Tải bản đầy đủ (.docx) (127 trang)

Du lịch Bà Rịa Vũng -giải pháp hạn chế tính thời vụ trong du lịch Tỉnh doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 127 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tính mùa vụ được hiểu là sự mất cân đối về “Cung” và “Cầu” du lịch
trong một không gian cụ thể như một hiện tượng của du lịch và được thể hiện ở
sự thay đổi số lượng khách, mức chi tiêu của khách, lao động trong du lịch và
tính hấp dẫn của điểm du lịch. Tính mùa vụ gây nên những khó khăn trong
kinh doanh du lịch, duy trì đội ngũ cán bộ, giảm hiệu quả đầu tư và gây nên
những rủi ro hoặc tạo nên sự quá tải về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch trong
mùa du lịch và ngược lại sự lãng phí cơ sở vật chất trong mùa vắng khách.
Nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, hoạt động du lịch của
nước ta bị ảnh hưởng bởi tính mùa vụ du lịch trên bình diện quốc gia nói chung
và các điểm du lịch nói riêng. Điều này đang làm đau đầu các nhà quản lý,
hoạch định chính sách và các nhà doanh nghiệp. Tuy nhiên, cho tới thời điểm
này các nghiên cứu về tính mùa vụ trong du lịch chỉ dừng lại ở một số bài viết
trên các tạp chí hoặc những cố gắng riêng lẻ của các doanh nghiệp mà chưa có
một nghiên cứu chuyên sâu nào để đưa ra những luận cứ khoa học về bản chất,
nguyên nhân hình thành, hướng tác động cũng như các giải pháp giảm thiểu tác
động của tính mùa vụ du lịch. Vấn đề đặt ra là xác định được những yếu tố
chính của hiện tượng này làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp hạn chế
những tác động tiêu cực đến hoạt động du lịch. Chính vì vậy việc nghiên cứu
tính mùa vụ du lịch không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn
đối với hoạt động phát triển du lịch của nước ta.
Bà Rịa Vũng Tàu là một điểm du lịch nổi tiếng không chỉ trong nước ta
mà đối với cả khách du lịch quốc tế, vì thế em đã chọn dịa danh này làm tiền đề
cho đề tài nghiên cứu: Du lịch Bà Rịa Vũng Tàu - giải pháp hạn chế tính
thời vụ trong du lịch tỉnh
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Xác lập cơ sở khoa học về ảnh hưởng của tính thời vụ trong hoạt động
du lịch góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch.
3. Phạm vi nghiên cứu:
1


- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tính mùa vụ du lịch và ảnh hưởng
của nó đến hoạt động của một số điểm du lịch đại diện cho các loại hình du lịch
trên phạm vi tỉnh bà Rịa Vũng Tàu nói riêng, du lịch Việt Nam nói chung.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài chỉ chọn Bà Rịa Vũng Tàu với điểm du
lịch đặc trưng cho loại hình du lịch tham quan nghỉ dưỡng…
- Thời gian nghiên cứu đánh giá hiện trạng sẽ tập trung từ năm 2006 đến
2010 đối với điểm được lựa chọn – Bà Rịa Vũng Tàu
4. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong quá trình thực
hiện đề tài bao gồm:
- Phương pháp phân tích tổng hợp và nghiên cứu hệ thống
- Phương pháp toán thống kê và thống kê du lịch
5. Kết cấu đề tài
Với mục đích, đối tượng và phạm vi và phương pháp nghiên cứu như
trên, ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu làm 3 chương như
sau:
- Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ TÍNH THỜI VỤ
TRONG DU LỊCH
- Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ
THỜI VỤ DU LỊCH CỦA TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
- Chương 3: CÁC PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH
PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ LÀM GIẢM NHỮNG TÁC ĐỘNG BẤT
LỢI DO TÍNH THỜI VỤ DU LỊCH ĐEM LẠI
6. Kết quả chính đã đạt được của đề tài:
 Hệ thống hoá các vấn đề về cơ sở lý luận cũng như cơ sở thực tiễn về tính thời
vụ du lịch bao gồm:
+ Các khái niệm về: du lịch, vai trò du lịch đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội và bảo vệ môi trường, khái niệm tính thời vụ du lịch, bản chất của
tính thời vụ du lịch, các đặc điểm về tính thời vụ du lịch.
+ Xác định khái niệm, đặc điểm và các yếu tố tác động đến thời vụ du

lịch.
2
+ Tác động của tính thời vụ đến hoạt động du lịch: đến công tác tổ chức
quản lý và hiệu quả kinh doanh, đến tài nguyên và môi trường du lịch và
đến kinh tế - xã hội.
 Thực trạng về tính thời vụ trong hoạt động du lịch ở Việt nam nói chung và
tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu nói riêng.
 Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu tác động của tính thời vụ đối với
hoạt động du lịch ở tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu bao gồm:
- Chủ động đề ra phương án sử dụng nhân sự và cơ sở kĩ thuật hợp lý
trong mùa thấp điểm
- Liên kết các đơn vị kinh doanh bên cạnh để hỗ trợ về nguồn nhân
lực lúc quá tải
- Bình ổn về giá
- Làm kéo dài độ dài của thời vụ du lịch
- Tăng thêm các loại hình dịch vụ bổ sung
- Các chính sách kích cầu ngoài thời vụ chính
- Tạo điều kiện cho thời vụ thứ hai
7. Khả năng ứng dụng thực tế:
- Là căn cứ để xây dựng các giải pháp cụ thể nhằm hạn chế ảnh hưởng
của tính thời vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch ở tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
- Có giá trị tham khảo có ý nghĩa thực tế trong công tác nghiên cứu.
3
NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ TÍNH THỜI VỤ
TRONG DU LỊCH
1.1. Khái niệm các nguồn lực để phát triển du lịch
1 Một số khái niệm liên quan đến du lịch
Trong vòng hơn 7 thập kỷ vừa qua, kể từ khi thành lập Hiệp hội Quốc tế
các Tổ chức Du lịch (International of Union Official Travel organisation –

IUOTO) vào năm 1925 tại Hà Lan, khái niệm du lịch luôn luôn được tranh
luận. Đầu tiên du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm
người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung
quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. Hiện nay, người ta đã thống nhất
rằng về cơ bản, tất cả các hoạt động di chuyển của con người ở trong hay ngoài
nước trừ việc đi cư trú chính trị, tìm việc làm đều mang ý nghĩa du lịch.
Theo thống kê của Tổ chức du lịch thế giới (Word Tourism
Organisation – WTO), lượng khách du lịch thế giới tăng từ 25 triệu lượt người
trong năm 1950 lên tới 760 triệu lượt người vào năm 2004, được xếp vào loại
cao nhất so với các ngành kinh tế khác của toàn thế giới. Lượng khách khổng
lồ đã chi tiêu một số tiền rất lớn vào nền kinh tế thế giới, tạo ra những giao dịch
kinh doanh trị giá hàng tỷ đôla Mỹ và một ngành công nghiệp không khói được
hình thành để đáp ứng nhu cầu của con người.
1 Du lịch – khách du lịch
Hoạt động du lịch trên thế giới hình thành từ rất sớm, từ thời kỳ cổ đại
đến thời kỳ phong kiến, rồi đến cận đại và hiện đại. Hoạt động kinh doanh du
lịch cũng dần được phát triển và ngày càng được nâng cao lên cả về cơ sở vật
chất kỹ thuật đến các điều kiện về ăn, ở, đi lại, vui chơi, giải trí,…Ngày nay,
hoạt động du lịch đã mang tính toàn cầu, du lịch trở thành một nhu cầu thiết
yếu của người dân các nước kinh tế phát triển. Du lịch cũng là một tiêu chuẩn
để đánh giá đúng mức sống của dân cư nước đó. Và vì vậy có rất nhiều cách
hiểu khác nhau về du lịch.
Theo WTO: Du lịch là tất cả những hoạt động của con người ngoài nơi
cư trú thường xuyên của họ không quá 12 tháng với mục đích nghỉ ngơi, giải
trí, công vụ và nhiều mục đích khác.
Theo tổng cục du lịch (pháp lệnh du lịch): Du lịch là hoạt động của con
4
người ngoài nơi ở thường xuyên của mình nhằm thoả mãn các nhu cầu tham
quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
Du lịch có thể hiểu một cách tổng quát là tổng hợp các quan hệ, hiện

