đạo Sở, lãnh đạo
chính quyền, các ban ngành đoàn thể; Kiện toàn bộ máy tổ chức và cơ cấu nhân sự
quản lý về văn hóa; Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra sử lý sai phạm trong
công tác tổ chức và quản lý lễ hội; Đổi mới nội dung và tăng cường hình thức tuyên
truyền về văn bản pháp luật, về thực hiện nếp sống văn hóa trong lễ hội, về giá trị di
tích của lễ hội; Tăng cường công tác đào tạo cán bộ quản lý văn hóa; Tăng cường sự
hợp tác, phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà Nước về công tác bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa truyền thống.
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng kết quả nghiên cứu của dự
án “Bảo tồn và phục dựng lễ hội Pháo hoa truyền thống tại thị trấn Quảng Uyên,
huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng năm 2008”. Luận văn dựa trên quan điểm duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử: Khi nghiên cứu về các giá trị, thực trạng của lễ
hội tác giả đã đặt lễ hội trong sự vận động và phát triển của chính lễ hội. Nghiên
cứu lễ hội trong quá trình lịch sử, hiện đại và dự báo cho tương lai, tác giả đã dựa
trên quá trình vận động của xã hội.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như:
+ Phương pháp thực địa và thu thập tài liệu: Đây là phương pháp dùng để
khảo sát thực tế, áp dụng việc nghiên cứu lý luận gắn liền với thực tiễn bổ sung cho
lý luận ngày càng hoàn chỉnh hơn. Quá trình thực địa giúp cho tác giả sưu tầm và
thu thập tài liệu được phong phú thêm. Đây là phương pháp quan trọng giúp tác giả
tiếp cận được thông tin một cách chính xác, thiết lập được số liệu cho việc hoàn
thiện đề tài.
+ Phương pháp điều tra xã hội học: Với phương pháp này tác giả đã sử dụng
“Bảng khảo sát đánh giá về công tác tổ chức và quản lý lễ hội Pháo hoa” và mẫu
khảo sát là 150 du khách tham gia lễ hội. Nhờ phương pháp này mà tác giả nắm
được phần nào tâm tư, nguyện vọng của người dân địa phương cũng như nhu cầu
của khách về việc tổ chức cũng như quản lý lễ hội.
8
+ Phương pháp phân tích số liệu: Việc phân tích các thông tin và số liệu của “
Bảng khảo sát đánh giá về công tác tổ chức và quản lý lễ hội Pháo hoa” mà tác giả
đã thu thập được trong quá trình điều tra xã hội học được tác giả tiến hành một cách
hệ thống. Kết quả nghiên cứu của phương pháp này mang lại cơ sở khoa học cho
việc thực hiện các mục tiêu dự báo, các chương trình phát triển, các chiến lược và
giải pháp nhằm phát huy và gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống của lễ hội, trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài mà tác giả đang thực hiện.
+ Phương pháp nghiên cứu logic lịch sử: Phương pháp này giúp tác giả đi sâu,
tái dựng được không khí lịch sử, tâm lý, tình cảm của người dân đối với lễ hội. Với
phương pháp này tác giả đã xem xét và trình bày quá trình phát triển của lễ hội Pháo
hoa theo một trình tự liên tục về thời gian, làm sáng tỏ các mối liên hệ đa dạng của
lễ hội đối với môi trường xung quanh. Tác giả đã tái hiện lại không khí, các sự kiện
lịch sử của lễ hội một cách phong phú, đa dạng nhưng vẫn đảm bảo được tính khách
quan và tính xác thực trong việc tái hiện lịch sử.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì phần nội dung
gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về vai trò quản lý nhà nước của Sở Văn hóa Thể
Thao và Du lịch Tỉnh Cao Bằng trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống.
Chương 2: Kết quả thực hiện vai trò quản lý nhà nước của Sở VHTT&DL
trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống lễ hội Pháo hoa
huyện Quảng Uyên.
