Tải bản đầy đủ (.pptx) (29 trang)

Báo cáo chuyên đề hướng nghiệp phân luồng học sinh các hướng đi sau tốt nghiệp trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.1 KB, 29 trang )

TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ

NGUYỄN HỮU THỌ
BÁO
BÁO CÁO
CÁO CHUYÊN
CHUYÊN ĐỀ
ĐỀ HƯỚNG
HƯỚNG NGHIỆP
NGHIỆP

PHÂN LUỒNG HỌC SINH
CÁC HƯỚNG ĐI SAU TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC CƠ SỞ


NỘI DUNG

I

II

III

IV

ĐẶT VẤN ĐỀ

VẤN ĐỀ PHÂN LUỒNG HỌC SINH

THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÂN LUỒNG


NGUYÊN NHÂN

GIẢI PHÁP PHÂN LUỒNG HỌC SINH SAU TRUNG HỌC CƠ SỞ
V

VI

KẾT LUẬN.


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, ngành GD-ĐT cả nước nói chung và TP Hồ Chí Minh nói riêng đã có
nhiều hoạt động đẩy mạnh phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở, tuy nhiên hiệu quả hoạt
động vẫn còn thấp, sau khi học xong THCS đa số các em chủ yếu vào học THPT và học lên bậc CĐ, ĐH…
Vấn đề học nghề chưa được các em quan tâm.

Các cơ quan quản lý giáo dục các cấp đã có nhiều Văn bản đưa ra mục tiêu, chương trình, kế
hoạch thực hiện và các nhà quản lý giáo dục cũng đã đưa ra nhiều biện pháp, đề án triển khai thực hiện.
Trong thực hiện kế hoạch chủ trương đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhiều địa phương đã ít nhiều đề
cập đến biện pháp phân luồng học sinh sau THCS bởi vì đây chính là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao
tỷ lệ lao động qua đào tạo.


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhưng nhìn chung, việc phân luồng học sinh sau THCS vẫn chưa hợp lý, biểu hiện với nhiều yếu kém
sau:

Tỉ lệ học sinh sau tốt nghiệp THCS vào học các trường Trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) và các trường
dạy nghề còn ít, đa số học sinh đăng ký vào học các trường THPT một cách miễn cưỡng không xác định
được mục tiêu của bản thân. Tỉ lệ học sinh bỏ học toàn khoá còn lớn với nhiều lý do ( hoàn cảnh gia

đình, sức học…)

Một bộ phận học sinh sau tốt nghiệp THCS không học tiếp mà quyết định tham gia lao động sản xuất
với tư thế là người lao động giản đơn làm giảm chất lượng nguồn nhân lưc lao động có tay nghề cao,
chuyên môn giỏi.


I. ĐẶT VẤN ĐỀ

 Một bộ phận học sinh học lực yếu kém vẫn quyết tâm theo đuổi THPT như học lại, thi lại, một số theo
học các trung tâm giáo dục thường xuyên.

 Hầu như các học sinh khá giỏi có hoàn cảnh khó khăn đều không chọn vào các trường TCCN hay các
trường dạy nghề.

Vậy giải pháp nào có thể được đưa ra để giải quyết các yếu kém trên ?


II. VẤN ĐỀ PHÂN LUỒNG HỌC SINH SAU KHI TỐT NGHIỆP THCS
1. Phân luồng học sinh sau Trung học cơ sở là gì?

Theo nghị định 75/2006/NĐ-CP ngày 02/08/2006 của Chính phủ: “Phân luồng trong giáo dục là biện pháp
tổ chức hoạt động giáo dục trên cơ sở thực hiện hướng nghiệp trong giáo dục, tạo điều kiện để HS tốt nghiệp
THCS, THPT tiếp tục học ở cấp học trình độ cao hơn, học trung cấp, học nghề hoặc lao động phù hợp với
năng lực, điều kiện cụ thể của mỗi cá nhân, nhu cầu xã hội; góp phần điều tiết cơ cấu ngành nghề của lực
lượng lao động phù hợp với nhu cầu phát triển của đất Nước”.