tượng và hoạt động kinh tế bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú tạm thời
của một du khách nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau với mục đích hoà
bình hữu nghị.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khách du lịch đứng ở trên các góc độ
khác nhau.
Liên đoàn quốc tế các tổ chức du lịch (tiền thân của tổ chức du lịch thế
giới): “Khách du lịch là người ở lại nơi tham quan ít nhất 24h qua đêm vì lý do
giải trí, nghỉ ngơi hay công việc như: thăm thân, tôn giáo, học tập, công tác”.
Đến năm 1968, tổ chức này lại định nghĩa khác: “Khách du lịch là bất
kỳ ai ngủ qua đêm”.
Uỷ ban xem xét tài nguyên Quốc gia của Mỹ: “Du khách là người đi ra
khỏi nhà ít nhất 50 dặm vì công việc giải trí, việc riêng trừ việc đi lại hàng
ngày, không kể có qua đêm hay không.”
Địa lý du lịch Việt Nam định nghĩa: “Du khách từ bên ngoài đến địa
điểm du lịch chủ yếu nhằm mục đích nâng cao nhận thức với môi trường xung
quanh, tham gia vào các hoạt động thư giãn, giải trí, thể thao, văn hoá kèm
theo việc tiêu thụ những giá trị tự nhiên, kinh tế, dịch vụ và qua đêm tại cơ sở
lưu trú của ngành du lịch”.
2 Tính tất yếu của sự ra đời và xu hướng phát triển du lịch
Hiện tượng du lịch xuất hiện và có chiều hướng phát triển từ khi xã hội
loài người bước vào qua trình phân công lao động. Tiểu thủ công nghiệp tách
khỏi sản xuất nông nghiệp, ngành thương nghiệp tách khỏi ngành sản xuất vật
chất, từ đó xuất hiện tầng lớp thương gia. Họ thường xuyên chở hàng đi đến
các nơi khác để trao đổi, họ cần đến các dịch vụ ăn uống, nghỉ ngơi, vận
chuyển. Hiện thượng du lịch còn thể hiện là những cuộc hành hương đến các
chùa chiền, nhà thờ, thánh địa để cúng bái cầu nguyện. Con người sống trong
xã hội đã nảy sinh những ham muốn hành trình đi đây đi đó để thỏa mãn nhu
cầu về tìm hiểu thế giới xung quanh để tìm cái mới lạ nhằm nâng cao nhận thức
về mọi mặt.
5

Tính logic và lịch sử đã chứng tỏ du lịch ra đời và phát triển là tất yếu
khách quan. Khi đời sống kinh tế xã hội tồn tại những điều kiện nhất định:
 Khi nền kinh tế phát triển, thu nhập và đời sống của người lao động càng cao,
nhu cầu thiết yếu như: ăn, mặc, ở đã thỏa mãn thì nhu cầu du lịch cũng được
tăng lên. Có thể nói kinh tế phát triển là hàm số đồng biến với nhịp độ tăng
trưởng du lịch.
 Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ làm cho hoạt động sản xuất của
con người thay đổi tận gốc, là tiền đề nâng cao thu nhập của người lao động,
hoàn thiện cơ cấu hạ tầng, tài sản thiết bị hiện đại cho xã hội và cho ngành du
lịch, mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển du lịch.
 Thời gian nhàn rỗi là một nhân tố quan trọng thúc đẩy nhu cầu du lịch tăng lên.
Khi nền kinh tế phát triển, năng suất lao động tăng tạo điều kiện rút ngắn thời
gian làm việc. Chế độ làm việc 4,5 ngày trong một tuần làm tăng thời gian
nhàn rỗi của tầng lớp lao động là nhân tố phát triển du lịch nghỉ cuối tuần.
 Quá trình đô thị hóa đóng góp to lớn trong việc cải thiện điều kiện sống của
con người về vật chất và văn hóa. Song cũng bộc lộ mặt trái của nó làm thay
đổi bầu không khí, mật độ dân cư tập trung dày đặc, tách con người ra khỏi môi
trường tự nhiên xung quanh. Chính từ những mặt trái đó, nhu cầu về nghỉ ngơi,
giải trí… của người dân thành phố là cần thiết và có chiều hướng gia tăng.
 Mối quan hệ quốc tế mở rộng góp phần thúc đẩy sự phát triển du lịch về mọi
mặt. Sự trao đổi quốc tế làm cho các quốc gia có sự hỗ trợ và phát triển về mặt
kinh tế, tạo mối quan hệ thân thiện, hiểu biết nhau hơn, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc đi lại giữa các quốc gia. Đó là những điều kiện rất quan trọng để du
lịch quốc tế phát triển mạnh mẽ.
 Tài nguyên du lịch rất đa dạng phong phú và được phân bố khắp mọi nơi, mỗi
vùng, mỗi quốc gia có những nét đặc sắc riêng. Những tài nguyên đó rất hấp
dẫn và kích thích tính hiếu kỳ, muốn tận mắt thấy những danh lam thắng cảnh,
di sản văn hóa, kỳ quan thế giới, những nét đặc thù chảu một dân tộc đối với
khách du lịch quốc tế cũng như khách du lịch nội địa. Ngoài ra tài nguyên du
lịch còn là yếu tố thúc đẩy mối quan hệ hợp tác đầu tư du lịch.

Quá trình phát triển tự nhiên của du lịch
Như chúng ta vẫn thấy, nền du lịch được đánh giá là đang trên đà phát
triển. Tuy nhiên, tốc độ phát triển luôn thay đổi theo nhiều xu hướng khác nhau
6
trong suốt hàng trăm năm trước, và ngày càng đa dạng hóa hơn trong suốt
những năm qua. Trong năm thập kỷ năm 1990, du lịch đã tạo nên một bước
ngoặt phát triển khá ấn tượng, tạo nên một bước ngoặt rất khác biệt so với 3
thập kỷ trước. Theo khuynh hướng toàn cầu, những thay đổi to lớn của cuộc
sống hiện đại đang mở ra cho chúng ta những cơ hội mới và viễn cảnh tươi
sáng mà khó có thời điểm nào có được. Nói theo cách đó, những gì đang xảy ra
mà chúng ta thấy được xem như là “Sự thiết lập trực tự của thế giới mới” sau
thời kỳ bị chiến tranh lạnh ảnh hưởng và chi phối, đây là lúc chúng ta vươn lên
tạo nên những trang sử mới cho thiên niên kỷ thứ 3 ở Tây Âu.
Ở một số khía cạnh khác của sự tiến triển đã được nhận thấy rõ: trên
thực tế, chúng ta đều nằm trong sự tiên đoán trước đó, một trong những dự
đoán đã khuấy động mối quan tâm lo lắng thậm chí tạo nên sự bất mãn cho mọi
người. Chính những tác động này đã trở thành mối lưu tâm lớn đối với các
quốc gia phát triển, nơi luôn tự hào về một nền kinh tế vững mạnh và vượt trội
với một cuộc sống ổn định. Và có lẽ đây lầ lần đầu tiên những thay đổi này
hoàn toàn bị mất kiểm soát, và có tác động không tốt đến văn hóa đời sống lâu
đời của họ. Nhưng xét trong một hoàn cảnh khác, đây lại là một trong số ít cơ
hội mà cuộc sống mang lại.
Xói mòn văn hóa, hủy hoại môi trường và đồng hóa phong cách sống,
nhưng thực chất đó là do sự phát triển ngày càng cao cảu kinh tế và xã hội đã
cho ra đời ngành du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu giải trí từ cuộc sống.
Hoặc do những định kiến khác nhau từ dư luận dành cho du lịch, một bộ
phận gồm những cá nhân và tổ chức yêu thích du lịch đã có những hoạt động
tích cực trong việc xây dựng hình ảnh cảu một nền du lịch tương lai đầy tiềm
năng này. Các nhà khảo sát và phân tích đã nhận định rằng: trong tương lai du
lịch sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và hạn chế. Những điều này sẽ buộc

