Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến năng suất, chất lượng chè ở Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.38 KB, 27 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn của tôi
hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho bảo vệ học vị nào. Các thông tin, tài
liệu trình bầy trong luận văn nay được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn

Phạm Văn Quân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các
thầy cô giáo giảng dạy, thầy giáo hướng dẫn khoa học, được sự giúp đỡ của các
cơ quan tập thể, cá nhân và nhân dân địa bàn nơi thực hiện đề tài. Tôi xin chân
thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và kính trọng đến:
PGS.TS. Nguyễn Thế Hùng – Phó trưởng phòng Quản lý khoa học và quan
hệ quốc tế, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Ban giám hiệu, khoa Sau đại học, khoa Nông học, Viện Khoa học sự sống,
Thư viện - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Phòng Tài Nguyên môi Trường, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Phòng Thống kê huyện Phổ Yên, Thái Nguyên.
Đảng ủy – HĐND - UBND Thị trấn Bãi Bông – huyện Phổ Yên – Thái Nguyên;
Đảng ủy – HĐND – UBND Xã Phúc Thuận – Huyện Phổ Yên – Thái Nguyên.
Gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian thực tập và
thực hiện đề tài.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2011
Tác giả



Phạm Văn Quân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề.
Cây chè (Camellia sinensis) có nguồn gốc xuất xứ từ châu Á, trải qua hơn
4000 năm phát triển, bằng nhiều con đường khác nhau như hoạt động chính trị,
dao lưu kinh tế, văn hóa, thương mại, cho đến nay cây chè đã được trồng ở rất
nhiều các quốc gia ở cả 5 châu lục. Cây chè được trồng ở nước ta từ lâu đời chủ
yếu ở các tỉnh trung du và miền núi, là loại cây trồng chiếm vị trí quan trọng cả
mặt kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Sản phẩm chè là một thứ thức uống
thông dụng và có giá trị dinh dưỡng, bồi bổ sức khỏe. Trong những năm gần đây
ngành chè Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn về giống, kỹ thuật …
Sản phẩm chè vừa tiêu thụ trong nước vừa có giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên ngành
chè nước ta còn phát triển chậm so với tiềm năng cả về năng suất, chất lượng và
giá trị xuất khẩu. Năng suất còn thấp so với các nước trong khu vực và các nước
trên thế giới như: Trung Quốc, Indônêsia, Ấn Độ, Srilanca…Nguyên nhân dẫn
đến năng suất thấp là do bộ giống chưa tốt, do kỹ thuật canh tác lạc hậu, do sâu
bệnh hại … Trong đó kỹ thuật canh tác (chăm sóc) là nguyên nhân cơ bản làm
giảm năng suất và chất lượng chè. Theo thống kê hàng năm chúng ta có thể mất
15-30% sản lượng do kỹ thuật chăm sóc lạc hậu và do sâu bệnh phá hại.
Để giải quyết được những vấn đề trên, một loạt các vấn đề kỹ thuật đã và
đang được quan tâm đó là vấn đề áp dụng kỹ thuật gieo trồng kết hợp với các
biện pháp canh tác, chăm sóc tiên tiến. Trong các biện pháp kỹ thuật thì vấn đề
quản lý dinh dưỡng cây trồng là một khâu quan trọng trong việc xây dựng hệ

thống nông nghiệp bền vững. Trong đó bón phân là biện pháp kỹ thuật có ảnh
hưởng quyết định đến năng suất, chất lượng sản phẩm cây trồng, hiệu quả kinh
tế và thu nhập của người sản xuất. Vì vậy, bón phân là một yếu tố đầu tư rất
được quan tâm và thường chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng chí phí sản xuất của
người trồng trọt. Tuy nhiên không phải cứ bón nhiều phân hay bón phân thế nào
cũng đem lại hiệu quả mà việc bón phân không hợp lý có thể ảnh hướng xấu đến
năng suất, chất lượng, khả năng bị sâu bệnh hại của cây trồng và là nguyên nhân
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Nếu bón phân không cân đối, ví dụ như bón
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