II. 1. Phân luồng học sinh sau Trung học cơ sở là gì?


Như vậy, phân luồng học sinh sau THCS là việc lựa chọn, sắp xếp mang tính xã hội để học
sinh sau khi tốt nghiệp THCS tiếp tục được giáo dục và đào tạo theo những khuynh hướng
và ngành học khác nhau cho phù hợp với nguyện vọng, năng lực học sinh và nhu cầu xã
hội hoặc vừa học vừa tham gia vào lao động sản xuất.
Học sinh sau tốt nghiệp THCS hiện nay được phân chia theo bốn hướng khác nhau
như sau:


II. VẤN ĐỀ PHÂN LUỒNG HỌC SINH SAU KHI TỐT NGHIỆP THCS (tt)

Tốt
Tốt nghiệp
nghiệp THCS
THCS

THPT
THPT hệ
hệ

THPT
THPT hệ
hệ không
không

TCCN
TCCN trình
trình độ
độ THCS
THCS


Tham
Tham gia
gia lao
lao động
động

chính
chính quy
quy

chính
chính quy(
quy(GDTX)
GDTX)

hoặc
hoặc trường
trường dạy
dạy nghề
nghề

sản
sản xuất.
xuất.

Lưu đồ các hướng đi của học sinh sau tốt nghiệp trung học cơ sở:


II. VẤN ĐỀ PHÂN LUỒNG HỌC SINH SAU KHI TỐT NGHIỆP THCS (tt)
2. Tại sao phải thực hiện phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS ?


Phân hoá trong giáo dục là xu hướng tất yếu trong việc phát triển năng lực, hình thành nhân cách của học
sinh sau một quá trình giáo dục rèn luyện.

Trong giáo dục phổ thông, sau mỗi lớp học, cấp học sự phân hoá sẽ chia học sinh thành những nhóm khác
nhau về học lực, về sở thích, nguyện vọng, xu hướng nghề nghiệp. Nhiệm vụ của giáo dục là làm sao đáp
ứng tốt nhất các yêu cầu khách quan đó. Dạy học phân hóa, thực hiện phân ban và phân luồng học sinh là
những cách thức để giải quyết các vấn đề cấp thiết hiện nay của xã hội.


II.2. Tại sao phải thực hiện phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS ?
Tuy nhiên phân luồng khác với phân hóa. Đối với học sinh sau THCS, phân hóa giúp cho phân luồng
được đa dạng và cụ thể hơn. Phân luồng và phân ban là các giải pháp thực hiện dạy học phân hóa. Trong
mỗi luồng có sự phân hóa theo luồng thí dụ trong luồng Trung học phổ thông (THPT) có trường THPT
chuyên, trường “không chuyên ”, các trường năng khiếu khác nhau hoặc phân hóa nhỏ hơn ( theo nhóm
môn hoặc theo môn học tự chọn ) như các ban khoa học tự nhiên, khoa học cơ bản, khoa học xã hội nhân
văn… trong trường THPT “ phân ban ”. Trong Gíao dục nghề nghiệp (GDNN) có trường Trung cấp chuyên
nghiệp (TCCN), trường Trung cấp nghề, sơ cấp nghề với nhiều ngành, và hàng trăm nghề đào tạo khác
nhau…


II. 2. Tại sao phải thực hiện phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS ?(tt)

Cuối cấp tiểu học sự phân hoá chưa dẫn đến phải phân luồng. Cuối cấp THCS học sinh chuẩn bị bước
vào tuổi vị thành niên, tuổi lao động cho nên sự phân hoá trong học sinh cũng đa dạng và đủ lớn để tiến
hành phân luồng sau THCS. Đó là nguyện vọng của một bộ phận đông đảo học sinh và là yêu cầu cần thiết
của xã hội.

Như vậy, phân luồng học sinh sau THCS cũng là yêu cầu khách quan. Yếu tố khách quan trong
phân luồng học sinh sau THCS là do tính tất yếu của xu hướng phân hoá trong giáo dục qui định.



II. 3. Điều kiện để thực hiện phân luồng hợp lý

Để thực hiện việc phân luồng học sinh sau THCS cần có 4 điều kiện sau:

 Thứ nhất: Muốn phân luồng đúng nghĩa trước hết phải có đủ luồng, có sự cân đối giữa các luồng, đa dạng trong phân
hoá luồng.

 Thứ hai: Luồng phải thông thoáng đủ dung lượng, người tham gia có đủ thông tin về luồng mà mình lựa chọn.
Thứ ba: Các luồng có sự liên thông cần thiết như liên thông theo chiều dọc hoặc liên thông theo chiều ngang hoặc cả
hai, không có luồng ngõ cụt.