các nhà kinh doanh du lịch và nền công nghiệp du lịch phải đổi mới cách thức
phát triển và tổ chức sao cho phù hợp. Nó sẽ tác động không nhỏ vào nhu cầu
và thói quen trong du lịch của khách du lịch. Tuy vậy ở một mặt nào đó nó sẽ
làm thay đổi bộ mặt của du lịch truyền thống vốn kém phát triển trong quá khứ
và nó đem đến cơ hội mới để tạo ra những sản phẩm du lịch cao cấp và đa dạng
7
hơn. Những định hướng mới của du lịch cho chúng ta thấy một viễn cảnh tươi
sáng với những cơ hội và vận hội mới để xây dựng nền du lịch tiên tiến và hiện
đại hơn trước đây.
Bên cạnh đó, Hiệp hội Nghiên cứu Kinh tế (ITPF) còn hỗ trợ bằng việc
tập hợp các kinh nghiệm, ý kiến của các nhà lãnh đạo đầu ngành trong hệ thống
du lịch để cùng chia sẽ, thảo luận và cải tiến chất lượng du lịch theo hướng bền
vững. Các nhà phân tích từ tổ chức ITPF phối hợp với các chuyên gia của Học
viện Du lịch Quốc tế ở Washington đã nổ lực không ngừng để xây dựng và
hoàn thiện một mô hình du lịch mới phù hợp với các nền công nghiệp khác
nhau của các quốc gia khác nhau trên thế giới. Chúng ta có thể nhận thấy vai
trò quan trọng của các chuyên gia kinh tế đó là xác định các nguồn lực phát
triển trong toàn xã hội thong qua việc nghiên cứu, dự đoán các hoạt động giải
trí, sinh hoạt, học tập và làm việc của người dân trong các năm tới để cải tiến
các sản phẩm du lịch trong tương lai đa dạng hơn và phù hợp hơn, đáp ứng một
cách tốt nhất các nhu cầu về du lịch.
Nếu những nền kinh tế hàng đầu thế giới là biểu thị của những khuynh
hướng trong phương diện này, chúng ta có thể hi vọng những nhà du lịch từ
những nền tảng kiến thức kinh tế có kinh nghiệm hơn. Đặc biệt, chúng ta có thể
hi vọng rằng họ sẽ có nhiều kinh nghiệm cá nhân hơn, hay biểu thị như là thú
du lịch đặc biệt như là người du lịch thích làm giàu cuộc sống của họ với kinh
nghiệm hơn là với hoạt động giải trí.
Các quốc gia phát triển chắc chắn đã tiến vào kỷ nguyên nơi mà một
trong những thuận lợi về tốc độ cạnh tranh khốc liệt nhất là thông tin hoặc kiến
thức họ chiếm hữu hơn là nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có hoặc là lối đi

riêng để tiến đến một nguồn nhân công rẻ. Giả sử rằng đó là một khuynh hướng
tiếp tục và trải dài đến các nước khác, điều đó khiến ngành công nghiệp du lịch
xem xét làm sao cách xử sự cảu con người trong một nền tảng tri thức xã hội có
thể khác những con người trong một nền sản xuất hoặc là một trong nền tảng
dịch vụ truyền thống cố định hơn.
Mặc dù là quá sớm để đi đến kết luận, chắc chắn rằng những thay đổi
mà phong trào tự do lao động sẽ mang lại cho cơ cấu xã hội của Châu Âu, nó
8
xem như sự hợp lý để đoán rằng tầm quan trọng của sự tồn tại của mỗi quốc gia
sẽ đi xuống. một tong những mục tiêu chính của Châu Âu là đi đến tiêu chuẩn,
tiền tệ chung và hơn nữa là một thể chế chính trị chung, vừa thoáng nhìn một lý
luận chặt chẽ mà sự hình thành một cộng đồng Châu Âu mới là một kết quả.
Trong điều kiện thực tiễn chặt chẽ, đó có thể là một trường hợp.
Những thành viên trong hội đồng chính sách du lịch quốc tế rất chú ý
đến tầm quan trọng của sự gia tăng các khối Thương mại, khối châu Âu không
biên giới hầu như là thực tế. Hội đồng Thương mại tự do Bắc Mĩ đã tạo ra
nhiều khối khác nhau, để đáp ứng hai sáng kiến đó các quốc gia châu Á đã bắt
đầu phản ánh nhu cầu cho sự sắp xếp thỏa đáng.
Cùng một lúc nó sẽ quá độ rút ngắn sự phân biệt giữa các quốc gia và do
đó sự kêu gọi của một quốc gia đặc biệt sẽ là một địa điểm du lịch duy nhất.
Mặc dù đầu cơ của quan điểm này có một số bằng chứng như là một sự phản
kháng cho sự đi xuống giống nhau của các quốc gia, sẽ có sự phản kháng nổi
lên trong những trung tâm thành phố lớn hoặc các bang. Những bang này có
thể trở thành nền tảng cho cả sự phát triển của nền kinh tế và cho mỗi cá nhân.
Liên quan trực tiếp tới ngành du lịch là khả năng mà các bang mới có thể trở
thành nền tảng chính yếu cho sự phát triển của khu vực.
Sự xóa bỏ biên giới ngày càng làm cho di chuyển dân số bên trong các
khối lượng thương mại, có nhiều người sẽ đòi hỏi nhu cầu lẽ phải cho phong
trào tự do được mở rộng, một ngày không xa khi phong trào tự du của tất cả
mọi người trên thế giới có thể gọi là “lẽ công bằng cho con người”. Mặc dù

điều này không chắc chắn có nghĩa là nó sẽ được chấp nhận, nó chắc chắn sẽ
được bênh vực. Rõ ràng, sự ám chỉ này vẫn còn yếu, áp lực càng tăng lên đến
lĩnh vực giải trí và du lịch. Tuy nhiên, quá rõ ràng nên có nhiều áp lực như thế
sẽ dẫn đến sự thành công, nhiều danh lam thắng cảnh và những kế hoạch du
lịch và sự phát triển sẽ thay đổi một cách sâu sắc.
3 Ngành du lịch
Ngành du lịch là ngành cung cấp các loại sản phẩm và dịch vụ cho du
khách tiến hành hoạt động lữ hành du ngoạn tham quan để thu phí, nó là sản
phẩm có tính tổng hợp lấy du khách làm đối tượng, lấy tài nguyên du lịch làm
9
chỗ dựa, lấy thiết bị du lịch làm điều kiện vật chất, cung cấp các loại sản phẩm
và dịch vụ cho hoạt động du lịch. Đồng thời còn thông qua tự than vận động và
kinh doanh của ngành du lịch đã thúc đẩy sự phát triển của kinh tế khu vực.
Ngành du lịch là một sản nghiệp, mục đích cơ bản của nó ở chỗ thông
qua thúc đẩy, xúc tiến và cung cấp hàng hóa và dịch vụ du lịch. Ngoài tính chất
cơ bản sản nghiệp mang tính kinh tế ra, so với các sản nghiệp khác ngành du
lịch còn có các đặc điểm cơ bản như: tính tổng hợp, tính phục vụ, tính lien
quan với nước ngoài, tính nhạy cảm, tính thời vụ, tính phụ thuộc.
4 Doanh nghiệp kinh doanh du lịch
Kinh doanh là các hoạt động nhằm mục đích sinh lời của các chủ thể
kinh doanh trên thị trường. Ngoài ra, theo điều 3 luật doanh nghiệp thì “Kinh
doanh là việc thực hiện một hoặc một số công đoạn của quá trình đầu tư từ sản
xuất đến tiêu dùng sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi”.
Du lịch: Theo điều 10 mục 1 pháp lệnh du lịch thì “ Du lịch là một hoạt
động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn
nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.
Kinh doanh du lịch là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình hoạt động du lịch hoặc thực hiện dịch vụ du lịch trên thị
trường nhằm mục đích sinh lời (điều 10 mục 7 pháp lệnh du lịch).

Doanh nghiệp du lịch là một hệ thống mở có quan hệ chặt chẽ
với môi trường kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp là một tế bào trong hệ thống
phân công lao
động xã hội nói chung và ngành du lịch nói riêng. Doanh nghiệp du lịch
là một đơn vị cung ứng trên thị trường du lịch, đồng thời là một đơn vị tiêu
thụ.
Công ty lữ hành là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh du lịch trọn
gói cho khách du lịch. Ngoài ra, công ty lữ hành còn có thể tiến hành các hoạt
động trung gian, bán các sản phẩm của các nhà cung cấp du lịch hoặc thực
hiện các hoạt động kinh doanh tổng hợp khác, đảm bảo phục vụ các nhu cầu
du lịch của khách từ khâu đầu đến khâu cuối cùng.
10
Khách sạn: Để đáp ứng nhu cầu về lưu trú các doanh nghiệp tồn tại
dưới nhiều hình thức, tên gọi khác nhau: khách sạn, motel, làng du lịch, lều
trại, biệt thự,…ứng với mỗi một tên gọi là hình thức kinh doanh khác nhau và
khách sạn được định nghĩa như sau:
Khách sạn là cơ sở cung cấp dịch vụ lưu trú (với đầy đủ tiện nghi,
dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí và các dịch vụ cần thiết khác cho
khách lưu lại tạm thời qua đêm tại các điểm du lịch).
Như vậy, qua đây ta có thể thấy được hoạt động kinh doanh khách
sạn là hoạt động kinh doanh các dịch vụ cho thuê buồng ngủ, ăn uống và các
dịch vụ khác của khách sạn nhằm thoả mãn các nhu cầu về lưu trú tạm thời
của khách tại các điểm du lịch với mục đích thu lợi nhuận.
2 Các nguồn lực để phát triển du lịch
Qua kinh nghiệm hoạt động du lịch trên thế giới đã cho thấy rằng để có
thể phát triển được ngành du lịch cần phải có những nguồn lực chủ yếu bao
gồm:
1 Tài nguyên thiên nhiên
Thiên nhiên là môi trường sống của con người và sinh vật trên trái đất,
song chỉ có các thành phần và cá thể tổng hợp tự nhiên trực tiếp hoặc gián được