đơn độc nitơ mà thiếu kali, phospho thì sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng chè
nguyên liệu. Ngoài các loại phân bón đa lượng thì phân bón vi lượng cũng ảnh
hưởng đến năng suất, chất lượng chè [2],[7],[8].
Phổ Yên là một huyện miền núi nằm ở phía Bắc tỉnh Thái nguyên, nơi có
điều kiện tự nhiên khí hậu, đất đai phù hợp cho cây chè sinh trưởng, phát triển.
Mặt khác người dân của huyện có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất chè. Trong
những năm qua tốc độ phát triển của cây chè không ngừng tăng lên cả về diện
tích, năng suất và sản lượng. Giá trị kinh tế thu được từ cây chè là rất lớn, có thể
nói cây chè là cây trồng chủ lực, góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo,
từng bước xây dựng nông thôn mới nơi đây.
Song cũng chính vì những giá trị to lớn mà cây chè đem lại nên người dân
đã tìm mọi cách để thâm canh tăng năng suất và sản lượng chè một cách nhanh
nhất như sử dụng nhiều loại phân khoáng, thuốc hóa học với liều lượng cao. Dẫn
đến hiện tượng mất cân đối giữa các nguyên tố xảy ra phổ biến, làm cây trồng
phát triển không bền vững, thoái hóa nhanh, năng suất, chất lượng giảm, sâu
bệnh phát triển nhiều, đất đai bị thoái hóa, trai cứng, hệ vi sinh vật hữu ích giảm,
môi trường bị ô nhiễm, hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm.

Căn cứ vào nhu cầu thực tế của các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc nói
chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến năng suất, chất lượng chè ở tỉnh
Thái Nguyên”
2. Mục tiêu, mục đích nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao năng suất, chất lượng chè LDP1 ở vùng trồng chè huyện Phổ
Yên nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung bằng áp dụng kỹ thuật sử dụng
một số tổ hợp phân bón và phân bón lá.
2.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến năng suất, chất lượng giống
chè LDP1 ở tỉnh Thái Nguyên để từ đó đánh giá, lựa chọn và khuyến cáo cho
sản xuất chè.
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




Trên cơ sở điều tra đánh giá tình hình tự nhiên, kinh tế, xã hội và sản
xuất chè ở huyện Phổ Yên - Thái nguyên và nghiên cứu ảnh hưởng của một
số tổ hợp phân bón và phân bón lá đến giống chè LDP1 tới năng suất và chất
lượng. Đề tài bước đầu xác định được các hạn chế chính trong sản xuất chè ở
huyện Phổ Yên - Thái Nguyên và một số tổ hợp phân bón và phân bón lá có
hiệu quả cao cho giống chè LDP1 trong điều kiện canh tác chè của huyện Phổ
Yên – Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





CHƢƠNG I

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Chè là cây trồng có giá trị kinh tế, chính vì vậy trong những năm gần đây
cây chè luôn được quan tâm và đầu tư phát triển trên mọi phương diện nhằm
khuyến khích người trồng chè, tăng thu nhập cho người sản xuất.
- Chè là một thức uống lý tưởng và có nhiều giá trị về dược liệu:
+ Trung Quốc là nước đầu tiên chế biến chè để uống. Sau đó nhờ
những đặc tính tốt của nó, chè trở thành thức uống phổ biến trên thế giới.
Ngày nay, chè được phổ biến rộng rãi hơn cả cà phê, rượu vang và ca-cao.
Tác dụng chữa bệnh và chất dinh dưỡng của nước chè đã được các nhà khoa
học xác định như sau:
+ Cafein và một số hợp chất ancaloit khác có trong chè là những chất có
khả năng kích thích hệ thần kinh trung ương, kích thích vỏ đại não làm cho tinh
thần minh mẫn, tăng cường sự hoạt động của các cơ trong cơ thể, nâng cao năng
lực làm việc, giảm bớt mệt mỏi sau những lúc làm việc căng thẳng.
+ Hỗn hợp tanin trong chè có khả năng giải khát, chữa một số bệnh
đường ruột như tả, lỵ, thương hàn. Nhiều thầy thuốc còn dùng nước chè, đặc
biệt là chè xanh để chữa bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang và chảy máu dạ dày.
Theo xác nhận của Mgaloblisvili và các cộng tác viên đã xác định ảnh hưởng
tích cực của nước chè xanh tới tình trạng chức năng của hệ thống tim mạch, sự
cản các mao mạch, trao đổi muối - nước, tình trạng của chức năng hô hấp ngoại
vi, sự trao đổi vitamin C, trạng thái chức năng của hệ thống điều tiết máu.v.v...
+ Chè còn chứa nhiều loại vitamin như vitamin A, B1, B2, B6, vitamin
PP và nhiều nhất là vitamin C [13],[23].
- Chè là một cây công nghiệp lâu năm, có đời sống kinh tế lâu dài, mau
cho sản phẩm, cho hiệu quả kinh tế cao. Chè trồng một lần, có thể thu hoạch 3040 năm hoặc lâu hơn nữa. Vào thời kỳ kinh doanh sản lượng, chất lượng chè

