Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Giải pháp hạn chế lượng vốn chết trong dân thông qua HTTC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.8 KB, 20 trang )

BÀI TIỂU LUẬN

GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ LƯỢNG
VỐN “CHẾT” DƯỚI DẠNG VÀNG TRONG
DÂN THÔNG QUA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

Người thực hiện: Phạm Thị Hương

1


Mục lục
Phần I : Lý luận chung về hệ thống tài chính

4

1.1. Các quan điểm về HTTC
1.2. Tổ chức HTTC Việt Nam hiện nay
1.3. Vai trò HTTC
1.3.1. Huy động vốn bằng nội tệ
1.3.2. Huy động vốn bằng ngoại tệ
1.3.3. Huy động vốn bằng vàng
Phần II : Thực trạng việc nắm giữ vàng trong dân ở Việt Nam

9

2.1. Thực trạng vốn trong dân
2.1.1. Lượng vốn trong dân
2.1.2. Các hình thức sử dụng vốn trong dân
2.2. Thực trạng nắm giữ vàng trong dân
2.2.1. Lượng vàng nắm giữ trong dân


2.2.2. Tình hình huy động vàng thông qua HTTC trước đây
2.3. Nguyên nhân cuả tình trạng vốn “chết” dưới dạng vàng trong dân
Phần III : Giải pháp nhằm hạn chế lượng vốn “chết” dưới dạng vàng trong dân
thông qua HTTC
13
3.1. Dự báo xu hướng nắm giữ vàng trong dân
3.2. Giải pháp huy động vốn qua HTTC nhằm hạn chế lượng vốn chết trong dân
dưới dạng vàng

2


3.2.1. Ngân hàng Nhà nước độc quyền vàng miếng
3.2.2. Ổn định kinh tế vĩ mô
3.2.3. Phát động chứng chỉ tiền vàng, trái phiếu huy động vàng
3.2.4. Thành lập Sở giao dịch vàng quốc gia
3.2.5. Cấm mua bán vàng miếng

Phần I : Lý luận chung về HTTC
3


1.1. Các quan điểm về HTTC
Tài chính là hệ thống các quan điểm trong phân phối, gắn liền với quá trình
hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Trong thực tế, các quan hệ tài chính diễn ra
rất phức tạp và đa dạng, chúng đan xen trong một tập hợp hàng loạt các hoạt
động khác nhau của nền kinh tế. Tuy nhiên, đó không phải là môtj hoạt động hỗn
loạn mà ngược lại, chúng tuân thủ những nguyên tắc, những quy luật nhất định,
trong đó có những quan hệ tài chính có tính chất đặc thù giống nhau nhóm lại
thành một bộ phận riêng. Giữa các bộ phận này luôn có mối liên hệ, tác động ràng

buộc nhau và tạo thành hệ thống tài chính. Do vậy, hệ thống tài chính là tổng thể
của các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu tài chính mà ở đó các hoạt động trên
các lĩnh vực khác nhau nhưng có mối liên hệ tác động tác động lẫn nhau theo
những quy luật nhất định. Các bộ phận trong hệ thống tài chính hoạt động trong
cắc lĩnh vực: tạo ra nguồn lực tài chính, thu hút các nguồn tài chính và chu chuyển
các nguồn tài chính( dẫn vốn). Với các lĩnh vực hoạt động này , toàn bộ hệ thống
tài chính thực hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân là đảm
bảo nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội.
1.2. Tổ chức HTTC Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, tại Việt Nam, HTTC được phân chia thành 4 phần đó là:
1. Thị trường tài chính
2. Các định chế tài chính trung gian
3. Cơ sở hạ tầng pháp lý-kĩ thuật
4. Các tổ chức giám sát và điều hành hệ thống tài chính
Trong đó:
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền sử
dụng tài chính hay là nơi trao đổi mua bán các công cụ tài chính. Tại đây có sự
xuất hiện của nhà phát hành, nhà đầu tư, nhà môi giới,và các cơ quan quản lý.
Theo đó, người thiếu vốn đóng vai trò là nhà phát hành sẽ tạo lập công cụ tài
4


chính rồi bán ra thị trường, thông qua môi giới người có vốn chính là nhà đầu tư
sẽ mua công cụ tài chính này , kèm theo một xác nhận quyền đòi. Các công cụ tài
chính này là trái phiếu, cổ phiếu, tín phiế, thương phiếu hoặc chứng chỉ tiền gửi…
Trung gian tài chính là tổ chức chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính , làm
trung gian giữa nhiều chủ thể có vốn và thiếu vốn, giúp cho đồng vốn được sử
dụng hiệu quả. Khác với nhà môi giới trên thị trường tài chính thì trung gian tài
chính là người tham gia trực tiếp vào quá trình phân phối vốn. Các trung gian tài
chính hiện nay:

Trung gian nhận tiền gửi: nổi bật nhất là Ngân hàng thương mại
Trung gian đầu tư: chủ yếu là Ngân hàng đầu tư, công ty tài chính
Ngoài ra là các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng
Cơ sở hạ tầng pháp lý kỹ thuật bao gồm hệ thống pháp luật như lật ngân
hàng, luật bảo hiểm, luâtj chứng khoán: nguồn lực cơ chế giám sát và hệ thống
cung cấp thông tin như các tổ chức xếp hạng tín nhiệm moody’s, S&P.
Các tổ chức điều hành và giám sát hệ thống bao gồm Ngân hàng nhà nước,
bộ tài chính, ủy ban chứng khoán quốc gia và các tổ chức tài chính quốc tế như
WB, ADB, IMF.
Theo hướng tiếp cận HTTC là tổng thể các hoạt động tài chính thì hệ thống
tài chính của Việt Nam bao gồm một số chủ thể chính là: Tài chính doanh nghiệp,
Ngân sách nhà nước, tài chính dân cư và các tổ chức tín dụng, tổ chức xã hội tài
chính đối ngoại.
Tài chính doanh nghiệp: chính tại đây nguồn tài chính xuất hiện và đồng
thời đay cũng là nơi thu hút trở lại phần quan trọng các nguồn tài chính trong nền
kinh tế, trong hệ thống tài chính, tài chính doanh nghiệp được coi như những tế
bào có khả năng tái tạo ra các nguồn tài chính. Do vậy nó có khả năng tác động rất
lớn đến đời sống xã hội, đến sự phát triển suy thoái của nền sản xuất. Tài chính

