Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Bài tiểu luận địa lý kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.61 KB, 23 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
 - 

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN ĐỊA LÝ KINH TẾ

PHÂN VÙNG KINH TẾ - VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

SV TH
: Trần Duy Lĩnh
Lớp
: Kinh tế kế hoạch và đầu tư
MSSV
: 1078120055
Giảng viên : Lê Minh Dung

TP.HỒ CHÍ MINH 2008


MỤC LỤC
trang
Danh mục các từ viết tắt..................................................................................................3
Chương I : Đặt vấn đề...................................................................................................4
Chương II : Cơ sở lý luận về phân vùng kinh tế............................................................5
2.1 Lý thuyết kinh tế không gian ...........................................................................5
2.2 Lý thuyết về vùng và phân vùng .....................................................................5
2.3 Các phương pháp xác định vùng và ranh giới vùng........................................5
2.4 Lý luận phân vùng kinh tế Việt Nam...............................................................5


Chương III : Thực trạng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam........................................8
3.1 Các vùng kinh tế trọng điểm ở nước ta............................................................8
3.2 Thực trạng vùng kinh tế trọng điểm phía nam.................................................11
3.3 Những tồn tại của vùng kinh tế trọng điểm phía nam .....................................13
Chương IV :Giải pháp phát triển ...................................................................................17
4.1 Giải pháp về cơ chế chính sách, phương thức quản lý vùng KTTĐ...............17
4.2 Phát triển theo mô hình tập trung.....................................................................20
Chương V : Kết luận và kiến nghị.................................................................................21
5.1 Kết luận ............................................................................................................21
5.2 Kiến nghị...........................................................................................................22

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
XHCN

Xã hội chủ nghĩa

PVKT

Phân vùng kinh tế

VKTTĐ

Vùng kinh tế trọng điểm

VKTTĐPN

Vùng kinh tế trọng điểm phía nam


KCN

Khu công nghiệp

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

UBND

Ủy ban nhân dân

CNH,HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DN

Doanh nghiệp

VND

Đồng Việt Nam

USD

Đồng đô la Mỹ

3



CHƯƠNG 1 : ĐẶT VẤN ĐỀ
Thế kỷ XXI, khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia hoặc nhóm các quốc gia. Kinh
tế tri thức ngày càng giữ vai trò to lớn đối với nhân loại. "Liên kết, khu vực hoá, toàn
cầu hoá" và sự tăng cường các quan hệ liên vùng đã trở thành xu thế tất yếu của thời
đại, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa hợp tác và vừa có sự cạnh tranh.
Sự giàu, nghèo và trình độ phát triển giữa các nước, các vùng, giữa đô thị với
nông thôn, giữa đô thị lớn với đô thị nhỏ có sự chênh lệch đáng kể. Sự phân bố không
đồng đều các tài nguyên thiên nhiên trong điều kiện cạnh tranh quốc tế quyết liệt, sự tác
động của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập mạnh mẽ đã trở thành vấn đề
nan giải trong các chính sách phát triển vùng.
Nhân loại đang phải đương đầu với những nguy cơ thách thức lớn. Đó là, các
thảm hoạ ô nhiễm môi trường, tai biến thiên nhiên và sự phá vỡ cân bằng các hệ sinh
thái; Quá trình đô thị hoá, với các quy mô và tốc độ chưa từng thấy, đã dẫn đến sự hình
thành bất khả kháng các siêu thành phố, các thành phố vùng, khu vực và châu lục; Hiệu
ứng con dao hai lưỡi của khoa học - kỹ thuật; Sự mất đi những bản sắc riêng
và linh hồn văn hóa của mỗi địa phương .
Trong tình trạng đó, thiết kế kiến trúc, quy hoạch đô thị không còn đảm nhiệm
được vai trò điều tiết vĩ mô và tổ chức lãnh thổ của quy hoạch và phân vùng. Bởi vậy,
quy hoạch và phân vùng là nhằm :
• Bố trí, sắp xếp hợp lý các hoạt động của con người trên lãnh thổ phù hợp với
đường lối, chính sách quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức hành
chính - chính trị
•Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
•Phân bố và tổ chức tối ưu các hoạt động theo lãnh thổ với tầm nhìn hướng về
tương
•Bảo vệ môi trường, phòng chống các thảm hoạ thiên nhiên.
•Đảmbảo an ninh, quốc phòng.

Những nhân tố trên khẳng định vai trò và tầm quan trọng của phân vùng kinh tế
trong thế kỷ XXI.

CHƯƠNG II
4


2. Cở sở lý luận về phân vùng kinh tế
2.1Lý thuyết kinh tế không gian :
Lý luận này đã được đưa ra trong các lý thuyết: Lý thuyết về phân bố và phát
triển nông nghiệp của V.Thunen (1862) sau được C.Mark, Ricardo đề cập sâu hơn trong
các lý thuyết về địa tô và phân bố nông nghiệp; Lý thuyết phân bố công nghiệp của
Weber, Losch,... Lý thuyết phân bố đô thị và dịch vụ (Central place) của
W.Christaller,... Các nước XHCN, đặc biệt là Liên Xô cũ đã hình thành lý thuyết về
phân bố và phát triển lực lượng sản xuất trên lãnh thổ, lý thuyết về phân bố dân cư và lý
thuyết về tổ chức lãnh thổ .
2.2 Lý thuyết về vùng và phân vùng :
Tùy theo quan điểm tiếp cận, vùng được phân loại như sau:
• Theo quy mô: Lớn, trung bình và nhỏ (20.000 - 3.000.000 km2, 20.000 30.000 km2 và nhỏ hơn).
• Theo mục đích quy hoạch: Vùng kinh tế, vùng hành chính, vùng vật thể, vùng
tự nhiên, vùng xã hội và vùng an ninh quốc phòng ….
• Theo tính chất: Vùng đô thị, vùng công nghiệp, vùng nông thôn, vùng du lịch –
nghỉ mát, vùng lâm nghiệp, vùng khai khoáng…..
• Theo quan điểm tổng hợp: Vùng quy hoạch. Pertxik cho rằng "vùng là đối
tượng của quy hoạch vùng và là một bộ phận của vùng kinh tế, thuộc cấp thấp
theo phân vị. Do đó phân vùng kinh tế là cơ sở khoa học của quy hoạch vùng".
Một số tác giả cho rằng, vùng quy hoạch phải hội tụ được các đặc điểm tổng hợp sau:
Là một đơn vị địa lý tự nhiên; Là một đơn vị kinh tế; Là một đơn vị xã hội và phù hợp
với địa giới hành chính.
• Theo trình độ phát triển, vùng gồm các loại sau: Vùng phát triển; Vùng kém

phát triển;Vùng mới phát triển và vùng đình đốn.
• Theo trình độ phát triển, vùng gồm các loại sau: Vùng phát triển; Vùng kém
phát triển; vùng mới phát triển và vùng đình đốn
2.3 Các phương pháp xác định ranh giới vùng :
Phương pháp đồng tính: Các vùng đồng tính; Phương pháp phân cực: Các vùng
phân cực; Phương pháp quy hoạch: Các vùng kế hoạch (Boudeville), các tổng hợp thể
sản xuất - lãnh thổ (TPK) - (Kolosovxki-Nga) hoặc các tổ hợp nông - công nghiệp
(APK-Bungari).
Sự hợp nhất giữa hai dòng lý thuyết kinh tế không gian và lý thuyết phân vùng (cuối thế
kỷ XIX là nguồn gốc của quy hoạch vùng.
2.4. Lý luận phân vùng kinh tế Việt Nam
Những năm cuối thế kỷ XX, nhất là sau khi Liên Xô tan rã, người ta ít nói tới
phân vùng kinh tế (PVKT), mà nói nhiều tới tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội
(TCLTKTXH). Phải chăng PVKT đã lỗi thời, không còn giá trị thực tiễn? Để trả lời cần
đi sâu vào cặp khái niệm khủng hoảng và phát triển. Về lý thuyết, có thể khủng hoảng
dẫn tới sụp đổ, thậm chí tiêu vong, cũng có thể chỉ là sự khủng hoảng để mở đường
phát triển sau đó. Chúng tôi ủng hộ quan điểm thứ hai, PVKT trong khủng hoảng vì sự
phát triển. PVKT Việt Nam đang trong thời kỳ khủng hoảng và tìm ra đúng hướng phát
triển.
5