khai thác phục vụ cho mục đích phát triển du lịch mới được xem là tài nguyên
du lịch thiên nhiên. Các tài nguyên du lịch thiên nhiên bao gồm:
 Địa hình: Các dạng địa hình tạo nền cho phong cảnh, một số kiểu địa hình đặc
biệt và các di tích tự nhiên có giá trị phục vụ cho nhiều loại hình du lịch. Khách
du lịch có tâm lý và sở thích chung đó là muốn đến những nơi có phong cảnh
đẹp, khác lạ so với nơi họ đang sinh sống. Những tài nguyên địa hình được
khai thác cho du lịch thường là: những phong cảnh đẹp, hang động, các bãi
biển, các đảo và quần đảo ven bờ, các di tích tự nhiên.
 Khí hậu: Là một dạng tài nguyên du lịch quan trọng, các điều kiện khí hậu
được xem như các tài nguyên khí hậu phục vụ cho các mục đích du lịch khác
nhau.
 Tài nguyên nước: Đối với hoạt động du lịch, thủy văn cũng được xem là một
dạng tài nguyên quan trọng. Nhiều loại hình du lịch gắn bó với đối tượng nước
11
chính và tạo thêm nhiều sản phẩm du lịch mới, thích hợp như mặt nước và
vùng ven bở, tài nguyên khoáng nước.
 Sinh vật: Tài nguyên sinh vật có giá trị tạo nên phong cảnh làm cho thiên nhiên
đẹp và sống động hơn. Đối với một số loại hình du lịch như du lịch sinh thái,
du lịch tham quan, nghiên cứu khoa học, tài nguyên sinh vật có ý nghĩa cực kì
quan trọng trước hết là tính đa dạng sinh học, là sự bảo tồn được nhiều loài gen
quý giá rất đặc trưng cho vùng nhiệt đới, là việc tạo nên những phong cảnh
mang dáng dấp vùng á nhiệt đới và vùng ôn đới là mắt đối với những đời sống
ở vùng nhiệt đới. Tài nguyên du lịch được khai thác cho du lịch thường là các
vườn quốc gia, các khu rừng đặc dụng, hệ sinh thái đặc biệt, các khu sinh vật
nuôi.
 Cảnh quan tự nhiên: Trên đây là các dạng tài nguyên du lịch tự nhiên chủ yếu
dựa trên các thành phần của tự nhiên để làm cơ sở cho việc xác định các loại
hình du lịch và có định hướng khai thác chúng theo những chủ đề chương trình
thích hợp nhất định. Nhưng trong thực tế, các dạng tài nguyên luôn gắn bó với
nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau và cùng được khai thác một lúc tạo nên các sản

phẩm du lịch hoàn chỉnh, có tính tổng hợp cao. Vì thế các tài nguyên du lịch
cần được xem xét dưới các gốc độ tổng hợp của các dạng tài nguyên với nhau
tại mỗi một đơn vị lãnh thổ có không gian và thời gian xác định.
2 Tài nguyên nhân văn
 Dân cư, dân tộc học:
Mỗi dân tộc có những điều kiện sinh sống, những đặc điểm văn hóa,
phong tục tập quán, hoạt động sản xuất mang những sắc thái riêng của mình và
có địa bàn cư trú nhất định. Những đặc thù của từng dân tộc có sức hấp dẫn
riêng đối với khách du lịch.
Các đối tượng du lịch gắn liền với dân tộc học có ý nghĩa với du lịch là
các tập tục lạ về cư trú, về tổ chức xã hội, về thói quen ăn uống sinh hoạt, về
kiến trúc cổ, các nét truyền thống trong quy hoạch cư trú và xây dựng, trang
phục dân tộc…
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều thể hiện những sắc thái riêng biệt của
mình để thu hút khách du lịch. Người Tây Ban Nha ở vùng biển Địa Trung Hải
với nền văn hóa Phlamancô và truyền thống đấu bò là đối tượng hấp dẫn khách
12
du lịch nghỉ hè ở châu Âu. Đất nước Pháp, Italia, Hy Lạp… là những cái nôi
của văn minh châu Âu. Kho tàng văn hóa, sinh hoạt văn hóa đặc thù là điều
kiện thuận lợi cho công nghiệp du lịch phát triển.
 Di tích lịch sử - văn hóa, cách mạng: Di tích lịch sử - văn hóa là những không
gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch
sử, do tập thể hoặc cá nhân con người hoạt động sáng tạo ra trong lịch sử để lại.
Di tích lịch sử - văn hóa ở mỗi dân tộc, mỗi quốc gia được phân chia thành:
o Di tích văn hóa khảo cổ: là những địa điểm ẩn giấu một bộ phận giá trị văn
hóa, thuộc về thời kỳ lịch sử xã hội loài người chưa có văn tự và thời gian nào
đó trong lịch sử cổ đại.
o Di tích lịch sử: di tích lịch sr thường bao gồm (1) di tích ghi dấu về dân tộc
học; (2) di tích ghi dấu sự kiện chính trị quan trọng, tiêu biểu có ý nghĩa quyết
định chiều hướng phát triển của đất nước, của địa phương; (3) di tích ghi dấu

chiến công chống xâm lược; (4) di tích ghi dấu những kỷ niệm; (5) di tích ghi
dấu sự vinh quang trong lao động; (6) di tích ghi dấu tội ác của đế quốc, phong
kiến và độc tài.
o Di tích văn hóa nghệ thuật: là các di tích gắn với các công trình kiến trúc có giá
trị nên còn gọi là di tích kiến trúc nghệ thuật. Những di tích này không chỉ chứa
đựng những giá trị kiến trúc mà còn chứa đựng cả những giá trị văn hóa xã hội,
văn hóa tinh thần (Tháp Eiffel, Khải Hoàn Môn ở Pháp, khu đền Angkor Wat
Kampuchea, Kim tự tháp Ai Cập…)
 Lễ hội: là nét độc đáo đăc trưng cho mỗi dân tộc. Nhìn bề ngoài có thể lễ hội
mang tính chất cổ không phù hợp với tính hiện đại trong thời kỳ thông tin bùng
nổ như hiện nay, nhưng nếu thực sự để tâm nghiên cứu sẽ thấy được những nét
hết sức độc đáo và không khỏi kinh ngạc về giá trị phi thời gian, đồng thời
thông qua đó có thể hiểu rõ hơn về sinh hoạt về nhu cầu tâm linh của người xưa
được minh họa rõ nét cho từng giai đoạn lịch sử của dân tộc. Điều đó chính là
điều du khách mong muốn khám phá. Mong muốn của du khách không chỉ đơn
thuần chỉ ngắm nhìn thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên, những danh lam thắng
cảnh, những di tích cổ xưa, nghe những huyền thoại về đất nước con người mà
còn có nhu cầu hiểu biết phong tục tập quán, nét sinh hoạt văn hóa truyền
thống dân gian cũng như đời sống hiện tại.
13
Chính lễ hội là nguồn cung cấp những nhu cầu đó cho du khách. Do đó
lễ hội tạo nên sức hấp dẫn du khách một cách mãnh liệt.
 Các loại hình nghệ thuật ca múa, nhạc, sân khấu: Các loại hình nghệ thuật ca
múa nhạc sân khấu cũng là một di sản của con người có khả năng hấp dẫn du
khách trong và ngoài nước. Có thể nói trong sinh hoạt văn hóa có tính đặc
trưng của mỗi địa phương mỗi vùng đóng vai trò hết sức quan trọng. Trong
chuyến du ngoạn trên những dòng kênh rạch len lõi trong miệt vườn đầy hoa
trái, bên cạnh vẻ đẹp thiên nhiên nếu được nghe những điệu lý, lời ca vọng cổ,
bay bổng giữa trời đất mênh mông, cỏ cây sông nước thì tính hấp dẫn sẽ tăng
lên gấp bội lần. Nếu bạn đến Angkor Wat có kèm theo những điệu múa dân