5


doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với tất cả các bộ phận của hệ thống tài chính
trong quá trình hình thành và sử dụng vốn cho các nội dung khác.
Ngân sách Nhà nước: Ngân sách Nhà nước gắn liền với các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước, đồng thời là phương tiện vật chất cần thiết để hệ thống
chính quyền Nhà nước thực hiện nhiệm vụ chính của mình trong điều kiện của
nền kinh tế thị trường. Ngân sách Nhà nước còn có vai trò to lớn trong điều tiết vĩ
mô của nền kinh tế-xã hội. Đó là vai trò định hướng phát triển sản xuất, điều tiết
thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội. Để thực hiện được các vai

trò đó, ngân sách Nhà nước phair có các nguồn vốn được tập trung từ các tụ điểm
vốn thông qua các chính sách thu thích hợp. Các mối quan hệ kinh tế giữa một tụ
điểm vốn quan trọng : Ngân sách Nhà nước với các bộ phận khác của HTTC.
Tài chính dân cư và các tổ chức xã hội: đây là một tụ điểm vốn quan trọng
trong HTTC. Hoạt động tài chính của các nước có nền kinh tế phát triển và hoạt
động tài chính ở nước ta những năm gần đây đã chỉ ra rằng: Nếu có những biện
pháp thích hợp, chúng ta có thể huy động được một khối lượng vốn đáng kể từ
các hộ gia đình để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, đồng thời còn góp
phần to lớn vào việc thực hiện các chính sách về định hướng.
1.3. Vai trò HTTC
Thị trường tài chính trong nền kinh tế là nơi phân bổ vốn tiết kiệm một
cách hệu quả cho người sử dụng cuối cùng. Tính hiệu quả là yếu tố đưa người đầu
tư cuối cùng và người tiết kiệm cuối cùng gặp nhau với chi phí thấp nhất và sự
thuận lợi nhất có thể.
Thị trường tài chính không phải là một không gian vật lý mà đó là một cơ
chế chuyển tiền từ người tiết kiệm đến với người đầu tư cuối cùng. Chúng ta có
thể thấy được vị trí thống trị của các tổ chức tài chính trong việc dịch chuyển dòng
vốn trong nền kinh tế. Thị trường thứ cấp, trung gian tài chính và môi giới tài
chính là những tổ chức thúc đẩy sự lưu thông của các dòng vốn.

6


Do đó, thị trường tài chính có vai trò rất quan trọng đối với tất cả các chủ
thể tham gia thị trường tài chính:
Đối với cá nhân: giúp các cá nhân có cơ hội đầu tư từ những khoản tiền nhàn rỗi,
tạo điều kiện cho các cá nhân có thể luôn chuyển vốn đầu tư dễ dàng, sự phát
triển của HTTC cho phép tất cả cá nhân đa dạng hóa đầu tư phân tán rủi ro.
Đối với các doanh nghiệp: tạo điều kiện cho doanh nghiệp hút vốn và tăng vốn,
cho phép doanh nghiệp xác định giá trị liên tục các tài sản qua sự đánh giá của thị

trường. Từ đó thúc đẩy công ty không ngừng hoàn thiện các phương trình kinh
doanh để đạt hiệu quả cao hơn.
Đối với Nhà nước: giúp Nhà nước huy động vốn để tài trợ cho các dự án đầu tư
của Nhà nước trong thời kỳ thiếu vốn đầu tư, tạo điều kiện cho Nhà nước thực
hiện chính sách tài chính-tiền tệ thông qua việc phát hành trái phiếu hay các công
cụ nợ khác để điều chỉnh khối lượng tiền trong lưu thông.
Đối với nền kinh tế: thị trường tài chính đa dạng hóa phương thức thu hút vốn
đầu tư nước ngoài cho nền kinh tế, qua đó sẽ thu hút những công nghệ mowisw
cho nền kinh tế, điều hòa lãi suất tài trợ cho nền kinh tế thông qua cơ chế cạnh
tranh giữa các phương thức huy động vốn; giữ vai trò như một loại cơ sở hạ tầng
về mặt tài chính của nền kinh tế, có tác dụng hỗ trợ sự phát triển thông qua cơ
chế thu hút vốn, định hướng, điều hòa vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ nơi sử
dụng vốn có hiệu quả thấp sang nơi sử dụng vốn có hiệu quả cao.
1.3.1. Huy động vốn bằng nội tệ
Tiền gửi bằng nội tệ của các tầng lớp dân cư: đây chủ yếu là tiền gửi tiết
kiệm, nguồn này có quy mô, cơ cấu lớn trong tổng nguồn huy động bằng nội tệ
nhưng tăng trưởng không ổn định. Nhược điểm huy động tiền gửi có lãi suất huy
động bình quân cao, kì hạn gửi tiền danh nghĩa của người dân thường ngắn ( nhỏ
hơn 12 tháng). Điều này ảnh hưởng tới khả năng sử dụng vốn, khả năng dịch
chuyển kì hạn nợ, kết quả kinh doanh và sức cạnh tranh của các Ngân hàng
thương mại.