phụ thuộc nhiều vào các biện pháp kỹ thuật đặc biệt là phương pháp dinh dưỡng
(phương pháp bón phân) [13].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




- Chè là cây trồng mà sản phẩm của nó có giá trị hàng hóa và giá trị xuất
khẩu cao, thị trường tiêu thụ ổn định, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm ngày càng cao.
Theo thống kê của FAO trong những năm gần đây Việt Nam xuất khẩu hàng
trăm nghìn tấn chè với tổng giá trị hàng trăm triệu đô la.
- Chè là cây xóa đói giảm nghèo, trước đây gọi là cây “làm giầu” của
nông dân hiện nay. Theo đánh giá của cơ quan chuyên môn, năm 2005, giá trị
sản xuất bình quân trên một đơn vị diện tích từ cây chè đạt 16 triệu đồng/ha; đến
năm 2009 đã đạt bình quân gần 60 triệu đồng/ha. Chính vì thế trồng chè đã trở
thành nghề truyền thống của nhiều địa phương. Tuy nhiên, năng suất và chất
lượng chè còn phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện khí hậu, đất đai, phân bố theo
từng vùng, cũng như các biện pháp kỹ thuật tác động của con người đặc biệt là
kỹ thuật bón phân [13],[14],[16].
1.1.1. Nguồn gốc của cây chè
Nguồn gốc của cây chè là vấn đề phức tạp vì cây chè vốn đã được biết
đến cách đây 4000 - 5000 năm gắn bó với biết bao thế hệ của nhiều dân tộc. Là
đề tài của nhiều nhà khoa học đã và đang nghiên cứu, chè không những đem lại
lợi ích to lớn trong lĩnh vực kinh tế nông, lâm nghiệp mà còn có ý nghĩa về lịch
sử văn minh, văn hoá của toàn dân tộc [16].
Cũng vì đem lại nhiều ý nghĩa to lớn nên cây chè từ lâu vẫn được coi là
một trong những căn cứ khoa học, để xác định trung tâm nguồn gốc của cây
trồng, để phản ánh văn minh của loài người.
Nguồn gốc cây chè được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm từ rất
sớm. Tuy nhiên, cho đến nay có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những cơ sở

về lịch sử, khảo cổ học và thực vật học. Một số quan điểm được nhiều người công
nhận nhất là:
- Cây chè có nguồn gốc ở Vân Nam – Trung Quốc (Carl von linacus – 1973;
Đào Thừa Trân – 1951).
- Cây chè có nguồn gốc ở vùng Atxam (Ấn Độ) (Bruce-1923).
- Cây chè có nguồn gốc ở Việt Nam (Djemkhatde-1961, 1971)
- Các quan điểm tuy khác nhau về địa điểm nhưng đều thống nhất là cây chè
có nguồn gốc ở Châu Á, nơi có điều kiện nóng ẩm, mưa nhiều [13],[16],[23].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




1.1.2. Phân loại cây chè
Cây chè nằm trong hệ thống phân loại thực vật sau:
- Ngành hạt kín:

Angiosepermae.

- Lớp 2 lá mầm:

Dicotyleonae.

- Bộ chè:

Theales.