gian, những trang phục của vua chúa cổ xưa hẳn sẽ làm du khách thú vị hơn
gấp nhiều lần. Những đội ca nhạc của chùa, nhà thờ, những ngày tết tát nước,
những ngày hội đua thuyền trên sông… sẽ phục vụ tốt hơn nhu cầu thưởng
ngoạn của khách.
 Nghề và làng nghề truyền thống: Nghề thủ công truyền thống cũng là loại tài
nguyên du lịch nhân văn quan trọng và có sức hấp dẫn lớn đối với du khách
thông qua những sản phẩm thủ công độc đáo, đặc sắc. Đấy cũng chính là
những đặc tính riêng của các nền văn hóa và là sức hấp dẫn của các nghề và
làng thủ công truyền thống. Những nghề thủ công truyền thống bao gồm: nghề
chạm khắc đá, nghề đúc đồng, nghề kim hoàn, nghề gốm, nghề mộc, nghề dệt –
thêu ren truyền thống, nghề sơn mài và khảm.
 Các sự kiện văn hóa, thể thao: Những hoạt động mang tính sự kiện như các giải
thể thao lớn, các cuộc triển lãm, các thành tựu kinh té quốc dân, các hội chợ,
các liên hoan phim ảnh quốc tế, ca nhạc quốc tế hay dân tộc, các lễ hội điển
hình… cũng là những đối tượng hấp dẫn du khách.
Thông thường những đối tượng văn hóa này thường tập trung ở những
thành phố lớn, và những thành phố này là những hạt nhân của các trung tâm du
lịch quốc gia, vùng và khu vực.
3 Cơ sở hạ tầng vật chất kĩ thuật
Cơ sở vật chất kĩ thuật chuyên ngành và cơ sở hạ tầng chung của nền
kinh tế là yếu tố quan trọng để phát triển ngành du lịch. Quốc gia nào nếu có cơ
sở vật chất kĩ thuật chuyên ngành và cơ sở hạ tầng chung yếu kém thì quốc gia
14
đó khó thành công trong chiến lược phát triển cho ngành du lịch hay phát triển
nền kinh tế quốc dân nói chung. Có cơ sở hạ tầng tốt thì lợi thế cạnh tranh rất
mạnh về thu hút du khách, thậm chí sẽ hấp dẫn nhà đầu tư.
4 Các yếu tố khác
Một yếu tố vô cùng quan trọng tạo nguồn tìm năng cho ngành du lịch là
chủ trương chính sách đầu tư của nhà nước. Kinh nghiệm cuả một số nước cho
thấy khi Chính phủ đầu tư mạnh cho ngành du lịch thì tốc độ tăng trưởng của

ngành tăng trưởng rất cao, khả năng cạnh tranh với ngành du lịch của các nước
trong khu vực cũng như trên thế giới rất mạnh như Thái Lan, Trung Quốc,…
1.2. Vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
và bảo về môi trường
Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới (WTTC) cho rằng nền kinh tế
vẫn còn tác động đến du lịch cho đến năm 1991. Năm 1992, du lịch bắt đầu
thoát ra khỏi sự tác động của nền kinh tế trên thế giới cũng như trong từng khu
vực, và Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế đánh giá du lịch là một trong
những ngành công nghiệp lớn nhất thế giới và khởi tạo ra những ngành nghề
ưu tú. Và họ vẫn đang cố gắng giữ vững thước đo đó. Ở bảng 1.1, chúng ta sẽ
thấy sự so sánh về thế giới trước đây từ năm 1998 và năm 2010. Năm 1998,
nền du lịch thế giới được mong chờ sẽ thu về 3,6 tỷ tỷ doanh thu và 231 triệu
việc làm (trực tiếp và gián tiếp). Ngành du lịch dự tính sẽ phát triển lên 8 tỷ tỷ
doanh thu và 238 triệu việc làm năm 2010.
Ngành du lịch tăng trưởng 8,2% GDP của thế giới năm 1998, và sẽ
tăng lên 8.7% GDP vào năm 2010. Nền kinh tế du lịch bao gồm nhu cầu công
nghiệp, được cho rằng góp phần tăng đến 11,6% GDP năm 1998 và tăng
12,5% vào năm 2010. Du lịch là chất xúc tác cho sự phát triển của ngành xây
dựng và chế tạo máy móc. Năm 1998, với sự kết hợp giữa tư nhân và nhà
nước đã mang lại 779 tỷ USD vốn đầu tư cho ngành du lịch (chiếm 11,8%
tổng số vốn đầu tư), 1,8 tỷ tỷ USD vào năm 2010 (chiếm 12% tổng số vốn
đầu tư).
Du lịch đồng thời vừa mang lại thu nhập về nguồn phúc lợi nhà nước.
Toàn thế giới vào năm 1998, ngành du lịch đã đóng góp 802 tỷ USD tiền thuế
15
(chiếm 10% trong tổng số), trong đó 253 tỷ USD được chuyển từ tiền tiêu
dùng (chiếm 6,8% tổng số). Đến năm 2010, thuế có thể tăng 1,8% tỷ tỷ USD
(chiếm 11,4%) và chi tiêu sẽ chiếm 542 tỷ USD (chiếm 7,4%).
Những chỉ số kinh tế được trích dẫn cho thấy sự phát triển của du lịch
đang góp phần quan trọng và ý nghĩa trong việc phát triển thế giới một cách

tích cực hơn. Tại phần lớn các quốc gia, du lịch là ngành có doanh thu lớn
nhất trong nền thương mại quốc tế. Ở một số nước khác nó nằm trong top 3
ngành công nghiệp mang lại lợi nhuận cao. Du lịch đang ngày càng phát triển
nhanh chóng và trở thành một vấn đề xã hội phổ biến và ảnh hưởng kinh tế
trên toàn thế giới.
Năm 1998, WTTC và WEFA Group cam kết nâng cao phương pháp
nghiên cứu về tiêu chuẩn của việc thanh toán từ xa thông qua vệ tinh, được
đưa ra dưới sự ủng hộ của tổ chức du lịch thế giới (WTO). Sự đánh giá của
họ được rút ra từ các dữ liệu gốc, và sự xác nhận chính xác hơn bởi các dữ
liệu nghiên cứu toàn diện về kinh tế của Tổ chức toàn cầu WEFA. Tất cả
những sự nghiên cứu kinh tế của WTTC và WEFA đã được tổ chức theo tiêu
chuẩn quốc tế về thanh từ xa thông qua vệ tinh cho du lịch và kinh doanh du
lịch. Việc cung cấp sự hiểu biết lớn hơn về nền kinh tế đã tạo nên nề công
nghiệp du lịch và kinh doanh du lịch, và một sự kết hợp giữa du lịch toàn
diện và nền kinh tế du lịch. Trước đây chỉ cho thấy sự hạn chế của một mặt
sản xuất nào đó, trong khi cuối cùng lại gây ảnh hưởng đến một số mặt chủ
đạo của nền kinh tế như là một hệ thống tư bản, sức tiêu dùng của nhà nước
và thương mại xuất khẩu.
WTTC đang cập nhật thông tin cơ bản trong khoảng 3 tháng/ lần. Các
bạn được khuyến khích tham khảo thông tin mới nhất trên website