7


Tiền gửi bằng nội tệ của các tổ chức kinh tế xã hội: nguồn tiền này cũng có
quy mô, cơ cấu lớn trong nguồn huy động. Tiền gửi này thường là tiền gửi giao
dịch hoặc có kì hạn ngắn, hưởng lãi suất thấp. Nếu ngân hàng huy động được
nhiều để cho vay và đầu tư thì không những kéo dài đượ chênh lệch lãi suất hai
đầu trần và sàn mà còn giảm được chi phí vốn bình quân, tăng lợi nhuận.

Tiền gửi bằng nội tệ của các tổ chức khác: tiền này có quy mô, cơ cấu nhỏ
trong tổng nguồn tiền gửi bằng nội tệ. Nguồn tiền gửi của các tổ chức tín dụng
khác thường có mức độ tăng trưởng khá cao nhưng chủ yếu là nguồn trong thanh
toán, ngân hàng cũng không sử dụng nguồn này để cho vay và đầu tư.
Đi vay bằng nội tệ: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM, tuy nhiên
khi cần ngân hàng có thể vay mượn thêm. Việc đi vay bằng đồng nội tệ chủ yếu để
đáp ứng nhu cầu thiếu hụt dự trữ.
1.3.2. Huy động vốn bằng ngoại tệ
Để đáp ứng hu cầu hoạt động kinh doanh các NHTM không chỉ huy động
vốn bằng đồng VND mà còn huy động vốn bằng ngoại tỷ trọng nhỏ hơn trong tổng
nguồn vốn huy động của NHTM nhưng trong thời gian gần đây nguồn vốn này
ngày càng càng cho thấy các vai trò quan trọng của mình. Các NHTM có thể huy
động vốn này qua các cách sau:
Tiền gửi bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân cư: tiền gửi huy động vốn của các tầng
lớp dân cư chiếm tỷ trọng nhỏ. Việc huy động vốn bằng ngoại tệ luôn bị tác động
mạnh bởi lãi suất ngoại tệ trên thị trường quốc tế vầ tình trạng khan hiếm VND.
Tiền gửi bằng ngoại tệ của các tổ chức kinh tế xã hội: đây chủ yếu lầ các khoản
tiền gửi trong thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn ngắn từ 1-3 tháng.
Tiền gửi bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng khác: nguồn tiền này chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng số vốn huy động bằng ngoại tệ. Tại Việt Nam đối tượng
cho vay chủ yếu là NHNN.

8


Tiền vay bằng ngoại tệ: cũng giống tiền vay bằng nội tệ, chỉ khi thật sự cần thiết
NHTM mới đi vay nhất là ngoại tệ thì lãi suất luôn cao và đầy biến động. Do vậy
lượng vốn vay thường nhỏ.
1.3.3. Huy động vốn bằng vàng
Là các hình thức mà các tổ chức tín dụng huy động vàng dưới hình thức

phát hành chứng chỉ huy động vàng có kỳ hạn; huy động vàng bằng VND bảo đảm
giá trị theo giá vàng dưới hình thức tiết kiệm có kỳ hạn hoặc phát hành chứng chỉ.
Đây là hình thức mà ngân hàng Nhà nước đã thực hiện như năm 2010. Hiện nay
huy động vốn bằng vàng đang là vấn đề rất nóng trong xã hội khi chúng ta đang
để lãng phí hàng trăm tấn vàng trong dân mà chưa được đưa ra để phục vụ sẩn
xuất kinh doanh.
Phần II: Thực trạng việc nắm giữ vàng trong dân ở Việt Nam
2.1. Thực trạng vốn trong dân
2.1.1. Lượng vốn trong dân
Ngoại hối: Theo ADB, mức dự trữ ngoại hối của quốc gia của Việt Nam năm
2014 ở mức gần 34 tỷ USD. Tất nhiên con số này đã bao gồm cả lượng ngoại hối
của cả chính phủ và gười dân cùng nắm giữ. Như vậy có một lượng lớn vốn ngoại
tệ đang nằm trong tay người dân.
Nguồn vốn dưới dạng vàng: Theo con số do Hiệp hội Kinh doanh vàng thế
giới công bố, lượng vàng trong dân tại Việt Nam là khoảng 500 tấn-tương đương
20 tỷ USD( hay 13,3 triệu lượng vàng).
Nguồn vốn dưới dạng đất đai và bất động sản con số là rất lớn. Đặc biệt là
nguồn vốn tín dụng, theo thống kê cho thấy tại Hà Nội là 20% các khoản vay liên
quan đến bất động sản, còn ở thành phố Hồ Chí Minh là 50%.
2.1.2. Các hình thức sử dụng vốn trong dân