Đã là người nghiên cứu địa lý kinh tế – xã hội chuyên nghiệp, ai cũng phải biết
lý luận PVKT có cội nguồn từ tác phẩm nổi tiếng của V.I. Lênin “ Sự phát triển chủ
nghĩa tư bản ở Nga”. Bằng phương pháp tiếp cận vùng, Lênin đã tìm thấy sự phát triển
không đồng đều của chủ nghĩa tư bản ở Nga. Lênin đã đặt nền móng vững chắc về mặt
lý luận cho cách tiếp cận vùng, nghiên cứu trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
chuyên môn hóa, trình độ thâm canh v.v… các lý thuyết này sau đó đã trở thành cơ sở
lý luận phân vùng kinh tế (PVKT) và các nhà địa lý Xô viết coi đây là cuốn sách gối
đầu giường cho mọi người suy ngẫm vào hoạt động thực tiễn của mình. Cơ sở của

PVKT các nước XHCN đều dựa vào các lý luận Mác – Lênin về phân công lao động
theo lãnh thổ. Công tác PVKT của Việt Nam chủ yếu dựa trên lý thuyết PVKT của các
nhà địa lý Xô viết và đã gặt hái nhiều kết quả. Các nhà địa lý Việt Nam đã nghiên cứu,
tìm hiểu và thể nghiệm trong thực tiễn nước nhà tư tưởng PVKT trong các sơ đồ tổ
chức lãnh thổ kinh tế xã hội, mà đỉnh cao của nó là sơ đồ 4 vùng kinh tế lớn trong tổng
sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất 1985 – 2000/2005. Đi xa hơn, các nhà
địa lý đưa sơ đồ phân vùng vào chương trình địa lý phổ thông lớp 9, lớp 12, đưa công
tác nghiên cứu, đào sâu và làm phong phú lý luận PVKT trong các trường đại học.
Về thực chất mọi thành tựu lý thuyết và thực tiễn PVKT nói trên là hình bóng
của mô hình cũ của CNXH. Mô hình này sụp đổ cùng với sự tan rã của Liên Xô. Hơn
10 năm qua 1991 – 2002, chúng ta chứng kiến sự khủng hoảng, có phần tệ hại, nhiều
phần bi kịch. Liên Xô không còn nữa, cũng tiêu tan mọi sơ đồ vùng kinh tế và địa lý
kinh tế Xô viết. Thay lốt Liên Xô là SNG – Liên minh các quốc gia độc lập, không còn
kinh tế kế hoạch, thay vào đó là khái niệm mơ hồ, một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội?... Sự khủng hoảng này có thể coi là gì nếu không nói là sự tiêu vong chứ
không phải phát triển vì chính sự tiêu vong một mô hình vùng kinh tế kiểu cũ, nếu
không có thể gọi là kiểu Liên Xô cũ. Nó vĩnh viễn đi vào lịch sử như một dấu ấn đậm
nét đáng buồn của thế kỷ XX.
Trong bối cảnh nói trên, sau khi “thấm sâu” lý luận và thực tiễn PVKT, lý luận
PVKT nước ta cũng không tránh khỏi khủng hoảng, nếu có thể nói là ở mức độ không
nhẹ. Tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất 1985 -2000/2005 không thực
hiện được. Có nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng hàng đầu là các tiên đề lý thuyết
cũ không có chỗ đứng vì không còn nữa kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp.
Nước ta đi vào đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, tạo lập một nền kinh tế
hàng hóa thị trường, định hướng XHCN. Sự nghiệp đổi mới thành công. Nước ta vượt
qua khủng hoảng và đi vào CNH, HĐH như một bước phát triển có tầm mệnh hệ đối
với đất nước, và hơn thế, không phá đi thành tựu CNXH, trái lại làm nó sinh động hơn.
Thực tiễn sống động này là cứu cánh cho địa lý kinh tế – xã hội nước nhà, trong đó có
lý luận PVKT, tuy có khủng hoảng nhưng không sụp đổ mà khủng hoảng vì sự phát
triển. Đảng Cộng sản Việt Nam đặt cơ sở vững chắc hoạt động của Đảng, của dân tộc

theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều này đồng nghĩa và tô đậm
hơn nữa giá trị lý luận và thực tiễn PVKT.
Đến đây, xét trên quan điểm lý thuyết thì hơn 10 năm qua lý luận PVKT Việt
Nam khủng hoảng trong sự phát triển. Chúng tôi cho rằng, càng phát triển bao nhiêu
càng sáng ngời các hạt nhân hợp lý của lý luận, cách tiếp cận vùng của V.I. Lênin bấy
nhiêu. Có không ít người, choáng ngợp trước những thông tin, những lý thuyết ào vào
từ khi đất nước mở cửa, kinh tế đất nước chuyển sang kinh tế thị trường đã mau chóng
quên, hoặc không biết những nguyên lý cơ bản của lý luận Mác – Lênin về phân công
lao động theo lãnh thổ. Bây giờ nói cái gì người ta cũng đầu dẫn là người phương Tây
làm thế này, thế nọ. Có hàng vài chục loại, chục kiểu vùng được đề ra mà cơ sở lý luận
6


chỉ là “ kinh tế thị trường” một cách chung chung! Có các lý luận vùng ra đời do tiêu
chí của mỗi người đặt ra, chứ không phải vùng tồn tại khách quan v.v…
Trong thời gian qua, trên diễn đàn địa lý và kinh tế nước nhà một số nhà khoa
học nói nhiều tới tổ chức lãnh thổ đất nước, và để làm điều này người ta viện đến quan
niệm tổ chức lãnh thổ từ bên ngoài thông qua luồng gió mở cửa, cứ như là mới mẻ, còn
PVKT thì đã cũ, đã lỗi thời. Thực ra PVKT chính là công cụ tư duy để tạo nên các cấu
thành lãnh thổ cho một nhà nước kiểu mới. Kế hoạch GOELRO dựa trên tư tưởng phân
vùng nước Nga thành các đơn vị lãnh thổ có 2 yếu tố mạnh là công nghiệp và giai cấp
công nhân, tức là 2 yếu tố chủ yếu về kinh tế và xã hội. Tổ chức lãnh thổ vùng dựa trên
học thuyết dây chuyền động lực sản xuất ( EPS do nhà địa lý Liên Xô N.N. Koloxovxki
đề xuất). Nhờ học thuyết này người ta phát triển học thuyết băng chuyền sản xuất nông
nghiệp, xét về bản chất là nông nghiệp sinh thái. Như vậy PVKT chính là phần cốt lõi
trong việc TCLTKTXH của Liên Xô.
Việc Liên Xô sụp đổ chắc không phải lỗi do học thuyết PVKT gây ra, mặc dù sự
sụp đổ đó dẫn tới sự tiêu vong cơ sở thực tiễn, và do đó PVKT Liên Xô không còn lý
do tồn tại.
Thế còn nước ta, CNXH được Đảng và nhân dân ta làm phong phú và sống

động, và nhờ đó, mảnh đất cũ được dọn đi, một mảnh đất mới được tạo ra cho lý luận
và thực tiễn PVKT. Khủng hoảng đi qua và phát triển đã đến. Chỉ có điều là phải nhận
dạng mới PVKT trong điều kiện cụ thể của nước nhà.
Sau nhiều năm nghiên cứu địa lý kinh tế – xã hội, chúng tôi rút ra một vài suy
nghĩ đối với PVKT ở nước ta như sau (xem Đặng Văn Phan, Vũ Như Vân – Lý luận
PVKT Việt Nam, khủng hoảng và phát triển).
- Lý luận PVKT ở Việt Nam đã vượt qua được sự khủng hoảng có liên quan ít
nhiều tới sự đổ vỡ của Liên Xô và mô hình XHCN kiểu cũ. Tính chất khủng
hoảng phát triển đã mở đường cho chúng ta đổi mới tư duy, trong đó có tư
duy lý luận về PVKT.
- Lý luận PVKT ở Việt Nam, bên cạnh tính phổ biến của nó, thì tính đặc thù có
tầm quan trọng hàng đầu là PVKT trong điều kiện một nước đang phát triển
ở trình độ thấp. Do đó PVKT thường mang tính công cụ nhận thức, linh hoạt,
đa mục tiêu; và có thể nói là đa kịch bản thường phải theo sát sự phát triển để
“điều tiết” cho phù hợp.
- Lý luận PVKT trong điều kiện của Việt Nam cần được làm phong phú trên
hai quan điểm mới: Kinh tế tri thức; Bảo vệ môi trường và phát triển bền
vững. Hai quan điểm này bổ sung làm tăng sức mạnh của nhau làm cơ sở để
lý luận PVKT phát triển vì mục đích tổ chức không gian phát triển, phù hợp
với xu thế chung của thời đại.
- PVKT có quan hệ mật thiết với tổ chức lãnh thổ kinh tế – xã hội thống nhất
của đất nước. Do vậy PVKT phải tính tới sự thống nhất lãnh thổ / lãnh hải
(vùng trời/ vùng đất/ vùng nước thuộc chủ quyền), tính tới các quan hệ không
gian tiểu vùng Mêkông, lợi ích Việt Nam – Trung Quốc và khu vực Đông
Nam Á.