Khi nền du lịch phát triển, nó đã chuyển dần từ việc chỉ cung cấp cho
người giàu sang cung cấp cho đa số, bao gồm hàng triệu con người. WTO
mong muốn phát triển các số liệu du lịch trong ấn bản hàng năm của họ như là
Tourism Highlight và Compendium of Tourism Statistics.
1.2.1 Vai trò của ngành du lịch đối với nền kinh tế
16
1.2.1.1 Vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển kinh tế
• Ngành du lịch là ngành góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế: nếu chúng ta cơ cấu ngành trong GDP của một số quốc gia tiêu biểu,

chúng ta có thể thấy rõ quốc gia nào có sự phát triển du lịch ngày càng cao thì
tỷ trọng gia trị các ngành công nghiệp càng giảm dần.
Có thể đơn cử như Thái Lan: giá trị nông nghiệp năm 1980 chiếm
23,2% nhưng do giá trị ngành du lịch phát triển nên đến năm 2003 giá trị nông
nghiệp chỉ còn 9%. Hoặc Trung Quốc: giá trị nông nghiệp chiếm 30,1% năm
1980 nhưng do du lịch phát triển nên đến năm 2003, giá trị nông nghiệp chỉ
còn 15%. Nhật : Giá trị nông nghiệp năm 1980 chiếm 3,6% đến năm 2003 chỉ
còn 1%. Và cũng tương tự như vậy tại Kampuchea giá trị nông nghiệp năm
1990 chiếm 55,6% nhưng nhờ du lịch phát triển nên năm 2003 chỉ còn 36%
• Ngành du lịch là ngành đóng góp quan trọng GDP: đối với ngành du lịch chính
tiêu dùng là khoản đóng góp vào GDP của nền kinh tế, trước hết chỉ tiêu của
khách đều là tiêu dùng; thứ hai chỉ tiêu để xây dựng khách sạn, nhà hàng, khu
vui chơi giải trí, nhà máy điện, các cơ sở hạ tầng giao thông – viễn thông, các
trang thiết bị,…để cung cấp dịch vụ du lịch đều là chi phí đầu tư, phần các
khoản đầu tư đó là do chính phủ đầu tư; thứ ba là khi một du khách chi tiêu các
dịch vụ du lịch cho các dịch vụ du lịch nước ngoài bao gồm cả chi phí vận
chuyển đến địa điểm du lịch được coi là chỉ tiêu cho nhập khẩu dịch vụ, và
ngược lại, những dịch vụ mà một nước cung cấp cho khách từ các quốc gia
khác đến thăm được coi là dịch vụ xuất khẩu. Từ những khái niệm trên, người
ta thống kê và tính toán được mức đóng góp của ngành du lịch vào GDP của
một quốc gia rất to lớn.
Để hình dung được tầm vóc, vai trò quan trọng của du lịch trong nền
kinh tế, chúng ta cần lưu ý rằng toàn bộ thu nhập thuộc khu vực I của các nước
G8 chỉ chiếm từ 1% - 3% GDP trong khi đó riêng du lịch quốc tế của các nước
nói trên đã đóng góp bình quân 1,19% GDP chưa kể đóng góp của du lịch nội
địa. Cũng theo WTO, thu nhập du lịch nội địa hầu hết tại các quốc gia công
nghiệp phát triển, thường thấp hơn thu nhập du lịch quốc tế. Ngược lại, tại các
nước kém phát triển, thu nhập du lịch quốc tế có xu hướng chiếm phần lớn
17
trong GNP. Các quốc gia lớn như: Jamaica, Pủeto Rico, và Dominican cũng

cho thấy du lịch đã đóng góp phần lớn vào GDP của quốc gia này. Tại khu vực
Đông Á – Thái Bình Dương, thu nhập du lịch của Indonesia và Philippines
chiếm 2%, Malaysia chiếm 5,72%, Thái Lan chiếm 5,46% GDP, Singgapore và
Hong Kong đều chiếm 4 – 5% GDP.
Trên phạm vi toàn cầu, thu nhập của ngành du lịch tương đương 45,8%
tổng thu nhập cảu toàn ngành dịch vụ trong giai đoạn 1990 – 2002; đặc biệt tại
các quốc gia đng phát triển, tỷ trọng đóng góp của ngành du lịch chiếm đến
60% toàn ngành dịch vụ. Ngành du lịch là ngành công nghiệp sử dụng nhiều
lao động, là ngành chủ lực có mức đóng góp quan trọng cho ngân sách quốc
gia. Trong năm 2002, thống kê về ngành du lịch đã đóng góp 8,8% vào GDP
thế giới, trong đó du lịch nội địa chiếm 75%. WTO dự báo mức đóng góp trực
tiếp hoặc gián tiếp của ngành du lịch vào GDP thế giới sẽ lên tới tỷ lệ 12,5%
vào năm 2010.
1.2.1.2 Vai trò ngành du lịch đối với phát triển các lĩnh vực kinh tế
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, giữa du lịch với các ngành kinh tế
khác có mối quan hệ biện chứng, hỗ trợ lẫn nhau nhưng vẫn mang tính độc lập
tương đối của nó. Các ngành kinh tế phát triển tạo tiền đề quan trọng cho ngành
du lịch và ngược lại du lịch phát triển sẽ là đòn bẩy, là ngòi nổ kéo các ngành
khác phát triển theo.
 Du lịch với các ngành nghề sản xuất – xuất khẩu:
 Đối với hàng tiêu dùng: trong quá trình sản xuất đã tạo ra khối lượng hàng hóa
lớn, thị trường nội địa không thể tiêu thụ hết sản phẩm, việc xuất khẩu lại gặp
khó khăn do vấn đề cạnh tranh và bảo hộ mậu dịch nên người ta đang tìm
phương pháp để giải quyết. Một trong những lối ra đó là xuất khẩu tại chỗ bằng
việc mở cửa du lịch, thu hút nhiều khách quốc tế đến thăm là một trong những
phương thức để xuất khẩu hàng hóa, mở rộng thị trường tiêu thụ bằng các cửa
hàng miễn thuế tại sân bay, bến cảng, trung tâm thương mại. Theo tính toán ở
Thụy Sĩ cho thấy một món ăn xuất khẩu đơn thuần chỉ thu 6 USD, nếu phục vụ
tại chỗ cho khách nước ngoài có thể thu được 20USD cao hơn 3,3 lần. Như vậy
xuất khẩu tại chỗ hàng hóa và dịch vụ đem lại hiệu quả rất lớn cho nền kinh tế.

18
 Đối với hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống: các dịch vụ cơ bản như ăn, ở,
vận chuyển đến nơi du lịch hầu như mọi khách đều có thể biết trước qua các
phương tiện thông tin quảng cáo du lịch; còn đối với các loại dịch vụ và các
sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống, thì mỗi nơi mỗi vẻ và người ta ngày
càng cố gắng tạo ra bản sắc riêng – độc đáo cho ssanr phẩm của địa phương
mình nên giá cả của loại sản phẩm du lịch này mang tính độc quyền cao.
Những món quà lưu niệm hoặc vật dụng hằng ngày được thể hiện bằng những
sản phẩm thủ công tinh xảo do bàn tay của các nghệ nhân địa phương sản xuất
ra luôn là mối quan tâm tìm kiếm của du khách. Du lich phát triển sẽ kích thích
khôi phục các ngành nghề truyền thống, thủ công mỹ nghệ tại địa phương, đem
lại công ăn việc làm cho người dân. Cung cấp được một khối lượng lớn hàng
hóa và dịch vụ bổ sung cho du khách là thực hiện có hiệu quả việc xuất khẩu
tại chỗ, mở rộng khả năng kinh doanh tổng hợp của du lịch, đem về nhiều
ngoại tệ cho đất nước.
 Du lịch với đầu tư: để phát triển kinh tế nói chung và du lịch nói riêng các quốc
gia cần có nhiều vốn để xây dựng hạ tầng cơ sở như hệ thống giao thông,
phương tiện vận chuyển, thông tin liên lạc, va cơ sở vật chất chuyên ngành cho
du lịch như khách sạn, khu vui chơi… Các quốc gia kém phát triển hầu hết đều
thiếu cả về tư bản lẫn chất xám; vì vậy việc kêu gọi thu hút vốn đầu tư nước
ngoài đẻ xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế đồng thời xây dựng cơ sở vật
chất cho ngành du lịch là cần thiết và thích ,hợp cho cả 2 bên; đặc biệt là thu
hút các tập đoàn du lịch, khách sạn xuyên quốc gia trên thế giới đầu tư vào
ngành du lịch. Thu hút vốn đầu tư vào nền kinh tế nói chung và ngành du lịch
nói riêng sẽ làm gia tăng sản lượng quốc gia theo lý thuyết bội số đầu tư của
Keynes, thu nhập của xã hội tăng lên lại tạo cho người dân cơ hội và điều kiện
để chi tiêu cho du lịch nhiều hơn, hiệu quả số nhân càng cao hơn.
 Du lịch và giao thông - vận tải
Giữa giao thông – vận tải và du lịch có mối quan hệ chặt chẽ tác động
hỗ tương lẫn nhau. Với khối lượng khổng lồ khách du lịch quốc tế và du lịch