9


Báo cáo khảo sát quý 4/2014 của Nielsen cho biết, 77% người Việt Nam có
tiền nhàn rỗi gửi tiết kiệm, chỉ 18% người có tiền đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư
mạo hiểm…
Theo khảo sát về xu hướng sử dụng tiền nhàn rỗi cuẩ người tiêu dùng khu
vực Đông Nam Á và toàn cầu quý 4/2014 của Công ty nghiên cứu thị trường
Nielsen thì tỷ lệ người Việt Nam có tiền nhàn rỗi gửi vào tiết kiệm đạt 77%, trong

khi chỉ số này ở toàn cầu là 43%. Các nước ASEAN, tỷ lệ người dân có tiền gửi vào
tiết kiệm từ 63%-70%.
Các khoản tiết kiệm chủ yếu của người Việt Nam được chỉ ra chủ yếu là gửi
ngân hàng, tích trữ vàng, bất động sản. Các kênh đầu tư khác như chứng khoán
(trái phiếu, cổ phiếu) của người Việt Nam có tiền nhàn rỗi đật thấp nhất trong khu
vực ASEAN và thấp hơn tỷ lệ đàu tư vào các kênh huy động vốn.
Tỷ lệ người Việt Nam có tiền nhà rỗi đàu tư chứng khoán, quỹ mạo hiểm chỉ
đạt 18% trong khi các nước ASEAN tỷ lệ người dân dừng tiền nhàn rỗi đầu tư
chứng khoán, quỹ mạo hiểm đạt từ 26%- 32%, tỷ lệ này trung bình toàn cầu là
21%.
2.2. Thực trạng nắm giữ vàng trong dân
2.2.1. Lượng vàng nắm giữ trong dân
Những tháng đầu năm 2008, Việt Nam đã nhập khoảng 50 tấn vàng. Bình
quân mỗi tấn là 30 triệu USD thì đã có 1,5 tỷ USD được chi ra để nhập vàng.
Những năm trước, số vàng đã nhập cũng không kém. Theo một thành viên của
Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam, hiện các ngân hàng có huy động vốn bằng
vàng cũng chỉ thu hút được 1-1,5 triệu lượng vàng miếng, số còn lại chủ yếu nằm
trong dân. Cũng trong những đầu năm 2008, đã có gần 40 tấn vàng được dập
thành trên 1 triệu lượng vàng SJC tung ra thị trường.
Theo Hiệp hội Kinh doanh vàng Thế giới công bố cũng như thống kê sơ bộ
hiện nay 2016, người dân Việt Nam đang nắm giữ ít nhất 500 tấn vàng- tương
đương 22 tỷ USD( hay 13,3 triệu lượng vàng), đây là vấn đề đang rất nóng được
10


cả nhà kinh doanh và giới chuyên gia đang rất quan tâm trong thời hugian gần
đây.
2.2.2. Tình hình huy động vàng thông qua HTTC trước đây
Theo quy định tại Nghị định mới thay thế Nghị định 174 về quản lý hoạt
động sản xuất kinh doanh vàng trên lãnh thổ Việt Nam đang được NHNN trình

Chính phủ, Nhà nước thừa nhận quyền sở hữu, quyền tích trữ, quyền mua bán
vàng của người dân. Thực tế, các tổ chức tín dụng trước đây đã tiến hành huy
động vàng và cho vay bằng vàng. Theo đánh giá của NHNN, thời gian qua, đaqực
biệt là trong năm 2010 và 2011, sựu biến động quá lđềớn của giá vàng làm cho
việc huy động và cho vay bằng vàng của các tổ chức tín dụng gặp nhiều rủi ro, do
vậy, hoạt động này chưa phát huy được hiệu quả.
“Trong đề án huy động vàng, thời gian tới, Nhà nước sẽ đứng gia huy động
vàng thông qua các tổ chức tín dụng, hay nói cách khác, các tổ chức tín dụng sẽ
làm đại lý cho NHNN trong việc huy động vàng. Với hình thức này, Nhà nước
không can thiệp trực tiếp vào thị trường mà thông qua các tổ chức trung gian, ở
đây là các tổ chức tín dụng. Mặt khác, với nhiều công cụ khác nhau, ví dụ kinh
doanh vàng trên thị trường quốc tế, Nhà nước sẽ bảo hiểm được rủi ro do biến
động của giá vàng thế giới, do đó đảm bảo giá trị tài sản của người dân mà vẫn có
thể sử dụng số vàng đó quy đổi thành ngoại tệ để phục vụ nhu cầu phát triển KTXH” – Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho biết.
Theo đánh giá của các chuyên gia, với hình thức huy động này, các tổ chức
tín dụng không lo khi giá vàng biến động, tuy nhiên, cũng có ý kiến tỏ ra băn
khoăn về hình thức huy động này, bởi bấy lâu nay các tổ chức tín dụng vẫn huy
động vàng nhưng vẫn có một lượng vàng lớn “đắp chiếu” trong dân. Mặt khác, khi
giá vàng tăng đột biến người dân đổ xô rút bán chốt lời, rất có thể nhà nước sẽ
phải chịu một khoản lỗ lớn.
2.3. Nguyên nhân của tình trạng vốn “chết” dưới dạng vàng trong dân

11


Vàng là loại tài sản giá trị lớn, được tích trữ tại rất n hiều gia đình Việt Nam
nói riêng, châu Á nói chung từ bao đời nay, với quan niệm vàng đem lại sự may
mắn, an tâm lâu dài cho cuộc sống. Truyền thống cất trữ vàng được củng cố trong
nhiều năm chiến tranh và cả thời bình do những biến động kinh tế, lạm phát,
đồng tiền mất giá…Có cầu thì ắt phải có cung. Có những nhu cầu thật và nhu cầu