CHƯƠNG 3
7



3. Thực trạng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
3.1 Các vùng kinh tế trọng điểm ở nước ta
3.1.1. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Quyết định số 145/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng phát
triển kinh tế-xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm
2020. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gồm 8 tỉnh: tp Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh,
Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh.
Theo đó, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm sẽ đạt 1,3 lần (giai đoạn
2006-2010) và 1,25 lần (giai đoạn 2011-2020) so với mức tăng trưởng bình quân chung
của cả nước. Tỷ trọng đóng góp vào GDP cả nước tăng từ 21% (năm 2005) lên 23-24%
(năm 2010) và 28-29% (năm 2020). Giá trị xuất khẩu bình quân đầu người/năm từ 447
USD (năm 2005) lên 1.200 USD (năm 2010) và 9.200 USD (năm 2020). Đạt tốc độ đổi
mới công nghệ bình quân 20-25%/năm. Giảm tỷ lệ lao động không có việc làm xuống
6,5% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống 1,5% năm 2010 và dưới 0,5% năm
2020. Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống 1% vào năm 2010, dưới 0,8% vào năm
2020.
Để đạt được những mục tiêu trên, phải tập trung phát triển các ngành kỹ thuật
cao thành ngành công nghiệp mũi nhọn như công nghiệp phần mềm, thiết bị tin học,
sản xuất các thiết bị tự động hoá, rô bốt, sản xuất vật liệu mới, thép chất lượng cao và
phát triển công nghệ đóng tàu, cơ khí chế tạo… Ngoài ra cũng phải phát triển các ngành
công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh như các ngành cơ khí chế tạo thiết bị và phụ
tùng ôtô, xe máy, sản xuất thiết bị điện và linh kiện điện tử, động cơ nổ, động cơ điện.
Cơ cấu sản phẩm: Chủ lực là các sản phẩm giá trị lớn, chứa hàm lượng chất xám cao.
Bên cạnh đó đặc biệt quan tâm phát triển tiểu thủ công nghiệp, xây dựng các mô hình
phát triển bền vững, các làng nghề …
Lĩnh vực dịch vụ: Tập trung phát triển toàn diện, đặc biệt là dịch vụ chất lượng
cao trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch, khoa học- công nghệ, viễn
thông, vận tải hàng không, vận tải hàng hải. Các thị trường như bất động sản, vốn, thị
trường chứng khoán cũng được ưu tiên phát triển…
Cơ cấu nông nghiệp: Chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá có năng suất,

chất lượng cao. Đặc biệt chú ý phát triển nông nghiệp sạch, gắn phát triển nông nghiệp
với việc xây dựng kinh tế trang trại hộ gia đình.
Giao thông: Phát triển đồng bộ và hiện đại hoá hệ thống giao thông đường bộ,
đường sắt, đường biển, đường sông và hàng không, đặc biệt là xây dựng cảng nước sâu,
mạng lưới đường cao tốc, hệ thống giao thông nội đô Hà Nội… nâng công suất sân bay
Nội Bài lên 6 triệu hành khách/năm (năm 2005) và 8-10 triệu hành khách (năm 2010),
hiện đại hoá sân bay Cát Bi. Các tuyến đường sắt cũng sẽ được hiện đại hoá và nâng
cấp…
Ngoài việc cải tiến cơ chế còn phải khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư
phát triển, thực hiện đổi mới cơ cấu đầu tư theo hướng: khuyến khích có 50-55% đầu tư
8


xã hội cho phát triển sản xuất kinh doanh; 9-10% đầu tư xã hội cho phát triển nguồn
nhân lực; 35-36% vốn đầu tư giao thông vận tải cho phát triển đường loại I, loại II và
đường cao tốc…
3.1.2. Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng phát
triển kinh tế-xã hội của khu vực miền Trung đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020,
gồm 5 tỉnh TP trực thuộc trung ương là Đà nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng
Ngãi và Bình Định.
Theo đó, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm của vùng sẽ tăng từ khoảng 1,2
lần giai đoạn 2006-2010 lên 1,25 lần giai đoạn 2011-2020 so với tốc độ tăng trưởng
bình quân của cả nước. Tăng giá trị xuất khẩu bình quân đầu người từ 149 USD năm
2005 lên 375 USD vào năm 2010 và 2.530 USD năm 2020.
Các trung tâm du lịch Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, và vùng phụ cận miền Trung
và Tây Nguyên sẽ dần hình thành cùng với các công trình lớn về kết cấu hạ tầng để gắn
kết khu vực này với các vùng lân cận góp phần thực hiện hành lang Đông-Tây của tiểu
vùng Mê Kông mở rộng, gắn với nhiệm vụ phát triển khu tam giác biên giới 3 nước
Việt Nam-Lào-Campuchia.

TP Đà nẵng sẽ trở thành trung tâm của miền Trung có dân số từ 1 triệu người
vào năm 2010, gần 2 triệu người vào năm 2020 với các cảng biển, sân bay quốc tế
xuyên Việt, xuyên Á. Đà Nẵng sẽ là đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển và
vận tải quốc tế của miền Trung, Tây Nguyên và các nước khu vực sông Mê Kông. Tại
đây sẽ xây dựng khu sinh dưỡng công nghiệp (chuyên nghiên cứu cải tiến kỹ thuật,
công nghệ cho các xí nghiệp công nghiệp), các trung tâm tài chính, ngân hàng, chứng
khoán và bưu chính viễn thông của khu vực miền Trung và là một trong những trung
tâm văn hoá, giáo dục, đào tạo, trung tâm khoa học công nghệ miền Trung…
Khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam) sẽ phát triển theo mô hình "khu trong
khu". Đây cũng là khu kinh tế mở duy nhất được xây dựng và phát triển để thử nghiệm
thể chế, chính sách mới, tạo môi trường đầu tư phù hợp với các thông lệ quốc tế cho các
loại hình kinh doanh của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Sân bay Chu Lai sẽ
được đầu tư phục hồi và nâng cấp giai đoạn 1 phục vụ nửa triệu lượt hành khách và
khoảng 500 tấn hàng hoá/năm. Về lâu dài đây sẽ là sân bay quốc tế trung chuyển của
vùng và của khu vực. Đồng thời tiếp tục đầu tư xây dựng và nâng cấp mở rộng sân bay
Đà Nẵng.
Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) sẽ phát triển thành một khu kinh tế tổng
hợp đa ngành với các chính sách ưu đãi, khuyến khích ổn định lâu dài. Tại đây sẽ tập
trung phát triển công nghiệp lọc dầu-hoá dầu-hoá chất, từng bước phát triển các ngành
công nghiệp cơ khí, đóng sữa chữa tàu biển, luyện cán thép, sản xuất xi măng, sản xuất
container…bên cạnh đó sẽ phát triển hệ thống giao thông liên khu với 10 bến cảng dầu
khí, khu cảng tổng hợp, đê chắn sóng, đê chắn cát…