nội địa đi lại trên thế giới hàng năm đã đem lại nhiều tỷ đôla thu nhập cho các
công ty cung ứng du lịch, cho các hãng vận tải hàng không – đường biển –
đường sắt… và tất nhiên tăng cả nguồn thu cho ngân sách các quốc gia. Nhà
19
nước có đủ điều kiện tài chính nên dễ dàng tăng cường đầu tư xây dựng, nâng
cấp cơ sở hạ tầng giao thông trang bị thêm nhiều phương tiện vận chuyển hiện
đại – an toàn – tiện nghi hơn cho xã hội và du khách, thúc đẩy du lịch phát triển
mạnh. Chính giao thông – vận tải phát triển tốt đã trở thành động lực thúc đẩy
người đi du lịch nhiều hơn. Hơn nữa, hệ thống giao thông – vận tải còn cung
cấp một loại dịch vụ du lịch cơ bản – dịch vụ vận chuyển – phục vụ cho du
khách trong cuộc hành trình.
Kinh nghiệm phát triển du lịch trên thế giới cho thấy quốc gia hoặc lãnh
thổ nào có mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông hoàn chỉnh – hiện đại, những
phương tiện vận tải tiên tiến, … thì ở đó ngành du lịch phát triển mạnh.
 Du lịch và viễn thông – tin học:
Ngày nay, viễn thông là ngành cơ sở hạ tầng vô cùng quan trọng của nền
kinh tế. Đối với du khách, đặc biệt là du khách từ các nước công nghiệp hóa,
dịch vụ viễn thông cần như không khí đối với cuộc sống nên viễn thông là dịch
vụ tiện ích không thể thiếu được trong quá trình tham quan du lịch. Đối với đơn
vị cung ứng dịch vụ, viễn thông còn là phương tiện tối thiết cần trong việc tổ
chức – quản lý – kinh doanh và thực hiện chương trình du lịch. Trên góc độ vĩ
mô, viễn thông phát triển đã thúc đẩy mối quan hệ giao thương giữa các quốc
gia, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư quốc tế, làm cho các cộng đồng
xa xôi xích lại gần nhau và thúc đẩy cho ngành du lịch phát triển. Nhờ sự phát
triển nhanh của công nghệ viễn thông, dặc biệt với dịch vụ Roaming toàn cầu
giữa các mạng viễn thông của các nước với nhau, du khách có thể sử dụng một
cách dễ dàng dịch vụ điện thoại di động, truy cập Internet khi đi đến bất kì
nước nào có tham gia vào hiệp định Roaming bằng chính số điện thoại hoặc
account Internet đã đăng ký ở địa phương.
Với công nghệ thẻ thông minh và mạng Internet toàn cầu giờ đây du

khách và các nhà cung ứng dịch vụ du lịch như: hãng lữ hành, khách sạn, hãng
hàng không,… có thể liên hệ với nhau trực tiếp tận nhà để giải quyết mọi vấn
đề cho chuyến đi ( từ thủ tục xuất – nhập cảnh, đặt phòng khách sạn, mua vé
máy bay…).
 Du lịch và vấn đề đô thị hóa – phát triển địa phương:
20
Quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới từ trước đến
nay có gắn liền với đô thị hóa, công nghiệp hóa. Theo thống kê của WB, những
quốc gia có thu nhập thấp điển hình như: Ethiopia, Tanzania, Kampuchea, Việt
Nam, Ấn Độ,… là những quốc gia có mức độ đô thị hóa thấp, tỷ lệ dân số đô
thj bình quân từ 22 – 28%; trong khi đó các quốc gia công nghiệp phát triển, có
thu nhập cao như Tây Ban Nha, Anh, Ý, Pháp, Mỹ, Nhật, Đức… là những quốc
gia đô thị hóa cao, tỷ lệ dân số thành thị bình quân từ 76 -77%; cá biệt có
những quốc gia hoặc lãnh thổ có tỷ lệ dân số đô thị trên 85% như Đức, Anh,
Hồng Kông,… hoặc 100% như Singapore.
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy việc phát triển ngành du lịch thường
cũng là quá trình đô thị hóa của một vùng trước đó còn lạc hậu. Hawai, trước
đây cũng chỉ là một hòn đảo nhỏ trên Thái Bình Dương với ít thổ dân sinh sống
bằng nghề nông. Ngày nay Hawai được gọi là thiên đường du lịch của nước
Mỹ và trên thế giới, mỗi năm tiếp đón gần 7 triệu du khách, thu về trên 9 tỷ
USD chiếm 35% trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Như vậy chúng ta có thể rút ra nhận xét: đô thị hóa là quy luật tất yếu
của sự phát triển nền kinh tế, nó gắn liền với công nghiệp hóa – hiện đại hóa,
gắn liền với quá trình phát triển các ngành dịch vụ, trong đó có ngành du lịch.
Phát triển đô thị tạo nên cơ sở hạ tầng chung cho nền kinh tế nhưng cũng đồng
thời tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật và thậm chí còn cung cấp thêm tài nguyên
cho ngành du lịch thu hút khách du lịch quốc tế.
 Du lịch và các ngành nghề khác
 Đối với thuế: theo số liệu thống kê của WTO, ngày nay du lịch là một trong
những ngành chủ lực đem lại nguồn thu quan trọng cho ngân sách quốc gia.

Ngành du lịch đóng góp vào ngân sách quốc gia thông qua thuế gián thu đánh
trên người tiêu dùng, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân.
Căn cứ vào báo cáo của Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới – WTTC – về
đóng góp của ngành du lịch vào nền kinh tế thế giới cho thấy số thuế ( bao gồm
thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân) do ngành du
lịch đóng góp 820 tỷ USD vào năm 2000, sẽ đạt tới 1.765,3 tỷ USD vào năm
2010. Giữa ngành du lịch và thuế có mối quan hệ tác động qua lại, thuế suất
21
cao hay thấp tác động ngay lập tức đến hoạt động kinh doanh của ngành du
lịch. Nếu Nhà nước có chính sách thuế không thích đáng đối với ngành du lịch
sẽ khuyến khích du khách tìm đến những địa điểm khác để du lịch.
 Đối với Hải quan – Công an – Ngoại giao: du lịch và các ngành Hải quan,
Công an, Ngoại giao cũng có mối quan hệ vô cùng khăng khít. Chính nhân viên
của những ngành này là những người mà du khách tiếp xúc trước tiên hoặc sau
cùng khi đến tham quan một quốc gia khác. Để thu hút khách, ấn tượng đầu
tiên đóng vai trò vô cùng quan trọng là thái độ , cách đối xử của cán bộ - viên
chức trong quá trình xin duyệt thủ tục nhập – xuất cảnh, khai báo thủ tục hải
quan ở các cửa khẩu sẽ tạo lập hình ảnh ban đầu khó quên trong lòng du khách.
1.2.1.3 Vai trò của du lịch trong lĩnh vực văn hóa – xã hội
 Du lịch là ngành tạo ra hàng trăm triệu công ăn việc làm
Phát triển du lịch khắp quốc gia đối phó với nạn thất nghiệp nhờ khả
năng thu hut một lượng lớn nhân công làm việc trong ngành du lịch cũng
như những ngành liên quan. Theo thống kê của WTO trong năm 1999
ngành du lịch toàn cầu đã tạo ra 192,3 triệu việc làm, và năm 2000 ở Liên
minh châu Âu ngành du lịch đã tạo ra việc làm cho hơn 20 triệu người,
nước Anh hơn 1,5 triệu việc làm cũng do du lịch nước này tạo ra. Như vây,
dựa theo WTO trong dự án VIE 89/003 thì một việc làm trong ngành du
lịch sẽ phát sinh 3,25 việc làm ở các ngành khác tại Indonesia, và 2 việc
làm khác tại Việt Nam. Xét dưới khía cạnh hệ số sử dụng nhân công,
nghiên cứu tình hình lao động trong nền kinh tế tại các nước ASEAN và