không thật, chỉ do đầu cơ nhưng tất cả đều phải được đáp ứng. Từ đó dã hình
thành nên một thị trường vàng, được kích thíc, mua bán ngày càng sôi động, lợi
nhuận tạo được do tần số giá biến động nhanh mà giá cả vàng hoàn toàn bị chi
phối bởi các tổ chức đầu cơ.
Việt Nam là quốc gia tiêu thụ vàng lớn thứ 4 tại Châu Á sau Trung Quốc, Ấn
Độ và Thái Lan. Trước đây, vàng vừa được dùng như một loại tiền, vừa như môt
phương tiện cất giữ, được sử dụng rộng rãi cho mục đích đầu tư và là phương
thức thanh toán thay thế tiền mặt trong những giao dịch lớn. Những năm gần
đây, vàng còn được sử dụng như một biện pháp chống lạm phát và suy thoái kinh
tế thế giới.
Thống kê cho thấy giá vàng luôn ở mức cao, sau đây là những nguyên nhân
tác động đến giá vàng:
Thứ nhất-yếu tố văn hóa: nhiều nguwoif cho rằng vàng là một phương tiện
tích lũy đáng tin cậy và tiếp tục mua vào dù giá cả bất ổn. Qua khảo sát với những
người trong cuộc bộ phận nghiên cứu của Ngân hàng Standard Chartered cho
rằng, phần lớn người dân Việt Nam giữ vàng miếng và trang sức bằng vàng tại
nhà, chỉ có một lượng nhỏ gửi tại ngân hàng.
Thứ hai-do lạm phát: tăng quá nhanh trong những năm trước đã khiến Việt
Nam tăng giữ vàng. Tỷ lệ lạm phát 18,13% vào năm 2011 và 2012 tỷ lệ này xuống
6,81% và dưới 7% trong những năm gần đây. Nắm giữu càng như hầm trú ẩn an
toàn trước những rủi ro lạm phát và tác động do sức mua sụt giảm được coi là
một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ tài sản.

12


Thứ ba-do thiếu niềm tn vào đồng nội tệ nhiều người tở nên ưa chuộng
vàng và USD. Từ năm 2008 tới nay, tiền đồng đã bị mất giá trên 20% do lạm phát
và nền kinh tế có vị thế yếu trên trường quốc tế.
Giữ vàng là một thói quen lâu đời của người Việt Nam. Trong một thời gian

rất dài, vàng được lấy là một thước đo đánh giá sự giàu có của một người cũng
như là cơ sở cho việc giao dịch các tài sản cớ giá trị lớn( chủ yếu là nhà đất ).
Trong tâm trí của người Việt Nam vàng có ý nghĩa là một tài sản nhiều hơn là
trang sức.
Lý do mà vàng được ưa chuộng như vậy là vì: Theo thời gian, giá trị của nó
so với hầu hết các loại hàng hóa hay tài sản khác chỉ có tăng mà không có giảm;
Vàng có thể chia nhỏ hàng phân và với thể tích nhỏ mà không bị hư hao nên có
thể cất giữ gần như là mãi mãi và việc vận chuyển hết sức dễ dàng; Vàng là một
trong những loại hàng hóa hết sức dễ troa đổi và mua bán; Do lo ngại sự mất giá
của đồng tiền…
Phần III: Giải pháp nhằm hạn chế lượng vốn chết dưới dạng vàng trong dân
thông qua HTTC
3.1. Dự báo xu hướng nắm giữ vàng trong dân
Về vấn đề dự báo xu hướng nắm giữ vàng trong dân, theo chuyên gia kinh
tế Phan Minh Ngọc, giá vàng hay giá của bất cứ hàng hóa nào không theer lúc nào
cũng đi lên mãi mà luôn có một thời điểm dừng lại trong một khoảng thời gian
nào đó. Chừng nào vàng còn sóng còn những lời đồn đoán (có thể vừa có lý do
vừa “đoán mò”) và những xu thế ủng hộ xu thế tăng giá của vàng, chừng đó người
ta sẽ tiếp tục sống chết với vàng. Sẽ khó có lời can ngăn, cảnh báo nào có thể
ngăn cản được việc người ta cuồng vàng, ông lý giải.
Nói như vậy có nghĩa xu hướng nắm giữ vàng trong dân trong thời gian tới
có xu hướng ngày càng gia tăng, việc nắm giữ vàng này càng ngày càng được
người dân ưa chuộng.

13


3.2. Giải pháp huy động vốn qua HTTC nhằm hạn chế lượng vốn chết trong dân
dưới vàng
Không phải đến thời điểm này việc huy động nguồn lực vàng đang lãng phí

trong dân để phục vụ cho phát triển kinh tế mới được mọi người quan tâm đến.
Mà thực tế cách đây mấy năm chuyện huy động vàng cũng rất được chú ý đặc
biệt là cuộc tranh luận chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách. Cho thấy việc
huy động vàng là việc rất quan trọng, tuy nhiên để thực hiện huy động được
không hề đơn giản. Dưới đây là một số giải pháp được đề xuất.
3.2.1. Ngân hàng Nhà nước độc quyền vàng miếng
Giải pháp này đã được Việt Nam đưa ra và thực hiện trong bối cảnh năm
2011, khi mà nước ta đang đứng trước nguy cơ “vàng hóa” nền kinh tế. Một trong
những biểu hiện của tình trạng đó là nhu cầu vàng và lượng vàng nhập khẩu hàng
năm tăng cao và cứ mỗi khi có biến động chính sách, biến động ở thị trường bất
động sản, chứng khoán hay lạm phát tăng cao là người dân lại đổ xô đi rút tiền từ
ngân hàng để đi mua vàng.
Cuối năm 2011, Ngân hàng Nhà nước đề xuất giải pháp, theo đó Ngân hàng
Nhà nước sẽ độc quyền sản xuất vàng miếng. Cụ thể là Công ty TNHH MTV Vàng
bạc đá quý Sài Gòn SJC sẽ chuyển từ trực thuộc Thành ủy TP.HCM sang trực thuộc
NHNN và vàng miếng SJC sẽ trở thành nhãn hiệu vàng của NHNN cũng là nhãn
hiệu vàng duy nhất trên thị trường. Điều này đã thể hiện rõ quan điểm: NHNN sẽ
giữ độc quyền trong sản xuất kinh doanh vàng miếng vì SJC hiện đã chiếm hơn
90% thị phần. Khác với việc có nhiều nhãn hiệu vàng miếng khác nhau như trước
đó tất cả các doanh nghiệp sản xuất vàng miếng đều chung một nhãn hiệu SJC.
Hay nói cách khác, SJC trở thành một nhãn hiệu tập thể về vàng miếng của Việt
Nam, chất lượng được kiểm soát bởi NHNN Việt Nam.
Giải pháp này đã được đưa vào thực thi kể từ ngày 23/8/2012, theo quyết
định số 1623/QĐ-NHNN. Quyết định quy định: Bắt đầu từ ngày 23/8/2012, việc
sản xuất vàng miếng sẽ chuyển đổi từ cơ chế cấp phép sản xuất vàn miếng cho
doanh nghiệp sang cơ chế Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng. Theo quyết
14