9


Khu kinh tế- thương mại Chân Mây (Thừa Thiên Huế), trước mắt phát triển cảng
Chân Mây. Trong giai đoạn 2006-2010 xây dựng trung tâm thông tin quốc tế, cùng hệ
thống dịch vụ thương mại, du lịch, tài chính, ngân hàng, và các ngành nghề khác.
Giao thông cảng biển sẽ là huyết mạch: Trước mắt, nâng cấp cảng Tiên Sa, đưa năng

lực thông qua trên 4 triệu tấn/năm vào năm 2010, cùng với việc xây dựng cảng nước
sâu Liên Chiểu có công suất 2 triệu tấn/năm (giai đoạn 1) và 8,5 triệu tấn/năm (giai
đoạn 2), đồng thời đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cảng Dung Quất, Kỳ Hà, Quy Nhơn.
Theo dự báo đến năm 2010, số lượng bến bãi sẽ tăng thêm để bảo đảm lượng hàng
thông qua vào khoảng 4 triệu tấn/năm.
3.1.3. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Theo Quyết định số 146/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ mục tiêu phát
triển chủ yếu của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là tốc độ tăng trưởng GDP bình
quân hàng năm đạt 1,2 lần (giai đoạn 2006-2010) và 1,1 lần (giai đoạn 2011-2020) so
với tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước. Tỷ lệ đóng góp trong GDP cả nước tăng
từ 36% hiện nay lên 40-41% vào năm 2010 và 43-44% vào năm 2020, đồng thời giá trị
xuất khẩu bình quân đầu người /năm cũng tăng từ 1.493 USD năm 2010 và 22.310
USD năm 2020.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, BàRịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước và Long An, sẽ trở thành một trong
những vùng kinh tế phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, thực
sự là vùng kinh tế động lực của cả nước.
Dự kiến thành phố Hồ Chí Minh sẽ trở thành một trung tâm dịch vụ chất lượng
cao về các mặt viễn thông, dịch vụ vận tải, tài chính, ngân hàng, du lịch của cả nước và
có tầm quốc tế. Đến năm 2010, công nghiệp điện tử, tin học trở thành ngành mũi nhọn,
hướng xuất khẩu từng bước phát triển đồng bộ cả phần cứng, phần mềm, trong đó ưu
tiên phát triển phần mềm đưa vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trở thành trung tâm
mạnh về sản xuất linh kiện điện tử, phần mềm, tin học viễn thông ở khu vực Đông Nam
Á. Đến năm 2005, giá trị sản xuất phần mềm tại đây sẽ tăng lên khoảng 1.800 tỷ đồng
(tương đương 150-160 triệu USD).
Tiếp tục hoàn thành nâng cấp quốc lộ 50, 20, 22B, tuyến N2…sớm đầu tư các
tuyến đường cao tốc từ thành phố Hồ Chí Minh đi Cần Thơ; hiện đại hoá ga hàng
không quốc tế Tân Sơn Nhất; năm 2010 hoàn thành phương án di dời cảng Sài Gòn ra
khỏi nội thành. Từng bước đầu tư xây dựng cảng Thị Vải, cảng Cái Mép để đảm bảo
nhu cầu vận tải của các khu vực phía Nam và là cửa ngõ ra biển của đường xuyên Á.
Giai đoạn 2006-2010, các tuyến đường sắt từ thành phố Hồ Chí Minh đi Vũng Tàu sẽ

được xây dựng cùng với việc xây dựng hệ thống đường sắt kết nối cảng biển với các
khu công nghiệp trên hành lang đường 51, thành phố Hồ Chí Minh đi Phnôm Pênh,
đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên.
Hình thành các khu đô thị mới có quy mô dân số khoảng 70-100 vạn dân ở Phú
Mỹ, Long Sơn, Long Hải (Bà Rịa-Vũng Tàu), Dĩ An-Tân Uyên (Bình Dương), Tam
10


Phước, Nhơn trạch (Đồng Nai), Khu đô thị mới tại vùng giáp ranh giữa thành phố Hồ
Chí Minh, Long An, Tây Ninh.
3.2 Thực trạng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một trong 3 vùng kinh tế trọng điểm của cả
nước gồm 8 tỉnh thành (TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình
Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang, chiếm 9,2% diện tích, 17,7% dân số, 74% tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Cho đến nay vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã
hình thành được 72 khu công nghiệp (KCN) với diện tích trên 18.000ha (chiếm 47% về
số KCN và 55% diện tích KCN của cả nước). Đây cũng là vùng có tỷ lệ lấp đầy các
KCN khá cao, đạt khoảng 73% diện tích KCN. Với lợi thế về cơ sở hạ tầng thuận lợi,
nguồn nhân lực tương đối ổn định, thực hiện cải cách thủ tục hành chính, rộng cửa đón
nhà đầu tư từ rất sớm nên vùng đã nhanh chóng trở thành miền đất hứa của các nhà đầu
tư.
TP.HCM-một trong những địa phương thu hút được nhiều dự án FDI nhất cả
nước.Kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài đến nay thì năm 2007 là năm thu hút FDI
của cả nước đạt mức kỷ lục con số 20,3 tỷ USD. Trong đó, các tỉnh Vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam đã để lại dấu ấn quan trọng khi đóng góp hơn 50% số vốn trên.
Tính đến thời điểm hiện nay, các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
đã thu hút được trên 5.250 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 41 tỷ USD (chiếm
trên 64% số dự án và trên 55% vốn đăng ký của cả nước), trong đó nổi bật nhất là các
điạ phương như TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu. Riêng trong
năm 2007 các tỉnh thành này vẫn tiếp tục giữ những ngôi top trong thu hút FDI của cả

nước. Giám đốc Sở Kế hoạch - Đầu tư TP.HCM, Thái Văn Rê cho biết, 2,8 tỷ USD là
con số mà TP.HCM thu hút được trong năm 2007 (cấp mới và tăng vốn). Tính tổng
cộng đến nay TP.HCM có 2.530 dự án FDI với tổng vốn 16,6 tỷ USD. Thành phố xác
định tập trung phát triển 9 nhóm ngành dịch vụ và những ngành công nghiệp có hàm
lượng khoa học công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn từ rất sớm. Hiện nay, thành phố
đang kêu gọi đầu tư vào hạ tầng đô thị, khách sạn cao cấp, trung tâm thương mại phức
hợp.
Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương, Nguyễn Hoàng Sơn cho biết, thành công nhất
của Bình Dương trong năm qua là việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Trong
năm đã có 307 dự án mới và 147 dự án bổ sung với tổng vốn đầu tư 2,3 tỷ USD, nâng
tổng số dự án đầu nước ngoài trên địa bàn tỉnh lên 1.571 dự án với số vốn 8,55 tỷ USD.
Nét mới trong thu hút đầu tư nước ngoài vào Bình Dương là số lượng các quốc gia đầu
tư ngày càng nhiều. Đây là tín hiệu vui vì thành phần kinh tế này góp phần không nhỏ
vào quá trình phát triển kinh tế của tỉnh cũng như tạo ra giá trị công nghiệp cao…
Cùng với Bình Dương, Đồng Nai cũng giữ vị trí những top đầu của thu hút vốn FDI. Cả
năm 2007 tỉnh đã thu hút đạt 2,45 tỷ USD. Về ngành nghề đầu tư có 13 dự án có công
nghệ kỹ thuật cao, chiếm 53% giá trị vốn đầu tư; 21 dự án thuộc lĩnh vực sản xuất linh
kiện, chi tiết cho ôtô, máy móc thiết bị chiếm 16%; sản phẩm điện, điện tử có 5 dự án
11


chiếm 1%, đặc biệt có 3 dự án sản xuất phụ liệu cho ngành may mặc chiếm tỷ lệ 3%,
lĩnh vực chế biến nông sản thực phẩm có 4 dự án chiếm 5%. Có 16 dự án thuộc lĩnh
vực dịch vụ với tổng vốn đầu tư khoảng 850 triệu USD, chiếm tỷ lệ trên 54% tổng vốn
thu hút mới.
Cùng với làn sóng thu hút đầu tư của cả nước, dấu ấn năm 2007 in đậm nhất đối
với việc thu hút FDI vào Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là Bà Rịa – Vũng Tàu với
nhiều dự án có quy mô vốn lớn. Chỉ tính riêng trong năm 2007 có 50 dự án đầu tư nước
ngoài được cấp phép, với vốn khoảng trên 1,45 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án có vốn
đầu tư lớn như dự án thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) có tổng vốn đầu tư 1,12 tỷ