Chương 3: Giải pháp nâng cao vai trò quản lý nhà nước của Sở VHTT&DL
Tỉnh Cao Bằng trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống.
9
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÕ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC CỦA
SỞ VHTT&DL TỈNH CAO BẰNG TRONG CÔNG TÁC BẢO TỒN, PHÁT
HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
1.1. Một số khái niệm chính
1.1.1. Quản lý
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả đã đưa ra
giải thích không giống nhau về quản lý. Các trường phái quản lý học đã đưa ra
những định nghĩa về quản lý như sau:
F.W Taylor (1856-1915), một trong những người đầu tiên khai sinh ra khoa
học quản lý và là “ông tổ” của trường phái “ quản lý theo khoa học”, tiếp cận quản
lý dưới góc độ kinh tế - kỹ thuật đã cho rằng: Quản lý là hoàn thành công việc của
mình thông qua người khác và biết được một cách chính xác họ đã hoàn thành công
việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.[40]
Henry Fayol (1841-1925), ông là một nhà quản lý và lý thuyết gia về quản
trị, là người đầu tiên tiếp cận quản lý theo quy trình và người có tầm ảnh hưởng to
lớn trong lịch sử tư tưởng quản lý từ thời kỳ cận – hiện đại tới nay, ông quan niệm
rằng: Quản lý là một tiến trình bao gồm tất cả các khâu: lập kế hoạch, tổ chức,
phân công điều khiển và kiểm soát các nỗ lực của cá nhân, bộ phận và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực vật chất khác của tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra.[40]
Harold Koontz, Cyri O’donnell và Heinz Weihrich thì lại cho rằng:
“ Quản lý là một hoạt động thiết yếu bảo đảm sự hoạt động nỗ lực của các cá nhân
nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức”. [12, tr.33]
Ngoài ra còn có rất nhiều quan điểm khác nhau của các tác giả về quản lý như:
Từ điển Tiếng Việt - Viện ngôn ngữ học định nghĩa:“Quản lý là trông coi,
giữ gìn theo những yêu cầu nhất định. Là tổ chức và điều hành các hoạt động theo
những yêu cầu nhất định” [29,tr.772].
Giáo trình quản lý hành chính Nhà nước của Học viện hành chính quốc gia
chỉ rõ: “Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi
hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích
đã đề ra và đúng ý chí của người quản lý”. [10, tr.8].
Tác giả Hồ Văn Vĩnh cho rằng: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có
hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề
ra”[40, tr15].
10
Theo tác giả Đỗ Hoàng Toàn thì: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định
hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm
năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến
chuyển của môi trường” [31, tr.43]
Một cách tổng quát, quản lý là quá trình “tổ chức và điều khiển các hoạt
động theo những yêu cầu nhất định”, đó là sự kết hợp giữa tri thức và lao động.
Dưới góc độ chính trị: quản lý được hiểu là hành chính, là cai trị; nhưng dưới góc
độ xã hội: quản lý là điều khiển, là chỉ huy. Dù dưới góc độ nào đi chăng nữa, quản
lý vẫn phải dựa trên những cơ sở, nguyên tắc đã được định sẵn và nhằm đạt được
hiệu quả của việc quản lý.
Quản lý là một lĩnh vực rộng, đa dạng, phức tạp và luôn biến đổi cùng với sự
thay đổi của những điều kiện kinh tế xã hội ở những giai đoạn nhất định. Cùng với
đó là sự phát triển của khoa học công nghệ và khả năng ứng dụng vào quản lý làm
xuất hiện các trường phái mới. Do vị thế, chỗ đứng, lập trường của các nhà tư tưởng
quản lý không giống nhau do vậy có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý.