định này, NHNN sẽ tổ chức sản xuất vàng miếng căn cứ vào mục tiêu điều hành

chính sách tiền tệ và cung cầu vàng miếng trên thị trường. NHNN giao Công ty
TNHH MTV Vàng bạc đá quý Sài Gòn-SJC( công ty SJC) gia công vàng miếng cho
NHNN. Cũng theo quyết định này, Công ty SJC không được tiếp tục sản xuất vàng
miếng mà chỉ được gia công vàng miếng SJC 99,99% cho NHNN theo chỉ đạo của
NHNN về hạn mức, thời điểm sản xuất và nguồn vàng nguyên liệu để tổ chức sản
xuất vàng miếng và dưới sự quản lý, giám sát chặt chẽ của NHNN.
Dựa trên quy định này, NHNN tổ chức sẩn xuất vàng miếng nhằm bổ sung
nguồn cung cấp vàng miengs, can thiệp thị trường khi cần thiết cũng như cho
phép thực hiện việc chuyển đổi vàng miếng khác sang vàng miếng SJC và gia công
lại vàng miếng SJC méo mó, biến dạng...
Để từng bước thiết lập lại trật tự trên thị trường vàng, NHNN đã độc quyền
nhập khẩu nguyên liệu và sản xuất vàng miếng, thu hẹp mạng lưới kinh doanh
vàng miếng, chỉ cấp phép cho các đơn vị có kinh nghiêm và tiềm lực tài chính, quy
định người dân chỉ được mua bán vàng tại các điểm kinh doanh có phép. Hệ
thống nhân hàng phải dừng huy động và cho vay bằng vàng, tất toán trạng thái để
ngừng hoàn toàn quan hệ vay mượn chuyển sang mua bán. Ngân hàng Nhà nước
đã tổ chức 76 phiên đấu thầu, bán ra 70 tấn vàng miếng cho thị trường, hỗ trợ các
Ngân hàng tất toán trạng thái.
Những tác động của giải pháp
Mặt tích cực: Với cách thức quản lý này, NHNN sẽ nắm được đầy đủ thông
tin về thị trường vàng miếng như số lượng vàng miếng đang lưu thông trên thị
trường, bao nhiêu vàng miếng được sử dụng cho mục đích sản xuất trang sức hay
công nghiệp và bao nhiêu vàng miếng được sử dụng cho mục đích đầu tư, từ bỏ
quản lý và điều tiết được thị trường. Giá vàng sẽ hạ nhiệt. Bên cạnh đó, mục đích
của việc chuyển đổi này nhằm chấm dứt tình trạng đầu cơ tăng giá, lũng đoạn giá
vàng( chủ yếu là vàng miếng) trong nước như một thời gian dài đã từng xảy ra. Và
nếu được như vậy những người quan ngại về việc đầu cơ, găm giá, lũng đoạn thị
trường vàng xem như chấm dứt.

15



Mặt tiêu cực: Nhiều thương hiệu vàng đã bị triệt tiêu như vàng rông Thằn
Long, AAA, PNJ hay ACB… đều là những thương hiệu vàng nổi tiếng lâu nay vì chất
lượng tốt, chứ không riêng gì SJC. Việc quyết định lấy SJC là thương hiệu vàng
quốc gia , cũng như chỉ SJC mới được gia công vàng miếng mang thương hiệu
quốc gia gây ra tình trạng độc quyền. Người dân thì hoang mang không biết vàng
họ nắm giữ nếu không phải SJC thì giá trị của nó còn được bảo đảm như giá vàng
miếng SJC hay không. Bên cạnh đó cơ chế còn gây ra chênh lệch lớn giữa giá vàng
trong nước và giá vàng thế giới, xuất hiện tình trạng vàng giả SJC, vàng kém chất
lượng đưa vào các doangh nghiệp kinh doanh bán cho dân.
3.2.2. Ổn định kinh tế vĩ mô
Đây là ý kiến được các chuyên gia rất đồng thuận vì nếu kinh tế vĩ mô ổn
định thì người dân sẽ tự bỏ vàng ra xây dựng đất nước. Nhà nước nên tập trung
xử lý tốt các bất cập của môi trường đầu tư kinh doanh, kiềm chế tốt lạm phát,
tạo ra các chính sách ổn định thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Đây được coi là
biện pháp hữu hiệu nhất để hạn chế lượng vàng trong dân.
Thực tế là đã có hàng loạt các văn bản, nghị quyết đưa ra các biện pháp
quyết liệt để ổn định thị trường vàng, đến năm 2015, Chính phủ ban hành nghị
quyết 01-nghị quyết đầu tiên của năm trong đó đưa ra các biện pháp phát triển
kinh tế xã hội. Chính phủ yêu cầu NHNN chủ động thực hiện các biện pháp quản lý
hiệu quả thị trường ngoại tệ, thị trường vàng, tiếp tục khắc phục tình trạng đola
hóa, vàng hóa trong nền kinh tế. Nghiên cứu thực hiện các giải pháp huy động
nguồn lực vàng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội khi các điều kiện thị trường
thuận lợi. Đến nay thị trường đã được sắp xếp lại một cách cơ bản: trật tuej kỉ
cương trên thị trường đã được xác lập, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân
đã được đảm bảo, vai trò quản lý nhà nước đối với thị trường vàng đã được nâng
cao.
3.2.3. Phát hành chứng chỉ tiền vàng, trái phiếu huy động vàng
Từ nhiều năm nay vấn đề huy động vàng trong dân đã được đặt ra nhưng