USD, dự án thép Essar, cảng quốc tế Sài Gòn Việt Nam… Tính tổng cộng đến nay trên
địa bàn toàn tỉnh đã thu hút được 191 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đầu
tư 7,81 tỷ USD. Trong đó, có 80 dự án trong các KCN với tổng vốn 4,6 tỷ USD và 111
dự án bên ngoài KCN với tổng vốn đầu tư 3,2 tỷ USD.
Nhiều nhà đầu tư trong vùng đã cho rằng lợi thế mà Vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam mang lại cho các nhà đầu tư là tính liên kết vùng đã tăng nhanh trong những
năm gần đây. Thay vì hoạt động riêng lẻ, các tỉnh đã có sự thống nhất trong mời gọi
đầu tư, phát huy những tiềm năng và lợi thế của mỗi tỉnh một cách rõ ràng. Nhiều DN
thay vì chen chân trong các KCN ở TP.HCM thì nay đã dịch chuyển sang các tỉnh
thành lân cận như Long An, Tiền Giang. Các tỉnh như Tây Ninh, Bình Phước đã trở
thành điểm đến của các DN hoạt động trong các ngành công nghiệp chế biến nông lâm
sản. Vai trò của TP.HCM vẫn là địa phương dẫn đầu về công nghệ, khoa học và tài
chính. Bên cạnh đó, Bà Rịa – Vũng Tàu có lợi thế về cảng biển, thích hợp với những dự
án sản xuất công nghiệp nặng thiên về xuất khẩu, sử dụng công nghệ cao.
Ông Walter Blocker, Tổng giám đốc Gannon Vietnam cho rằng: Hiện nay Vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam có tốc độ phát triển kinh tế cao và ổn định, có những tiềm
năng lớn mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm. Thế nhưng, cơ sở hạ tầng trong vùng
chưa thật sự thuyết phục nhà đầu tư, đơn giản như những vấn đề về giao thông, môi
trường… Nếu các tỉnh trong vùng kinh tế này chú ý hơn đến việc nâng cao chất lượng
của cơ sở hạ tầng, dịch vụ thì vùng sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư tiềm năng lớn hơn.
Ngoài ra, nguồn nhân lực kỹ thuật cao luôn được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm.
Nguồn nhân lực chính là một thách thức lớn, có vai trò quyết định đến việc tăng trưởng
đầu tư công nghệ cao trong tương lai.
Năng động, cởi mở, tạo ra môi trường thông thoáng qua việc vận dụng chính
sách linh hoạt, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã và đang tiếp tục khẳng định vị thế
dẫn đầu, hướng đến hiệu quả gia tăng cao trong thu hút đầu tư./.
3.3. Những tồn tại của vùng kinh tế trọng điểm phía nam
Sau khi thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước đã tập trung nhiều công sức, trí
tuệ nghiên cứu vùng Đông Nam Bộ từ điều tra cơ bản đến quy hoạch lãnh thổ. Công tác
tổ chức lãnh thổ, quy hoạch Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (VKTTĐPN) đã được

Nhà nước tiến hành từ những thập niên 80 – 90 của thế kỉ qua. Năm 1998 Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định số 44/1998/QĐ – TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng
12


thể phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn đến 2010. Trong quá trình thực hiện Quy hoạch
tổng thể kinh tế – xã hội VKTTĐPN đã có nhiều vướng mắc tồn tại, trong đó có vấn đề
sau:
Vấn đề nổi cộm nhất trong thời gian vừa qua là thiếu một cơ chế quản lý có hiệu
quả để điều phối sự phát triển của vùng không bị ràng buộc và chia cắt theo địa giới
hành chính. Nhiều quy hoạch chi tiết chưa tuân thủ quy trình để đảm bảo sự ăn khớp
với quy hoạch chung của vùng, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ quản lý, các
ngành và các địa phương trong vùng. Các kế hoạch phát triển kinh tế không bám sát và
phản ánh được các nội dung quy hoạch đã được Nhà nước phê duyệt. Nguyên nhân sâu
xa của tình hình này có thể có nhiều nhưng trước hết là do còn có những vướng mắc
trong quan điểm tư tưởng về vai trò và bước đi của VKTTĐ. Vẫn còn đâu đó ảnh
hưởng của chủ nghĩa bình quân, thiếu sự tập trung các nỗ lực từ trên xuống dưới và sự
phối hợp giữa các địa phương trong vùng.
Các nghị quyết và chủ trương để phát triển vùng chậm được triển khai, gặp khó
khăn do bị chia cắt theo địa giới hành chính, mà chưa phát huy hết lợi thế của
VKTTĐPN như một không gian kinh tế thống nhất. Những định hướng và mục tiêu của
vùng đề ra trong quy hoạch tổng thể chưa được tập trung chỉ đạo thống nhất, thiếu sự
phân công phối hợp và xử lý tổng hợp trên quy mô toàn vùng. Mục tiêu và định hướng
phát triển của các tỉnh trong vùng tương tự nhau, chưa thấy rõ sự phân công theo chức
năng và lợi thế so sánh của từng tỉnh.
Cũng đã đến lúc phải có bộ luật về kế hoạch hóa (như nhiều nước đang phát triển
kinh tế thị trường) để xác định khuôn khổ pháp luật với những định chế và chế tài cần
thiết liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm và trình tự pháp lý của việc lập quy hoạch và
kế hoạch, thực thi, giám sát và điều chỉnh kế hoạch ở các cấp quản lý từ Trung ương
đến vùng và các địa phương. Trong chỉ thị 32/1998/CT – TTg của Thủ tướng chính phủ

đã xác định kế hoạch hóa ứng dụng ở Việt Nam hiện nay gồm các giai đoạn: chiến lược
kinh tế xã hội – quy hoạch (tổ chức lãnh thổ) – kế hoạch. Qua thực tiễn có nhiều điều
phải được xác định lại cho chính xác. Phải xác định lại cả nội dung, bước đi của 3 giai
đoạn này. Sẽ rất khó khăn để cho ra đời luật kế hoạch, thậm chí pháp lệnh kế hoạch hóa
vì rất nhiều lý do khách quan của một nền kinh tế đang chuyển đổi sang cơ chế thị
trường có định hướng XHCN trong giai đoạn hiện nay. Song nếu có luật này thì mới
bảo đảm cho sự phát triển vùng bền vững. Đây là một yếu tố quan trọng tác động đến
sự phát triển và định hướng phát triển từ vùng kinh tế lớn đến vùng kinh tế ngành, đến
vùng kinh tế phát triển theo các trình độ khác nhau.
Tồn tại trên có liên quan đến những quan điểm lý luận và phương pháp luận
nghiên cứu phát triển vùng ở nước ta trong giai đoạn chuyển từ kinh tế tập trung, bao
cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng như ở các nước XHCN trước đây đều thực hiện việc
phân vùng kinh tế và nghiên cứu phát triển vùng, nhưng đi theo hướng lý thuyết căn
bản khác nhau.
13


Việc phân vùng và kế hoạch hóa vùng ở các nước XHCN dựa trên quan điểm
“Phân công lao động theo lãnh thổ”. Các nhiệm vụ sản xuất và dịch vụ theo một kế
hoạch căn bản mang tính pháp lệnh do Nhà nước trung ương đề ra để các vùng và các
địa phương thực hiện. Hoạt động kinh tế của các vùng tuy cũng dựa vào lợi thế so sánh
về điều kiện tự nhiên (như tài nguyên) và điều kiện kỹ thuật (như các ngành nghề
truyền thống), nhưng tất cả đều được quy chiếu vào nguyên tắc bao cấp từ đầu vào đến
đầu ra. Yếu tố thị trường đóng vai trò rất thứ yếu, trong nhiều trường hợp hầu như
không được chú ý.
PVKT ở nước ta vừa qua được coi là phân vùng kinh tế tài nguyên. Lâu nay ta
thường bỏ qua một câu hỏi đó là phân vùng một nền kinh tế gì? Về trình độ phát triển,
từ đầu thế kỷ XX là sự thống trị của sự phân phối tài nguyên; tương ứng với nó là lý
thuyết kinh tế và thực tiễn của sự phân phối này. Về tính chất, đó là sự phân phối các