II. 3. Điều kiện để thực hiện phân luồng hợp lý

 Thứ tư: Chứng tỏ được hiệu quả xã hội sau phân luồng như mặt bằng chất lượng giáo
dục PTTH được nâng lên, gia tăng được tỷ lệ lao động có trình độ qua đào tạo hàng năm.
Tăng tỷ lệ và số lượng người học nghề sau THCS. Giải quyết được việc làm, thu nhập
người lao động có tay nghề, chuyên môn được cải thiện…


III. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÂN LUỒNG

Theo PGS-TS Mạc Văn Tiến, Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học dạy nghề, mỗi năm có 90 – 95% học sinh tốt nghiệp
THCS vào THPT; khoảng 1 triệu học sinh tốt nghiệp THPT nhưng có tới 80% thi vào các trường ĐH, CĐ; chỉ 10% học sinh
chọn học nghề.
Thực tế, số học sinh đậu vào các trường ĐH, CĐ khoảng 60% nhưng những học sinh thi rớt cũng không quyết định vào học
nghề.


Theo thống kê của Sở GD-ĐT TP.HCM, hàng năm TP.HCM có khoảng 78.000 học sinh tốt nghiệp THCS, số tuyển vào
lớp 10 là 64.500 em (chiếm hơn 82%). Ông Phạm Ngọc Thanh (Phó Giám Đốc Sở) nhìn nhận : “ Đa số học sinh đều thi vào
lớp 10 công lập.Không trúng tuyển, không còn sự lựa chọn nào khác mới phân luồng học nghề.Tỉ lệ học sinh phân luồng học
nghề của TP.HCM chưa đạt tới 10%.”


III. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÂN LUỒNG (tt)

Nhận thấy hiệu quả phân luồng còn thấp, 5 năm gần đây, Sở GD-ĐT TP.HCM đã đẩy
mạnh công tác này và đạt được những hiệu quả nhất định, đặc biệt là phân luồng HS sau
THCS. Cụ thể, năm học 2009-2010, số HS sau THCS có hộ khẩu tại TP.HCM vào học TCCN
có hơn 5.000 em, sang năm học 2010-2011 có hơn 6.000 em; đến năm học 2011-2012 có hơn
8.000 em.


III. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÂN LUỒNG (tt1)

Để đạt hiệu quả này, ông Phạm Ngọc Thanh (Phó Giám đốc Sở GD-ĐT TP.HCM) cho biết: “Ngoài
việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, Ngành giáo dục TP.HCM đã có nhiều đổi mới như tăng cường hợp
tác quốc tế và gắn kết doanh nghiệp trong đào tạo, công tác phân luồng triển khai đến từng quận/huyện…
Chẳng hạn, quận 6 đã thực hiện xã hội hóa công tác phân luồng, phối hợp với các ban ngành, đoàn thể, các
lực lượng giáo dục khác…; quận 8 phân công UBND các phường theo dõi và đến tận nhà vận động tất cả
HS không vào lớp 10 THPT vào học tại trung tâm GDTX và TCCN; quận Phú Nhuận khuyến khích HS vào
học chuyên nghiệp, học nghề được hỗ trợ 50% đến 100% học phí…”.


III. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÂN LUỒNG
(tt2)

Mặc dù đã có những hiệu quả nhất định nhưng tỷ lệ phân luồng ở TP.HCM vẫn còn thấp so với mục

tiêu phấn đấu của Ngành là đến năm 2020 có 30% HS sau THCS vào giáo dục nghề nghiệp; 50% HS nghỉ,
bỏ học ở THPT và 60% HS tốt nghiệp THPT vào hệ thống này. Một trong những lý do dẫn đến điều này,
theo ông Phạm Ngọc Thanh: “Cơ sở chính sách phân luồng chưa đầy đủ, giáo dục nghề nghiệp chưa thu hút
nhiều HS do cơ sở vật chất, chương trình đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu thị trường lao động… Vì vậy,
ngành GD-ĐT cần phải có nhiều biện pháp đổi mới hơn nữa trong công tác phân luồng”.


III. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÂN LUỒNG
(tt3)
Thực tế, không chỉ hiệu quả phân luồng còn thấp mà ngay cả HS đang học tại các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp cũng nghỉ, bỏ học giữa chừng để luyện thi ĐH, CĐ hoặc tham gia thị trường lao động. TS.
Nguyễn Trần Nghĩa, Hiệu trưởng Trường CĐ Nghề TP.HCM, cho biết: “Số HS hao hụt tại các trường
TCCN và dạy nghề (hệ TC nghề) thường chiếm tỷ lệ từ 40% đến 50%, trong đó năm đầu của khóa học
khoảng 30% đến 40%; các năm sau khoảng 10%. Vì vậy, giáo dục hướng nghiệp không chỉ dừng lại ở
THCS và THPT mà còn phải tiếp tục và thường xuyên cho HS khi theo học hệ thống giáo dục nghề nghiệp
nhằm góp phần ổn định tư tưởng, thúc đẩy động cơ học tập của các em; qua đó giảm tỷ lệ nghỉ, bỏ học giữa
chừng”


III. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÂN LUỒNG

Riêng tại trường THCS Nguyễn Hữu Thọ năm học 2014 – 2015, trong số 568 học sinh
tốt nghiệp THCS thì có tới 564 học sinh vào học lớp 10 THPT chiếm tỷ lệ 99,2%.