nó mới thực sự trở thành chủ trương khi mới đây, NHNN đã được Thủ tướng
16


Nguyễn Xuân Phúc giao cho nghiên cứu thực hiện các giải pháp huy động vàng
trong dân. Trước chủ trương đó nhiều biện pháp đã được đưa ra.
Một trong những giải pháp đó là Nhà nước phát hành chứng chỉ tiền vàng.
Theo đó, cơ quan chức năng cho Ngân hàng thương mại lớn, có năng lực tài chính
phát hành chứng chỉ vàng. Người dân đưa vàng vào Ngân hàng đổi lại họ sẽ giữ
một tờ giấy chứng nhận số vàng, chứng nhận vàng đó đã được cầm cố thế chấp
và bán khi cần.
Một ý tưởng khác cũng được các chuyên gia kinh tế đề xuất và tranh luận
đó là phát hành trái phiếu huy động vàng. Ý tưởng này nên hiểu giống như phát
hành trái phiếu huy động bằng vàng thay vì bằng đồng hay ngoại tệ. Nhà nước
đang tìm cách huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu bằng tiền đồng
cho các nhà đầu tư trong nước hoặc bằng ngoại tệ ở thị trường nước ngoài cho
các nhà đầu tư quốc tế như lâu nay vẫn làm. Vâỵ tại sao không huy động vàng
theo hướng phát hành trái phiếu huy động bằng vàng? Số vàng này sẽ được
chuyển cho NHNN để NHNN đưa ra nước ngoài hoán đổi lấy ngoại tệ bổ sung cho
quỹ dự trữ ngoại hối.
Để ý tưởng này khả thi, Chính phủ cần đứng ở vai trò bên cần huy động vốn
cần chuẩn bị tài liệu giống như huy động trái phiếu quốc tế để người dân nghiên
cứu với vai trò là nhà đầu tư. Người dân đang sở hữu vàng như họ đang sở hữu
các tài sản khác , họ sẽ lựa chọn các phương án sao cho an toàn vầ hiệu quẩ nhất,
họ có thể mua bán theo sự lên xuống của thị trường để kiếm lời hoặc đơn giản chỉ
giữ làm tài sản dự phòng vì họ nghĩ giữ vàng là an toàn và thanh khoản có thể
chuyển hóa thành tiền bất cứ lúc nào. Khi người dân thấy phương án khả thi, đầu
tư vào trái phiếu vàng cuẩ chính phủ là an toàn, hiệu quả và nếu trái phiếu này
niêm yết để tăng tính thanh khoản thì thậm chí sẽ xếp hàng đầu tư. Các tổ chức
tài chính trong và ngoài nước sẵn sàng hợp tác để bảo lãnh cho việc phát hành

này.

17


Để việc phát hành trái phiếu bằng vàng đạt kết quả tốt, Nhà nước cần quy
định các thủ tục mua, bán, thanh toán trái phiếu bằng vàng cụ thể, rõ ràng minh
bạch, tạo điều kiện cho người dân tham gia.
Nhìn chung, biện pháp này vừa tăng tính thanh khoản của vàng, vừa giúp
Nhà nước có thêm ngoại hối dự trữ mà không làm giảm giá trị của quỹ dự trữ
ngoại hối. Đây là biện pháp có thể huy động được nguồn lực rất lớn bằng vàng,
phục vụ phát triển kinh tế, đất nước. Tuy nhiên những hạn chế mà nó để lại có
thể là nhà nước sẽ phải tài trợ ngân sách cho việc huy động và trả lãi suất người
gửi vàng, đây là khoản tiền không hề nhỏ. Cho nên đây là giải pháp được đem ra
thảo luận nhiều nhưng vẫn chưa được áp dụng vào thực tế.
3.2.4. Thành lập Sở giao dịch vàng quốc gia
Nhu cầu đầu tư vàng tại Việt Nam trong những năm trước đây tăng nhanh
và cũng là kênh đầu tư khá hiệu quả. Đó cũng là nguyên nhân khiến cho hàng loạt
sàn vàng ra đời. Tuy nhiên do cách làm chưa chuyên nghiệp, tiềm ẩn nhiều nguy
cơ rủi ro đối với nhà đầu tư nên Chính phủ đã quyết định dừng hoạt động của các
sàn vàng.
Vì thiếu các hình thức đầu tư qua sàn nên các nhà đầu tư của Việt Nam hiện
nay chủ yếu đầu tư vàng vật chất. Trong những thời điểm giá vàng biến động
mạnh thị trường vàng vật chất thường có sự chênh lệch khá lớn so với giá vàng
thế giới tính theo tỷ giá quy đổi gây thiệt hại cho nahf đầu tư. Vì vậy, rất cần thiết
nên có Sở giao dịch vàng quốc gia để cơ quan quản lý có thể thực hiện, giám sát
thị trường cũng như tạo ra một kênh đầu tư an toàn, hiệu quả.
Các sàn giao dịch vàng trước đây phát triển quá nhanh, hoạt động chưa
thật chuyên nghiệp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro đối với nhà đầu tư. Vì vậy, thật
sự cần thiết để thành lập một nơi uy tín để dân, những nhà đầu tư có thể tin