nguồn tài nguyên hạn chế, về nguyên tắc, đó là sự tiết kiệm, và về không gian đó là sự
giới hạn lãnh thổ bởi vì mọi tài nguyên đều có một lãnh thổ tương ứng. Lãnh thổ này
được xác định bởi các địa giới tự nhiên và hành chính – kinh tế. Người ta phân vùng, về
thực chất là phân chia, sắp xếp nền kinh tế đất nước như cách chơi cờ trong một bàn cờ.
Vấn đề chỉ là cách chơi theo một hay hơn một luật chơi, trong một sân chơi nhất định.
Nền kinh tế tài nguyên, xét về bản chất, là sự tiết kiệm trong một cuộc chơi bị giới hạn
về trong các nguồn lực và trong lãnh thổ. Và như vậy PVKT cũng chỉ là một hành động
kinh tế có giới hạn.
Trong khi đó, việc phân vùng và kế hoạch hóa vùng ở các nền kinh tế tư bản lại
chủ yếu dựa trên quan điểm “Thị trường tự do” với quy luật cạnh tranh đóng vai trò nền
tảng. Cạnh tranh là tất yếu và cần thiết chẳng những giữa các doanh nghiệp trong sản
xuất kinh doanh mà còn giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng với nhau, giữa
các quốc gia… Chính vì sự cạnh tranh đó mà cần thiết phải có kế hoạch hóa. Nhưng kế
hoạch này không mang tính pháp lệnh mà mang tính hướng dẫn, kế hoạch đó không
thực hiện bằng công cụ hành chính mà bằng các công cụ kinh tế, Nhà nước trung ương
không bao cấp đầu vào và đầu ra cho các địa phương. Các vùng phải phát huy lợi thế
của mình. Lợi thế so sánh này được quy chiếu theo quy luật cung cầu của thị trường,
tức là theo khả năng cạnh tranh trên thị trường chứ không chỉ là những khả năng tiềm
tàng thuần túy dựa vào điều kiện tự nhiên hay kỹ năng truyền thống.
Những nguyên tắc, lý luận và phương pháp luận trên đây ảnh hưởng rất lớn đến
công tác phân vùng và phát triển vùng. Ở Việt Nam, đã một thời kỳ chúng ta đi theo hệ
quan điểm thứ nhất với tổ chức và hoạt động của Ủy ban PVKT Trung ương là đầu mối
của mọi nghiên cứu và quy hoạch vùng. Chỉ trong những năm gần đây, chúng ta mới
chuyển sang nền kinh tế thị trường, và trong bước quá độ này, ảnh hưởng của các quan
điểm tập trung, quan liêu, bao cấp vẫn còn đáng kể.
Việc xác định 3 vùng kinh tế trọng điểm trên cả nước có thể là một thử nghiệm
đầu tiên áp dụng quy luật thị trường trong phân vùng và phát triển vùng. Trong đó,
VKTTĐPN vốn trước đây đã có kinh tế thị trường mạnh nhất cả nước, nay được chú
14



trọng nghiên cứu và quy hoạch để từ đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho
việc phân vùng và nghiên cứu phát triển vùng ở nước ta.
Từ thực tế phát triển của VKTTĐPN, chúng ta đã thấy xuất hiện một số vấn đề
lý luận và phương pháp luận cần được làm sáng tỏ để có cơ sở khoa học cho các quyết
định về chính sách và cơ chế sau này. Ví dụ vài nội dung sau đây:
Khái niệm phát triển vùng sẽ là tiêu điểm của các phán đoán, đánh giá về hiện
trạng và suy xét về chính sách. Khái niệm vùng kinh tế là thông dụng ở nhiều quốc gia.
Nền kinh tế không tự nó vẽ một đường biên rõ ràng như đường biên của các đơn vị
hành chính. Vì thế, tuy có gắn với lãnh thổ hành chính của các địa phương, vùng kinh tế
chỉ nhắm vào các liên hệ kinh tế giữa các địa phương có thể tạo ra lực tương hỗ cho sự
phát triển. Do đó, khái niệm phát triển vùng được đặt ra nhằm khai thác tối đa các tác
động tương hỗ ấy. Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng chúng ta chưa có thực thể vùng,
địa phương nào làm theo địa phương đó và làm theo sự chia cắt hành chính. Lý do có
thể nằm ở tổng thể nền kinh tế và bộ máy quản lý Nhà nước của chúng ta chưa có sự
tách bạch hành chính và kinh tế. Từ trung ương đến các địa phương, cơ cấu quyền lực
hành chính với các tầng nấc của nó vẫn trùm lên đời sống kinh tế. Do đó, các tương tác
kinh tế không tự nó hoạt động một cách tích cực được, không tự nó phát huy tác dụng
mà phải đi qua “rào cản” của hành chính mà ta quen gọi là cơ chế “xin - cho”.
Dù với bất cứ lý do nào thì khái niệm kinh tế phát triển vùng, từ căn bản lý luận,
đang cần có những giải pháp khoa học để có thể hướng dẫn những suy nghĩ và hành
động của các cấp ngành từ TW đến địa phương.
Trong nền kinh tế thị trường, sự phát triển kinh tế ở bất cứ phạm vi nào, kể cả ở cấp
vùng cũng đều phải dựa trên quy luật cạnh tranh. Chỉ có cạnh tranh mới phát hiện được
lợi thế so sánh, mới phát huy được sáng kiến, mới loại trừ được sự trì trệ rất dễ trở
thành căn bệnh của bất cứ guồng máy hành chính nào.
Các địa phương, các cộng đồng cạnh tranh ít nhất vì hai lợi ích thiết thực cho họ.
Một là, tăng thêm việc làm, giảm thất nghiệp do thu hút được nhiều nhà đầu tư. Hai là,
tăng thêm được các nguồn thu từ thuế doanh thu của các doanh nghiệp trên địa bàn của
họ.

Ở nước ta, cụ thể là ở VKTTĐPN, thực tế cũng đã xuất hiện sự cạnh tranh đó
của các địa phương. Các địa phương trước sau cũng làm việc “tiếp thị”, tức là “khuyến
mãi chính mình”. Bà Rịa – Vũng Tàu đã nêu phương châm “đổi đất lấy hạ tầng”, Bình
Dương thì “trải thảm đỏ đón các nhà đầu tư”, Đồng Nai đã liên tục cải thiện quy trình
cấp phép đầu tư và giảm giá cho thuê đất. Trong cạnh tranh tất nhiên có mặt tích cực và
không ít tiêu cực, ví dụ sự “lạm phát” các khu công nghiệp.
Ở VKTTĐPN hiện nay, công tác kế hoạch hóa mới chỉ dừng lại ở các bản quy
hoạch tổng thể (QHTT) vùng và các bản QHTT của các địa phương. Nó mới chỉ dừng
lại ở các văn bản mà chưa có một thể chế hoạt động cụ thể về kế hoạch hóa như là một
công cụ theo dõi, cập nhật, điều chỉnh, cung cấp thông tin và tư vấn cho các cấp, các địa
phương, các doanh nghiệp trong sự tham gia của họ vào các nổ lực phát triển vùng. Vai
15


trò “hướng dẫn”, “định hướng” của công tác kế hoạch đã bị triệt tiêu, đó là đầu mối gây
ra những rối ren hiện nay.
Vùng KTTĐ phải dựa trên các cực tăng trưởng là các đô thị lớn, vì thế phải có
những đột phá trong tổ chức và quản lý đô thị. Hệ thống đô thị trong vùng xét theo tiêu
chuẩn hiện đại là một trong những thước đo quan trọng của sự phát triển. Nó vừa là
động lực vừa là kết quả của sự phát triển vùng.
Phải bằng quan điểm đó để nhìn lại trình độ phát triển và cung cách quản lý của
các thành phố trong vùng, đặc biệt là tuyến đô thị từ Tp. Hồ Chí Minh qua Biên Hoà đi
Vũng Tàu. Mức độ tham gia của Thủ Dầu Một vào quá trình hình thành chùm đô thị
vùng này cũng phải được xem xét.
Phải lưu ý thích đáng đến sự xuống cấp của các đô thị trong vùng, kể cả Tp. Hồ
Chí Minh, mặc dù mỗi nơi đều có ít nhiều cải thiện bằng một số công trình xây dựng
mới. Phải chăng đã có sự xuống cấp nhiều mặt trong xây dựng, trong giao thông, trong
môi trường, trong dịch vụ xã hội, trong tổ chức không gian đô thị, trong mô hình cư trú,
trong an ninh xã hội nói chung. Sau hết đó là tình trạng quản lý đô thị hết sức lạc hậu
với cơ chế và lề lối quản lý nhà nước và quản lý xã hội chẳng khác gì quản lý một tỉnh

nông thôn.