Xuất phát từ nhiều quan niệm khác nhau về định nghĩa quản lý, quan niệm
của tác giả về quản lý như sau: “Quản lý là một hoạt động thực tiễn đặc biệt của
con người, trong đó chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý bằng các công
cụ và phương pháp khác nhau, theo những quy trình khác nhau, nhằm thực hiện
mục tiêu của tổ chức trong điều kiện biến động khác nhau của môi trường”.
+ Chủ thể quản lý: là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể luôn là cá
nhân hoặc tổ chức. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng các công cụ
với những phương pháp thích hợp theo những nguyên tắc nhất định.
+ Đối tượng quản lý: Tiếp nhận trực tiếp sự tác động của chủ thể quản lý.
Tùy theo từng loại đối tượng khác nhau mà người ta chia thành các dạng quản lý
khác nhau.
+ Khách thể quản lý: chịu sự tác động hay chịu sự điều chỉnh của chủ thể
quản lý, đó là hành vi của con người và các quá trình xã hội.
+ Mục tiêu quản lý: là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất định
do chủ thể quản lý định trước. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực hiện các tác
động quản lý cũng như lựa chọn các phương pháp thích hợp.
11
Quản lý ra đời chính là nhằm đến hiệu quả lớn hơn, năng suất cao hơn trong
công việc. Thực chất của quản lý con người trong tổ chức nhằm đạt mục tiêu của tổ
chức với hiệu quả cao nhất.
1.1.2. Quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước ( QLNN) xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, là
quản lý công việc của nhà nước. Nội hàm của QLNN thay đổi phụ thuộc vào chế độ
chính trị , trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch
sử. Ngày nay, QLNN xét về mặt chức năng bao gồm các hoạt động lập pháp của cơ
quan lập pháp, hoạt động hành chính ( chấp hành và điều hành) của Chính phủ và
hoạt động tư pháp của hệ thống tư pháp.
Trong hệ thống xã hội , tồn tại rất nhiều chủ thể tham gia quản lý xã hội như:
Đảng Cộng Sản Việt Nam; Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, các
tổ chức xã hội khác và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…trong hoạt
động quản lý của các chủ thể khác nhau đó thì QLNN có những điểm khác biệt.
Theo nghĩa rộng: QLNN là hoạt động có tổ chức bằng pháp luật của bộ máy
nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội, hành vi của công dân, mọi tổ chức xã
hội và phát triển xã hội theo những mục tiêu đã định. QLNN không phải là quản lý
xã hội của bất cứ chủ thể nào, mà quản lý của một chủ thể đặc biệt với quyền lực
công. Biểu hiện của nó trước hết ở những tác động có ý thức vào quá trình phát
triển xã hội, vào nhận thức của con người.
Theo nghĩa hẹp: QLNN là hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước.
Hoạt động đó được đặc trưng bởi các yếu tố có tính tổ chức, được thực hiện trên cơ
sở những mục tiêu đã định trên các mặt của đời sống xã hội và để thi hành pháp
luật, chủ yếu được giao cho các cơ quan hành chính và bộ máy trực thuộc. Nhưng
trong một phạm vi và mức độ nhất định, một số tổ chức xã hội cũng tham gia thực
hiện hoạt động QLNN khi được nhà nước trao quyền.
Với khái niệm vừa nêu trên, hoạt động QLNN được giới hạn trong hoạt động
chấp hành và điều hành của cơ quan hành pháp là chủ yếu. Một số nhà khoa học
quản lý lại cho rằng: QLNN là sự tác động của tổ chức, điều chỉnh bằng quyền lực
nhà nước đối với các quá trình xã hội, được tiến hành một cách liên tục, dựa trên cơ
sở khoa học, thông qua bộ máy nhà nước và các công cụ quyền lực của nhà nước
nhằm thực hiện các mục tiêu, kế hoạch được dự kiến trước, đảm bảo quá trình phát
triển của xã hội.