tưởng đầu tư vàng. Người dân, những người nắm giữ vàng cũng chính là những
người có vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng đến. Nếu như nguồn vốn đó được
đem đầu tư hoặc cho vay thì chúng sẽ tạo ra tạo ra một khoản thu nhập đáng kể
nhờ đó mà hiệu quả sử dụng nguồn tài chính tăng lên. Cũng như đối với những
18


người cần vốn- họ là những người đi vay để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hoặc tìm
thấy cơ hội đầu tư sinh lợi nhưng không đủ vốn để thực hiện hóa cơ hội
này.Thông qua các mối quan hệ quen biết họ có thể tìm được vốn nhưng phương
thức huy động này có những giới hạn nhất định vì họ phải tiếp cận thị trường tài
chính, thông qua Sở giao dịch vàng quốc gia.
Khi Sở giao dịch vàng quốc gia thuộc sở hữu nhà nước được thành lập dưới
dạng Công ty TNHH một thành viên nhà nước với mặt hàng đặc biệt là vàng. Đây
là đầu mối giao dịch vàng tập trung và chính thức của cả nước. Việc hình thành
một thị trường chung được kỳ vọng sẽ tạo ra một kênh đầu tư tốt đối với các nhà
đầu tư đồng thời thu hút được sự tham gia của các ngân hàng, doanh nghiệp kinh
doanh vàng có uy tín.
3.2.5. Cấm mua bán vàng miếng
Vẫn là câu chuyện về vàng miếng, năm 2011, trước khi Ngân hàng NHà
nước ra chính sách độc quyền vàng miếng, khi đứng trước tình trạng “vàng hóa”
thì Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính VAFI đã đề xuất với Ngân hàng Nhà nước nên
cấm hoàn toàn việc mua bán vàng miếng, như vậy sẽ khóa ngay mọi dòng vốn đổ
vào mua vàng miếng.
Việc cấm người dân mua vàng miếng là một quyết sách kinh tế lớn bởi vàng
cũng như là ngoại tệ, chính sách quản lý vàng phải như chính sách quản lý ngoại
tệ thì mới bịt được những lỗ hổng trong chính sách quản lý ngoại hối, nhằm kết
thúc tình trạng “vàng hóa” cũng như “đô la hóa” diễn ra trầm trọng trong nền
kinh tế lúc bấy giờ. Việc mua vàng, sở hữu vàng còn nguy hại hơn so với ngoại tệ
vì dòng vốn đầu tư, đầu cơ vào vàng là dòng vốn chết. Nếu còn để thị trường vàng

tồn tại dưới dạng kinh doanh vàng miếng như trước đó thì sẽ không mang lại lợi
ích gì cho nền kinh tế mầ ngược lại còn là nguồn gốc cho bất ổn kinh tế vĩ mô và
chẳng có giải pháp nào ngăn chặn được những nguy hiểm mà “vàng hóa” gây ra.
Về lượng vàng còn trong dân, NHNN sẽ tổ chức thu mua vàng miếng trong
dân theo giá quốc tế để tăng dự trữ ngoại hối dưới dạng vàng vật chất, chuyển
đổi sang ngoại tệ mạnh. Và một khi đã công khai tuyên bố xóa bỏ thị trường kinh
19


doanh vàng thì lượng người mua vàng sẽ giảm đi 90%, thị trường mất thanh
khoản hoàn toàn thì không còn có đầu cơ, cơ quan quản lý không còn đối phó với
những cơn sốt vàng.
Đánh giá chung:
Vẫn còn một số giải pháp khác được đề cập đến như đánh thuế mua vàng,
phát hành chứng chỉ huy động vàng và trả lãi cho số vàng huy động được hay cho
doanh nghiệp huy động vàng. Tuy nhiên nhìn chung, các giải pháp đều vẫn còn
nhiều khúc mắc và vấp phải nhiều luồng ý kiến trái chiều.
Do vậy giải pháp tốt nhất để nhằm hạn chế lượng vàng trong dân cũng như
huy động lượng vốn chết này vào nền kinh tế lúc này là cải thiện kinh tế vĩ mô
bằng các biện pháp hỗ trợ nền sản xuất kinh doanh phát triển, cộng với sự tác
động của bàn tay hữu hình của Nhà nước giống như chất xúc tác thúc đẩy quá
trình huy động vàng nhanh hơn như phát hành trái phiếu huy động vàng hay lập
sàn giao dịch vàng. ..kết hợp với sự quản lý và giám sát chặt chẽ của cả hệ thống
tài chính thì việc huy động vàng sẽ thành công. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần
tạo điều kiện để nhân dân hoạt động kinh tế có hiệu quả. Bởi lẽ người dân từ
trước đến nay mua vàng vì sợ đồng tiền mất giá. Người dân đi mua vàng là để tìm
nơi trú ẩn bảo vệ tài sản. Chính vì vậy, Nhà nước phải tổ chức môi trường đầu tư,
hoạt động kinh tế như thế nào cho phù hợp để người dân không còn lo lắng,
không đầu cơ vàng để hoạt động kinh tế có hiệu quả.
Nhìn chung, việc huy động được số vàng trong dân là việc cần thiết tuy

nhiên việc huy động này không thể hoàn thành trong một sớm một chiều ngay
được. Để thay đổi quan niệm mua vàng để tích trữ và bảo vệ tài sản của người
dân Việt Nam cần rất nhiều thời gian và rất nhiều công sức của cả hệ thống tài
chính.

20



×