 Có thể thấy rằng đa số học sinh học lớp 9 sau tốt nghiệp đều chọn cho mình hướng đi tiếp
tục học tiếp THPT , số ít chọn hướng đi khác.


IV. NGUYÊN NHÂN


1. Nguyên nhân từ tâm lý xã hội:
Do nhận thức của người dân, nhà trường và xã hội đối với giáo dục nghề nghiệp chưa
thật đúng đắn. Nhiều học sinh và gia đình không lượng được sức học của bản thân và điều
kiện kinh tế gia đình để tìm con đường học nghề từ sớm, động cơ tham gia các lớp học
nghề của học sinh bị lệch lạc. Trong khi đó, thông tin về thị trường lao động ở nước ta còn
nghèo nàn và thiếu việc làm.


IV. NGUYÊN NHÂN

2. Nguyên nhân từ công tác Hướng nghiệp:
Công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường còn hạn chế do thiếu đội ngũ cán
bộ giáo viên am hiểu tâm lý học nghề nghiệp, cũng như nhu cầu lao động các ngành nghề
cũng gây trở ngại cho việc phân luồng học sinh. Nhiều trường chưa quan tâm chất lượng
giáo dục hướng nghiệp, thiếu sự phối hợp với doanh nghiệp trên địa bàn để đẩy mạnh giáo
dục hướng nghiệp.


IV. NGUYÊN NHÂN

3. Nguyên nhân về đầu tư:
Quy mô và điều kiện của các cơ sở dạy nghề, Trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) chưa đáp ứng
đủ nhu cầu phân luồng học sinh. Chương trình đào tạo trong các trường TCCN và khả năng liên
thông giữa giáo dục nghề nghiệp với các bậc học khác ; đặc biệt là việc liên thông lên cao đẳng, đại
học còn bất cập. Nhiều địa phương quá tập trung đầu tư cho luồng THPT, các luồng giáo dục
thường xuyên (GDTX) và giáo dục nghề nghiệp (GDNN) bị bỏ rơi hoặc nếu có thì rất ít, cầm chừng
nên các luồng này không đủ khả năng tham gia phân luồng.


IV. NGUYÊN NHÂN

4. Nguyên nhân từ hiệu quả xã hội cho phân luồng:
Đầu vào của học sinh giáo dục thường xuyên (GDTX) và Trung cấp chuyên nghiệp
(TCCN) thường thấp nhưng cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc phục vụ cho việc dạy nghề
không đáp ứng được yêu cầu nên kết quả đầu tư còn nhiều hạn chế nhất là đối với Trung cấp
chuyên nghiệp (TCCN) do vậy kỹ năng thực hành nghề, xin việc làm, tự tạo việc làm của học
sinh sau khi ra trường gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Hiệu quả xã hội đối với luồng này không
cao dẫn đến khó thuyết phục việc phân luồng.


V. GIẢI PHÁP PHÂN LUỒNG HỌC SINH SAU TRUNG HỌC
CƠ SỞ
1. Quan điểm chỉ đạo
Ngày 5/12/2011, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 10 –CT/TW về phổ cập giáo
dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ
sở, tăng cường phân luồng học sinh sau THCS và xoá mù chữ cho người lớn, quan điểm
chỉ đạo đã nêu rõ: “ …Kiên trì thực hiện chủ trương phân luồng học sinh sau THCS tạo
chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh hợp lý cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu xã hội…”.


V. 1. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO

Triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm thực hiện tốt việc phân luồng học sinh sau khi
tốt nghiệp THCS theo hướng tăng nhanh tỉ lệ học sinh vào học ở các trường trung cấp
chuyên nghiệp, trung cấp nghề. Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất trang thiết bị
dạy và học nghề; có cơ chế khuyến khích các cơ sở tuyển dụng học sinh sau THCS qua
đào tạo nghề; tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được học liên thông lên các cấp học cao
hơn.



×