Việt Nam cho thấy nền kinh tế càng phát triển, lao động trong ngành dịch
vụ càng tăng. Tuy nhiên cùng một lượng vốn đầu tư như nhau ngàh du lịch
luôn sử dụng số lượng lao động nhiều hơn ngành công nghiệp.
 Du lịch là đầu mối giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng
Thông qua việc tiêu thụ sản phẩm du lịch, những quốc gia đã giới
thiệu những nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng – địa phương mình. Du
khách được mở rộng kiến thức, hiểu biết thêm nhiều điều mới lạ về văn
hóa, nghệ thuật kiến trúc, phong tục tập quán, triết lý sống, danh lam thắng
cảnh, di tích lịch sử, trình độ phát triển của các địa phương và các quốc gia
khác. Trong bản tuyên bố của Chính phủ Manila về du lịch nêu rõ: “…
22
quyền được nghỉ ngơi tạo đièu kiện cho người dân được hiểu môi trường
sống của mình, khơi sâu ý thức dân tộc và tình đoàn kết ở trong mỗi công
dân làm cho mọi người gắn bó với đồng bào của mình, khơi sâu chính kiến
của công dân về một nền văn hóa và một dân tộc nào đó mới chính là lý do
cấp thiết tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia vào hoạt động du
lịch”. Du lịch phải được hiểu như một hoạt động cốt yếu cho cuộc sống các
dân tộc trên thế giới, bởi lẽ nó có tác dụng trực tiếp với các lĩnh vực văn
hóa, xã hội, giáo dục, kinh tế và quan hệ quốc tế của các quốc gia trên thế
giới. vì vậy, phạm trù du lịch được coi như cánh cổng giao lưu văn hóa giữa
các cộng đông trên thế giới.
 Du lịch là phương tiện giáo dục và hoạt động xã hội
• Về mặt giáo dục:
Nền giáo dục tại hầu hết các quốc gia trên thế giới dù là tiên tiến, được
cập nhật hóa lien tục vẫn có một khoảng cách giữa lý thuyết và thực tiễn. Hiện
nay, việc giảng dạy được cải tiến, gắn liền lý thuyết với thực hành, ngay các
môn khoa học xã hội và nhân văn cũng được cụ thể hóa bằng tài liệu phim ảnh.
Tuy nhiên, học viên vẫn chưa nhìn nhận đầy đủ hết mọi khía cạnh của vấn đề
cho nên cần phải đi đến nơi để nghe tận tai, thấy tận mắt đã trở thành một nhu
cầu bức xúc. Vì vậy các trường trung học, đại học ở các quốc gia tiên tiến

thường xuyên tổ chức các chuyến du lịch học tập có chủ đích vào cuối tuần hay
kỳ nghỉ hè để giúp học viên cũng cố kiến thức.
• Về mặt giao tiếp và hoạt động xã hội:
Thực tế cho thấy khi thực hiện các chuyến du hành người ta có dịp trực
tiếp đối thoại, tìm hiểu lẫn nhau giữa những người trong cùng một chuyến đi
hoặc giữa đoàn du khách với cộng đồng dân cư tại nơi đến du lịch nên con
người có cơ hội để thong cảm – hiểu biết – xíh lại gần nhau hơn. Mặt khác, do
tận mắt chứng kiến và hiểu biết tường tận hoàn cảnh, tình hình, môi trường tự
nhiên và xã hội tại các cộng đồng, địa phương khác nhau nên các hoạt động xã
hội được thực hiện trực tiếp và có hiệu quả.
 Ngành du lịch góp phần quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc
sống
• Giải trí:
23
Do công nghiệp hóa, đô thị hóa khiến cho không gian làm việc, sinh
sống của con người bị thu hẹp lạo trong bốn bức tường. Cường độ lao động
khẩn trương, không khí làm việc căng thẳng nên họ khao khát tìm nơi yên vắng
có môi trường sinh thái trong lành để thư giãn, nghỉ ngơi, đi du lịch. Nội dung
của tuyên bố ở Manila về du lịch cũng cho thấy mọi nhận thức về phát triển
kinh tế - xã hội và văn hóa của nhân loại đều phải tính đến hoạt động mang tính
quốc gia và quốc tế của du lịch và giải trí – những hoạt động hiện đang là bộ
phận không thể tách rời cuộc sống của quần chúng nhân dân vào các kỳ nghỉ.
• Sức khỏe:
Với nhịp sống, lao động dồn dập của xã hội công nghiệp hiện đại đã làm
xuất hiện những căn bệnh mà thế kỷ trước đây chưa hoặc ít có như: căng thẳng
thần kinh, huyết áp cao, bệnh nghề nghiệp,… Ở Nhật Bản, những năm gần đây
do cường độ lao động quá căng thẳng và thời gian làm việc dài đã xuất hiện
một chứng bệnh Karoshi, gây cái chết đột ngột do tim và não ngừng làm việc,
cho nên các công ty, xí nghiệp Nhật Bản thường khuyến khích công nhân của
họ đi du lịch, giải trí để hồi phục sức khỏe. Như vậy, du lịch vừa là mục đích

vừa là phương tiện để hhooif phục và tăng cường sức khỏe cho mọi người sau
những giờ lao động, là công cụ đặc thù để cải thiện chất lượng cuộc sống của
con người và đóng vai trò quan trọng trong việc làm sạch môi trường.
1.2.1.4 Vai trò của ngành du lịch đối với môi trường
 Những mặt tác động tích cực và tiêu cực của du lịch đối với môi trường
• Những mặt tác động tích cực của ngành du lịch đối với môi trường:
Du lịch cũng hoạt động theo khuynh hướng phục hồi, bảo tồn và bảo vệ
môi trường cũng như việc khôi phục, tôn tạo các kho tang lịch sử để tạo ra và
duy trì các công viên và khu vực bảo tồn khác. Lợi ích của việc không tiêu
diệt động vật hoang dã cho du lịch có thể hạn chế những hoạt động gây bất lợi
cho môi trường. Ví dụ tại Canada, một tập đoàn du lịch New Brunswick đưa
du khách đến thăm và chụp ảnh các loại hải cẩu Labrador bị giết để lấy bộ
lông thong qua đó sẽ có những kiến nghị và giải pháp phù hợp cho hoạt động
đó. Ngành du lịch có thể sẽ là động cơ cải thiện chất lượng môi trường. Một
công trình của nhà máy xử lý nước thải tại Cyprus là một ví dụ nơi mà sức ép
và thu nhập từ ngành du lịch đã dẫn đến việc giảm bớt ô nhiễm nước và cung
24
cấp nước cho công nghiệp. Những tác động tích cực của ngành du lịch đối với
môi trường được tóm lại như sau:
 Phát triển về thu hút du khách: bảo tồn, phục hồi và bảo vệ thiên nhiên và di
sản có thể bắt nguồn từ nhu cầu nhận thức để phát huy sự hấp dẫn cho du
khách và di tích này cũng mang lại thu nhập cho ngành du lịch.
 Sự phát triển cơ sở hạ tầng: cải thiện đường sá, hệ thống quản lý cung cấp nước
sạch và xử lý nước thải có thể do việc tăng thu nhập từ ngành du lịch. Những
cải tiến như thế có thể cắt giảm ô nhiễm và cải thiện chất lượng môi trường
thiên nhiên.
• Những mặt tác dộng tiêu cực của ngành du lịch đối với môi trường:
 Hủy hoại môi trường: những tác động tiêu cực đến môi trường rõ ràng nhất là
những tác động liên quan đến sự mất mát, hủy hoại đến môi trường. Tại khu
vực Địa Trung Hải, mức độ phát triển khách sạn quá nhiều có thể phá hủy môi

trường tự nhiên, đỏ xô ra thăm các quan cảnh biển và dẫn đến thiệt hại các khu
di tích lịch sử. Theo chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc gần ¾ cồn
cát tại bờ biển Địa Trung Hải giữa Gibralar và Sicily đã biến mất do việc xây
dựng các khu nghỉ mát hay sự xói mòn do san bằng đất đai để phát triển. Tại
Kenya nhu cầu về khu nghỉ mát du lịch và khách sạn đã dẫn đến việc phá hủy
khu rừng cây đước để làm vật liệu xây dựng. nhiều nơi là tổ ấm của các loài
động vật dẫ trở thành địa điểm để xây dựng các nhà nghỉ của du khách.
 Ô nhiễm: là nhân tố tác động tiêu cực chủ yếu của du lịch. Giao thông là đầu
mối cơ bản của cả ô nhiễm không khí và tiếng ồn; người ta ước tính rằng
khoảng 2 triệu tấn nhiên liệu hàng không được đốt cháy mỗi năm tạo ra 550
triệu tấn khí đốt nhà kính và 3,5 triệu tấn hóa chất tạo ra mưa axit.[70, tr.257].
Ô nhiễm nước từ nước thải và sử dụng các loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và
phân bón ở các khu phong cảnh giải trí cũng là những vấn đề cơ bản cho nhiều
địa điểm du lịch. Ví dụ, tại vùng Caribe nước thải không được xử lý đã dẫn đến
các khu vực giải trí biển có nhiều cấp độ nhiễm khuẩn cao. Nước thải du lịch
cũng có thể gây ra một số vấn đề do các hệ thống xử lý nước thải quá tải và rác
thải như ở New Forest của Anh quốc nơi mà hàng trăm chai lọ rỗng được thu
lượm mọi năm. Nhiều nhân tố tiêu cực này bị ảnh hưởng liên đới và do những
tác động lâu dài và tích lũy của việc phát triển du lịch, một kinh nghiệm ở khu
25

×