12
* Chủ thể QLNN:
Trong cơ chế tổng hợp quản lý đất nước, chủ thể QLNN là các cơ quan trong
trong bộ máy Nhà nước thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp,tư pháp. Sự quản
lý của nhà nước trên cơ sở đại diện cho toàn xã hội, cho ý chí và nguyện vọng của
toàn dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo
pháp luật. Hoạt động QLNN được thực hiện bởi hệ thống cơ quan Nhà nước đứng
đầu là Chính phủ. Chính phủ cùng với các cơ quan của chính phủ là hệ thống cơ
quan được thành lập để chuyên thực hiện hoạt động QLNN.
* Đối tượng QLNN:
Là một phạm trù gắn liền với sự xuất hiện của nhà nước, QLNN ra đời với
tính chất là hoạt động quản lý xã hội, sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Cụ thể, là toàn bộ dân cư và các tổ chức trong phạm vi tác động
quyền lực nhà nước.
* Nội dung của QLNN bao gồm
- Mục đích của QLNN là mục đích hoạt động chung của các cơ quan nhà
nước. Mục đích chung của hoạt động QLNN của tất cả các cơ quan nhà nước là
thống nhất. Mỗi cơ quan nhà nước có mục đích hoạt động riêng được quy định
trong pháp luật.
- Nhiệm vụ của QLNN là đích cụ thể cần đạt được với những nội dung cụ thể
được vạch ra tương ứng với quản lý các ngành, lĩnh vực cụ thể, các đối tượng cụ
thể. Để đạt được mục đích quản lý, phải thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau ở
nhiều cấp độ khác nhau. Nhiệm vụ quản lý của các cơ quan nhà nước có thể phân
loại thành những nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên được qui định trong văn bản pháp
luật, và nhiệm vụ mang tính tạm thời, không cơ bản, chỉ tồn tại trong từng giai đoạn
thời điểm nào đó.
- Các mục đích và nhiệm vụ quản lý đạt được là nhờ các chức năng quản lý,
tức là các loại hoạt động quản lý cơ bản. Vì vậy, chức năng quản lý là phương tiện
thực hiện nhiệm vụ quản lý. Mỗi cơ quan nhà nước tham gia thực hiện các chức
năng của nhà nước ở phạm vi khác nhau, nên không thể sắp xếp các cơ quan nhà
nước theo số lượng các chức năng của nhà nước. QLNN có các chức năng chung cơ
bản sau: Chức năng dự báo; Chức năng kế hoạch hóa; Chức năng tổ chức, điều
chỉnh, lãnh đạo; Chức năng điều hành; Chức năng điều hòa – phối hợp, kiểm tra,
thống kê.
13
* Công cụ QLNN
Nhà nước thực hiện chức năng QLNN bằng chính sách và pháp luật . Chính
sách pháp luật được hiểu là những nguyên tắc thực hiện tư tưởng chủ đạo của nhà
nước về chủ trương, đường lối, phương hướng xây dựng và phát triển phù hợp với
mục tiêu phát triển chung của đất nước
Quan điểm của tác giả về QLNN như sau: “QLNN là sự tác động của các
chủ thể mang quyền lực nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật, tới các đối tượng quản
lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội, đối ngoại của nhà nước”.
Bằng chính sách và pháp luật nhà nước trao quyền cho các tổ chức hoặc cá
nhân để họ tiến hành hoạt động quản lý. Điểm khác nhau cơ bản giữa QLNN và các
hình thức quản lý khác là tính quyền lực nhà nước gắn liền với cưỡng chế nhà nước
khi cần. Có thể hiểu rằng QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính
quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh hành vi hoạt động
của con người trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy
Nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn
định và phát triển của xã hội. Trong hoạt động quản lý nhà nước, vấn đề kết hợp các
yếu tố của hoạt động quản lý là rất phức tạp, đòi hỏi các nhà quản lý phải có năng
lực cao với sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ hiện đại.