CHƯƠNG IV
16


4.Một số giải pháp phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía nam
4.1 Một số quan điểm về cơ chế chính sách, phương thức quản lý VKTTĐPN
4.1.1. Quan điểm cơ chế chính sách: Vào thời kỳ đầu của sự chuyển đổi từ cơ
chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, chính vùng này đã phải đối diện với
những khía cạnh chính trị khá nhạy cảm để có những quyết sách bằng con đường không
chính quy, phải “xé rào”, phải “bung ra” như cách nói quen thuộc vào lúc đó.
Tất nhiên, ngày nay Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương mang tầm
chiến lược về phát triển các vùng kinh tế trên cả nước, đặt trong một tổng thể tư duy
chính trị và kinh tế đổi mới ngày càng rộng mở hơn. Tuy vậy, vẫn có những khía cạnh
chủ trương, chính sách cần phải nghiên cứu và giải quyết gắn liền với quá trình quy
hoạch, chỉ đạo và thực hiện sự phát triển vùng. Chẳng hạn, đó là mối quan hệ giữa tập
trung và phi tập trung hóa, giữa mức độ tập quyền và phân quyền thế nào, giữa tập
trung và dân chủ trong việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp, giữa lợi ích cục bộ và
lợi ích toàn bộ được xử lý ra sao?
Những khía cạnh chủ trương, đường lối này nếu không được nghiên cứu và giải
quyết thấu đáo thì vẫn có thể gây ra những trục trặc trong tư tưởng và không nhất quán
trong phương pháp giải quyết gây trở ngại cho sự phát triển vùng.
Trước hết, cần phải khẳng định quy luật phát triển không đồng đều giữa các vùng khác
nhau của đất nước. Không đồng đều về tốc độ, về trình độ và do đó cũng không giống
nhau về giải pháp và bước đi cụ thể. Khẳng định quy luật này để giải quyết dứt điểm về
mặt quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, công khai và minh bạch những điều mà trước đây còn
do dự trong chính sách thúc đẩy các vùng phát huy tối đa lợi thế so sánh của mình, tiềm
lực mọi mặt của mình để đi lên. Đồng thời, khẳng định quy luật này cũng có nghĩa là
dứt khoát đoạn tuyệt với chủ nghĩa bình quân, cào bằng, rốt cuộc chỉ kéo chân nhau và

chẳng có lợi ích cho ai cả.
Thực tế cho thấy, VKTTĐPN đã vượt lên được chủ yếu là nhờ ở các địa phương
đã biết khai thác lợi thế so sánh của mình để tạo ra cho vùng có nhịp độ phát triển
nhanh, vượt trội nhịp độ bình quân của cả nước từ 1,5 đến 2 lần, đóng góp đến 48,7%
mức tăng trưởng của cả nước (theo cách tính của bộ Tài chính). Cũng nhờ vậy mà vùng
này đã đóng góp đến 46,8% ngân sách của cả nước. Cả 4 tỉnh trong vùng cùng với Hà
Nội đều đóng góp được cho ngân sách trong khi các địa phương khác phải dựa vào
điều phối lại của Trung ương.
Ở trình độ thấp kém của nền kinh tế nước ta hiện nay, nếu không có một vài
vùng tiến vượt lên thì không thể có điều kiện tích lũy cả về vật chất lẫn về hiểu biết và
kinh nghiệm để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cụ thể hơn, nếu VKTTĐPN hiện đang là vùng dẫn đầu mà từ đây đến năm 2010
không tạo thành được một mô hình cụ thể về công nghiệp hóa và hiện đại hóa thì làm
sao có tiền đề để đạt được mục tiêu biến nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp vào năm 2020.
17


Việc khẳng định quy luật phát triển không đồng đều còn có một ý nghĩa khác rất
quan trọng. Nó mở đường cho những tìm tòi về chính sách cụ thể vượt ra khỏi lối mòn
của tư duy chính trị và tư duy kinh tế, quen đặt mọi tình huống và thực tế khác nhau
vào một vài khuôn mẫu chung chung. Khuôn mẫu này gần như còn rất nặng nề khiến
cho cung cách tổ chức, điều hành, quản lý các vùng, các địa phương giống hệt như nhau
trong khi có nhiều vấn đề hết sức khác nhau lại không được nghiên cứu và tìm ra giải
pháp cụ thể. Có khắc phục được tập quán tư duy xơ cứng này thì mới chấp nhận được
những tìm tòi về cơ chế mới chẳng những cho VKTTĐPN mà cho các vùng kinh tế
trọng điểm của cả nước.
Cũng cần nói lại một điều, ở đất nước đang từ chế độ bao cấp, tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN không thể chỉ để các vùng tự do phát triển không
đồng đều, không thể để sự phân liệt giữa vùng giàu và vùng nghèo, giữa người giàu,

người nghèo. Nhà nước không thể chỉ tập trung vào đầu tư một số vùng mà không đầu
tư đúng mức những vùng khác. Đất nước ta có thể có 6 vùng hoặc 8 vùng kinh tế lớn,
hàng trăm “vùng kinh tế ngành”, hàng nghìn “vùng phát triển”, “vùng chậm phát triển”,
“vùng trì trệ suy thoái” vv…. Đối với người quản lý nhà nước không thể bỏ qua vùng
nào. Tuy nhiên không vì thế mà không chú ý đến vùng động lực, vùng có tính chất đầu
tàu đột phá. Ởû đây cần có vai trò điều hòa, điều chỉnh của Nhà nước để các công dân ở
các vùng đều được sự thụ hưởng sự tiến bộ của nền kinh tế, thể hiện ở mức độ hưởng
thụ văn hóa, môi trường sống. Mọi người đều thống nhất, đối với các vùng “nhạy cảm”
Nhà nước cần có đầu tư đặc biệt, mãnh liệt và toàn diện.
4.1.2. Một số chính sách cần chú ý ở VKTTĐPN: Vùng VKTTĐPN đang đòi hỏi
trước hết một hệ thống chính sách mở cửa và hội nhập hơn nữa vào kinh tế khu vực và
thế giới đang trong xu thế toàn cầu hóa. Quá trình phát triển vừa qua của VKTTĐPN
cho thấy, chính sự mở cửa và hội nhập vốn có từ lịch sử nay đang là một lợi thế so sánh
quan trọng nhất của vùng. Điều này đã bộc lộ trong một số thành tựu kinh tế nổi bật về
xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Cần nghiên cứu và đề xuất hệ thống chính sách mở cửa và hội nhập hơn nữa cho
phép vùng này tận dụng được thời cơ đã có và đón nhận những thời cơ mới. Đặc biệt
cần dự báo và có biện pháp thích ứng với những chuyển động kinh tế tới đây khi triển
khai một loạt các thỏa hiệp của ASEAN về AFTA, khi mở cửa hành lang kinh tế xuyên
Á, và khi hiệp định thương mại Việt – Mỹ đi vào thực hiện, khi hội nhập toàn cầu hóa,
gia nhập WTO.
Mặt khác, chính sách mở cửa và hội nhập cần được nghiên cứu và phát triển hài
hoà với chủ trương phát huy nội lực, tự lực, tự cường và phát triển thị trường trong
nước.
Trong chiều hướng đó, một số mục tiêu phát triển của vùng cũng phải được làm
rõ hơn với các chính sách hỗ trợ kèm theo. Chẳng hạn, vùng này phải nhanh chóng đạt
được một số bước để tiến kịp khu vực ASEAN trong các lĩnh vực công nghệ mới, trong
hệ thống cảng quốc tế, sân bay quốc tế và nhất là trong một số ngành dịch vụ hiện đại
phục vụ cho thị trường tài chính, viễn thông, du lịch… Đó là những lĩnh vực mà ta phải
18