- Họ chè:

Thea ceae.


- Chi chè:

Camellia (Thea).

- Loài Camellia:

Sinensis.

Cây chè được chia thành những thứ chè (Varietas) căn cứ vào đặc điểm
hình thái, đặc điểm sinh lý, sinh hoá và tính chống chịu, ... có nhiều cách phân
loại nhưng bảng phân loại nhà Bác học Hà Lan Cohen Stuar - 1916 được nhiều
người công nhận. Cohen Stuar đã chia chè ra làm 4 thứ sau đây:
Hiện nay, cả 4 thứ chè trên đều đã được trồng ở Việt Nam nhưng phổ biến
hơn cả là 2 thứ chè Trung Quốc lá to (chè Trung Du xanh) và chè Shan [16].
- Chè Trung Quốc lá to (Camellia Sinensis Var Macrophylla): Có đặc
điểm thân gỗ nhỡ cao tới 4 - 5m, lá to trung bình màu xanh nhạt, búp to hoa quả
nhiều, khả năng chịu rét kém.
- Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia Var Bohea): có đặc điểm thân
bụi thấp, phân cành nhiều, búp nhỏ mù xoè nhanh năng suất không cao,
phẩm chất bình thường, nhiều hoa quả, khả năng chống chịu tốt, có thể
chịu rét từ -120c đến - 150c.
- Chè Ấn Độ (Camellia Sinensis Var Atxamica): Có đặc điểm là cây thân gỗ
cao to trong điều kiện tự nhiên có thể cao 16 - 17 m phân cành thưa, búp to cho
năng xuất cao thích hợp cho cả chế biến chè xanh và chè đen. Không chịu được rét,
hạn, ít hoa quả.
- Chè Shan ( Camellia sinensis Var shan): có đặc điểm là cây thân gỗ to,
cao 10-15m, lá thuôn dài, phân cành thưa, phiến lá to xanh, cho năng suất cao,
chất lượng tốt, làm chè đen, chè xanh chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
Chịu rét khá, ưa đất tốt.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




1.1.3. Sự phân bố của cây chè
Sự phân bố của cây chè chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên, khí
hậu. Kết quả nghiên cứu đều đi đến kết luận chung: vùng khí hậu thích hợp của
cây chè là vùng khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới.
Cây chè phân bố chủ yếu ở Châu Á, cụ thể là Ấn Độ, Srilanca, Inđônêxia
và Việt Nam. Nơi có điều kiện khí hậu nóng và ẩm. Tuy nhiên cho đến nay trong
quá trình trồng trọt, nhờ tiến bộ của khoa học kỹ thuật như chọn giống, quá trình
canh tác... Cây chè đã được trồng ở khắp các châu lục từ 42 vĩ độ Bắc (Pochi Liên Xô cũ) đến 27 vĩ độ Nam.
Cây chè phân bố chủ yếu theo độ cao thấp so với mực nước biển đã tạo
nên các vùng chè, giống chè và chất lượng chè khác nhau. Các nhà khoa học
trên thế giới và ở Việt Nam đều khẳng định rằng: Những giống chè sinh trưởng
tốt ở nơi cao so với mực nước biển lớn, đều có chất lượng chè nguyên liệu và
chè thành phẩm tốt hơn những giống chè được trồng ở vùng thấp [13],[24].
1.1.4. Yêu cầu sinh thái
Cây chè chịu ảnh hưởng rất lớn do tác động của các điều kiện sinh thái
trong quá trình sống của nó. Nguyên sản của cây chè ở vùng khí hậu rừng á nhiệt
đới. Cây chè cho đến nay đã được phân bố khá rộng rãi từ 30 vĩ tuyến nam đến
45 vĩ tuyến bắc, là những nơi có điều kiện tự nhiên khác xa với nơi nguyên sản.
Trong những điều kiện như vậy, muốn cho cây chè sinh trưởng bình thường và
có năng suất phẩm chất tốt phải có trình độ khoa học cao trong canh tác. Tổng
hợp các điều kiện ngoại cảnh và biện pháp kỹ thuật là yếu tố chủ yếu ảnh hưởng
đến năng suất, phẩm chất chè [16],[26].
Vì vậy, xét đến điều kiện sinh thái của cây chè là đề cập đến những điều
kiện sống thích hợp nhất về các mặt. Nắm vững những yêu cầu cụ thể về sinh