1.1.3. Văn hóa
Có rất nhiều các tổ chức, các quốc gia và các chuyên gia nghiên cứu về văn
hoá đưa ra các khái niệm về văn hoá. Hiện nay, chưa có một khái niệm nào về văn
hoá được thống nhất tuyệt đối. Có thể đưa ra một số quan niệm, khái niệm và định
nghĩa về văn hoá như sau:
Hội nghị quốc tế về văn hóa ở Mêhicô (1982) để bắt đầu thập kỷ văn hoá
UNESCO. Đã thống nhất đưa ra một khái niệm về văn hoá như sau: “Trong ý nghĩa
rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ
và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã
hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ
bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng”.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “ Văn hóa
nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó
14
chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ
thống giá trị, truyền thống và đức tin.”
Cựu Tổng Giám đốc UNESCO GS Federico Mayor đưa ra định nghĩa: " Văn
hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sông động mọi mặt của cuộc sống
(của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khử cũng như đang diễn ra
trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ thông các giá trị,
truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng địinh bản
sắc riêng của mình".
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau:
Hồ Chí Minh cho rằng: “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về
mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hóa”. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm toàn bộ những gì do con
người sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa của Tylor, văn hóa theo
cách nói của Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về những lĩnh vực liên
quan đến đời sống con người.
Phạm Văn Đồng cho rằng: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng
phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có
liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người
làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo
đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên
ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức
chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”
. Theo định nghĩa này thì văn
hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng
tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở
nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do
UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa:
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ- tổng hợp
các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên
bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn
15
hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền
cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…”;
còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký
hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có
đặc thù riêng”…
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa
đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Quan
điểm của tác giả về văn hóa như sau: Văn hóa là sản phẩm của con người được tạo
ra trong qua trình lao động ( từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi
phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của từng tộc
người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật
khác; và do được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên
văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng. Với cách hiểu này cùng với
những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là nấc thang đưa con người vượt lên trên
những loài động vật khác; và văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra trong quá
trình lao động nhằm mục đích sinh tồn.
Nhìn chung, mọi định nghĩa đều thống nhất văn hoá có các đặc điểm sau:
+ Thứ nhất, văn hoá là sáng tạo của con người, thuộc về con người, những gì
không do con người làm nên không thuộc về khái niệm văn hoá. Từ đó, văn hoá là
đặc trưng căn bản phân biệt con người với động vật, đồng thời cũng là tiêu chí căn
bản phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên. Văn hoá xuất hiện do sự
thích nghi một cách chủ động và có ý thức của con người với tự nhiên, nên văn hoá
cũng là kết quả của sự thích nghi ấy.
+ Thứ hai, sự thích nghi này là sự thích nghi có ý thức và chủ động nên nó
không phải là sự thích nghi máy móc mà thường là sự thích nghi có sáng tạo, phù
hợp với giá trị chân - thiện - mỹ.
+ Thứ ba, văn hoá bao gồm cả những sản phẩm vật chất và tinh thần, chứ
không chỉ riêng tinh thần mà thôi.
+ Thứ tư, văn hoá không chỉ có nghĩa chỉ là văn học nghệ thuật như thông
thường người ta hay nói. Văn học nghệ thuật chỉ là bộ phận cao nhất trong lĩnh vực
văn hoá mà thôi.
16
Trên cơ sở phân tích các quan niệm trên có thể kết luận: Văn hóa là sản
phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa
con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người,
và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá
trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển
của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời
sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do
con người tạo ra.
1.1.4. Quản lý nhà nước về văn hóa
QLNN về văn hóa là: hoạt động của bộ máy nhà nước trong lĩnh vực hành
pháp nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam [10,tr 448] Hay nói một
cách khác, QLNN về văn hóa là quản lý các hoạt động văn hóa bằng chính sách và
pháp luật.
* Quản lý các hoạt động văn hóa bằng chính sách và pháp luật gồm có các
hoạt động sau:
- Hoạt động xây dựng, ban hành các chính sách và văn bản pháp luật về văn hóa.