thái cũng như khả năng thích ứng của cây chè với điều kiện tự nhiên, là một
trong những cơ sở khoa học để xác định những biện pháp kỹ thuật trồng trọt
thích hợp.
1.1.4.1. Điều kiện đất đai, dinh dưỡng và địa hình.
So với một số cây trồng khác, chè yêu cầu về đất không nghiêm khắc lắm.
Song để cây chè sinh trưởng tốt, năng suất cao và ổn định thì đất trồng chè phải
đạt những yêu cầu sau: tốt, nhiều mùn, sâu, chua và thoát nước. Độ PH thích hợp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




cho chè phát triển là 4,5 - 6,0. Đất trồng phải có độ sâu ít nhất là 80 cm, mực
nước ngầm phải dưới 1 mét thì hệ rễ mới phát triển bình thường.
- Quan hệ giữa đất và phẩm chất chè rất phức tạp. Phẩm chất do nhiều yếu
tố quyết định và tác dụng một cách tổng hợp. Song trong những điều kiện nhất
định thì điều kiện dinh dưỡng của đất có ảnh hưởng rất lớn đến phẩm chất. Kinh
nghiệm của Trung Quốc cho thấy: chè sinh trưởng trên loại đất pha cát, nhiều
mùn, thích hợp cho việc chế biến chè xanh: mùi vị hương của chè thành phẩm
đều tốt. Chè trồng trên đất nặng màu vàng thì có vị đắng và nước có màu vàng.
Chè trồng trên đất xấu hương không thơm, vị nhạt và chất hòa tan ít [13],[29].
Chè cần rất nhiều chất dinh dưỡng, mỗi chất có vai trò quan trọng nhất
định với sinh trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng chè.
- Đạm (N): Là thành phần của chất hữu cơ, diệp lục tố, nguyên sinh chất,
axit nucleic, protein. Đạm giúp tăng chiều cao cây, ra nhiều lá và búp mới, tăng
năng suất chè. Thiếu đạm cây sinh trưởng phát triển kém, ít nảy đọt, búp non có
màu xanh nhạt, xanh vàng đến ửng đỏ, năng suất thấp.
- Lân (P): Là thành phần của phosphatides, axit nucleic, protein… quan
trọng trong quá trình trao đổi năng lượng và protein. Lân cần thiết cho sự phát
triển của bộ rễ, kích thích chồi mới, tăng khả năng chịu hạn, tăng tuổi thọ của

cây, tăng năng suất và lượng đường hòa tan và tanin, tăng chất lượng chè. Thiếu
lân lá có màu xanh đục mờ không sáng bóng, thân cây mảnh, rễ kém phát triển,
khả năng hấp thu đạm kém. Chè thiếu lân trầm trọng sẽ bị trụi cành, năng suất và
chất lượng đều thấp.
- Kali (K): Hoạt hóa enzim liên quan đến quang hợp, tổng hợp
hydratcarbon, protein, điều chỉnh PH và nước ở khí khổng. Giúp cây cứng chắc,
tăng khả năng chống chịu sâu bệnh, rét và hạn, giảm khô lá và rụng lá già, tăng
năng suất và tăng độ ngọt, độ đậm trong chè búp. Thiếu Kali cây sinh trưởng
chậm, mép và chóp lá có màu xám hay nâu nhạt sau khô dần, lá già rụng sớm, lá
non ngày càng nhỏ, dễ bị sâu bệnh. Búp thưa, vỏ cây có màng trắng bạc, cây
chậm ra búp, năng suất thấp, chè kém ngọt, chất lượng giảm.
- Lưu huỳnh (S): Là thành phần của các axit amin chứa S và vitamin,
biotin, thiamin và coenzim A. Giúp cho cấu trúc protein vững chắc, tăng năng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....



data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....



data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not

read....

data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....

data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....

data error !!! can't not
read....



×