Chính sách văn hóa được hiểu là tổng thể những nguyên tắc thể hiện tư
tưởng chủ đạo của Nhà nước về đường lối, phương hướng xây dựng và phát triển
nền văn hóa. Chính sách văn hóa đặt ra các nguyên tắc chung của sự nghiệp phát
triển văn hóa phù hợp với mục tiêu phát triển văn hóa chung của đất nước.
Các chính sách về quản lý và phát triển văn hóa hiện nay có thể kể đến: Sáng
tạo các giá trị văn hóa; Bảo tồn, phát huy tài sản văn hóa; Phát triển văn hóa cơ sở;
Giao lưu văn hóa quốc tế; Hiện đại hóa kỹ thuật và phương thức sản xuất, phân phối
sản phẩm văn hóa; Đào tạo, phát triển đội ngũ tri thức, văn nghệ sỹ; Đảm bảo ngân
sách, điều kiện pháp lý cho phát triển văn hóa; Nâng cao tính tự quản và phân cấp
quản lý văn hóa…
Chính sách văn hóa có ý nghĩa quan trọng trong công tác QLNN về văn hóa
song chính sách văn hóa không thể thay thế pháp luật. Nhà nước ban hành các văn
bản pháp luật về văn hóa nhằm phát huy tác dụng của văn hóa tới sự hình thành
nhân cách, nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần của con người.
17
- Hoạt động tổ chức thực hiện của bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về
văn hóa.
Các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về văn hóa là Chính phủ; Bộ
VHTT&DL; UBND là cơ quan hành chính ở địa phương thực hiện chức năng
QLNN về văn hóa trong địa phương của mình theo quy định của pháp luật.
Hoạt động này bao gồm các công việc như đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; xây
dựng và chỉ đạo quy hoạch, kế hoạch; ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản
pháp quy; hướng dẫn, tuyên truyền; thẩm định; cấp giấy phép, chứng nhận…Đây là
những hoạt động trên thực tế để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về văn
hóa theo mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra.
Ngoài ra hoạt động đầu tư tài chính cho văn hóa cũng đóng vai trò đặc biệt
quan trọng. Trong đầu tư tài chính cho văn hóa, xuất phát từ vấn đề quan tâm đến
phát triển nguồn nhân lực nên nhà nước chú trọng đầu tư ngân sách cho giáo dục .
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực văn hóa.
Đây là một hoạt động có vai trò quan trọng của công tác QLNN về văn hóa,
sự tác động trực tiếp của cơ quan kiểm duyệt và thanh tra có vai trò đặc biệt quan
trọng. Bởi vì văn hóa có mối quan hệ trực tiếp với chính trị, nó có tác động trực tiếp
đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Trong xu hướng xã hội hóa văn hóa hiện nay, các tác động tiêu cực nảy sinh
ngày càng nhiều, vì vậy hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý cần phải được quan
tâm thực hiện một cách nghiêm túc, có kế hoạch phối hợp tổ chức hoạt động một
cách chặt chẽ với các bộ, nghành khác. Như vậy mới có khả năng thực hiện tốt chức
năng và nhiệm vụ mà công tác QLNN về văn hóa đã đề ra.
* Chủ thể QLNN về văn hóa
- Ở trung ương, cơ quan chức năng QLNN về văn hóa là Chính phủ và Bộ
VHTT&DL.
+ Chính phủ thống nhất quản lý và phát triển sự nghiệp văn hóa – nghệ thuật
trên cả nước; thi hành các biện pháp để bảo tồn và phát triển văn hóa, chống các
hiện tượng, hành vi truyền bá tư tưởng văn hóa phản động, đồ trụy, các hủ tục mê
tín dị đoan. Như vậy Chính phủ có chức năng định hướng về mặt chỉ đạo cũng như
hỗ trợ về mặt chính sách đối với việc quản lý lễ hội truyền thống của các cơ quan
chuyên môn cấp dưới.