rút ngắn khoảng cách rất nhanh để có thể hội nhập và khai thác nguồn lợi từ đó. Không
chỉ đối với VKTTĐPN mà các vùng khác của đất nước, đều có tình trạng lực lượng lao
động hay nói chung là nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển.
VKTTĐPN đi đầu trong hầu hết các lĩnh vực phát triển của đất nước phải dựa trên nền
tảng của kinh tế tri thức và tính năng động cao có hiệu quả của các doanh gia và đội
ngũ những người hoạch định chính sách. Thu hút nhân tài là một công việc cực kỳ quan
trọng.
Một chính sách trọng điểm khác nữa cần nghiên cứu là hệ thống chính sách đối
với khu vực tư, với kinh tế tư nhân và cụ thể hơn là với kinh tế tư bản tư nhân trong
vùng trong quan hệ với các thành phần kinh tế khác nhau. Khác hẳn với các vùng kinh
tế trọng điểm ở phía Bắc và miền Trung tiềm năng khu vực kinh tế tư nhân ở vùng này
còn rất lớn. Mặc dù đã có nhiều chính sách khuyến khích khu vực tư nhân trong cả
nước nhưng hiệu quả chưa rõ rệt ở vùng này.
4.1.3. Xây dựng cơ chế quản lý VKTTĐPN với một hình thức hợp lý: Rất nhiều ý
kiến cho rằng cần có một đầu mối thống nhất để quản lý và phối hợp các nổ lực phát
triển vùng ở tất cả các địa phương. Chức năng quan trọng nhất của đầu mối này là phối
hợp và tư vấn, phối hợp giữa các cấp các ngành từ trung ương đến các địa phương và
tư vấn cho các cấp trong quá trình triển khai, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch. Cần có
một bộ máy tham mưu thường trực của các chuyên gia. Rất cần những nhà quản lý, nhà
khoa học có “tầm nhìn” bao khắp không gian và thời gian.
Nhìn ra các nước, ta thấy chẳng những việc phân vùng, quy hoạch vùng mà cả
bộ máy quản lý vùng cũng đã có những thể chế ổn định. Nước Pháp đã chia 22 vùng
gồm 95 tỉnh, mỗi vùng gồm 3 đến 4 tỉnh. Mỗi vùng có tổ chức quản lý cấp vùng do tỉnh
trưởng tỉnh lớn nhất trong vùng đứng đầu với chức năng điều phối kế hoạch và cả ngân
sách vùng.
Nước Mỹ có 450 đơn vị cấp vùng, mỗi vùng có “Hội đồng các chính quyền” là
cơ quan làm nhiệm vụ kế hoạch hóa và điều phối sự phát triển vùng. Cả hai nhiệm vụ
ấy được thực hiện bởi hoạt động thường xuyên của một bộ phận chuyên môn gồm các

chuyên gia có chức năng theo dõi, điều chỉnh kế hoạch và tư vấn cho các quyết định
của hội đồng.
4.1.4. Nghiên cứu những biện pháp đẩy nhanh các cải cách hành chính ở địa
phương trong VKTTĐPN bằng việc tập trung vào một số khâu đột phá về quản lý kinh
tế và quản lý đô thị.
Chúng tôi cho rằng thời gian qua lý luận về phân vùng kinh tế ở Việt Nam đã
lâm vào khủng hoảng với mức độ không nhẹ, song các nhà khoa học Việt Nam đang
tìm lối ra để phát triển. Đã đến lúc cần thiết có một phương pháp luận mới về phân
vùng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong
bối cảnh đất nước đang đổi mới sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN, trong bối
cảnh hội nhập kinh tế thế giới.
Ở bài này chúng tôi không bàn trực tiếp các nhân tố tác động đến phương hướng
phát triển vùng. Đứng trên giác độ vùng, ngoài các chính sách của Đảng và Nhà nước
19


quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng núi và vùng chậm phát triển, cần tập trung đầu
tư xã hội cho phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, làm đầu tàu kéo các vùng khác, lan
tỏa sức sống mãnh liệt cho các vùng xung quanh. Cần khẳng định quy luật phát triển
không đồng đều giữa các vùng khác nhau của đất nước: không đồng đều về tốc độ, về
trình độ phát triển lực lượng sản xuất và do đó cũng không giống nhau về giải pháp, về
đầu tư và bước đi cụ thể.
Qua những nội dung trình bày ở trên, cũng muốn nhấn mạnh một ý là tổ chức
lãnh thổ phải là đối tượng nghiên cứu chính của Địa lý kinh tế – xã hội. Tuy nhiên tổ
chức lãnh thổ kinh tế - xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác.
Khoa học Địa lý ngày nay đã đến lúc không thể hoàn toàn độc lập phát triển hay có một
đối tượng nghiên cứu chỉ của riêng mình. Đã đến lúc cần có sự phối hợp chặt chẽ của
nhiều ngành khoa học để nghiên cứu tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội cả nước nói
chung và các vùng kinh tế nói riêng.
4.2 Phát triển theo mô hình tập trung

Vùng kinh tế trọng điểm phía nam nên phát triển theo mô hình tập trung đa cực
bởi như vậy mạng lưới giao thông sẽ được kết nối tốt và hiệu quả hơn; nguồn nước
được khai thác hài hòa và dài hạn; tài nguyên thiên nhiên được khai thác hợp lý hơn so
với các mô hình tập trung cao và phân tán. Về phát triển kinh tế, Phân viện đề xuất:
phía Bắc bao gồm các tỉnh Tây Ninh và Bình Dương tập trung phát triển lâm nghiệp và
cây công nghiệp, du lịch sinh thái, kinh tế cửa khẩu; phía Nam bao gồm tỉnh Long An
tập trung phát triển nông nghiệp sinh thái, công nghiệp chế biến nông sản, nông nghiệp
đa ngành; phía Đông bao gồm các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển công
nghiệp dầu khí, hóa dầu, dịch vụ cảng, du lịch nghỉ dưỡng; vùng đô thị trung tâm hạt
nhân và phụ cận, chủ yếu là TPHCM, phát triển công nghiệp sạch kỹ thuật cao, viễn
thông,tài chính, ngân hàng và các dịch vụ cao cấp khác…..

CHƯƠNG V
20


5. Kết luận và kiến nghị
5.1 Kết luận
VKTTĐ phía Nam là hạt nhân của vùng Đông Nam bộ, có mối quan hệ chặt chẽ
với Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, nhắc đến những tỉnh trong
VKTTĐ này, người ta chỉ biết đến những KCN hơn là biết một cách cụ thể những
ngành hay lĩnh vực nào khác ngoài cảng biển và dầu khí ở Vũng Tàu. Chẳng hạn,
TP.HCM là vùng kinh tế phát triển, nhưng lại không nhận thức rõ điểm mạnh của
Thành phố này là công nghiệp, dịch vụ, trung tâm tài chính hay khoa học kỹ thuật...(?)
Một số ý kiến phân tích, TP.HCM nên là trung tâm dịch vụ, tài chính hơn là phát triển
lĩnh vực công nghiệp, vì không có thế mạnh về đất đai và lao động. Thành phố nên
chuyển giao lĩnh vực này cho những tỉnh, thành lân cận. Trong khi đó, TP.HCM cũng
được hoạch định theo chương trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; điều này cũng có
nghĩa là TP.HCM cần phát triển trọng tâm ngành Công nghiệp.
Từng tỉnh, thành có qui hoạch tổng thể phát triển KCN riêng, nhưng các tỉnh,

thành trong vùng kinh tế lại không có qui hoạch chung, không có qui hoạch định hướng
của vùng, nên “mặc sức” thu hút dự án đầu tư mà không định hướng tập trung hay ưu
tiên gì. Các KCN gần như giống nhau, trong đó chủ yếu phát triển những ngành nghề
truyền thống như giày dép, dệt may..., còn những ngành có tính hiện đại hóa cao, có
tính chất lôi kéo sự phát triển kinh tế của tỉnh và vùng thì không có, hoặc không đáng
kể. Đơn cử, tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, từ nhà máy sắt thép đến nhà máy sản xuất bột
mì, đều có thể nằm ngay cạnh nhau trong một KCN. Ở Bình Dương, những KCN phát
triển nóng đã trở thành những lò xả chất thải tàn phá những vườn tược trù phú cả trăm
năm nay ở vùng Lái Thiêu và dọc sông Sài Gòn. Điều này không phù hợp và không
chấp nhận được đối với qui hoạch kinh tế vùng.
Khi không có qui hoạch vùng, sự phát triển của các KCN cũng bị ảnh hưởng,
nhất là trình độ phát triển hạ tầng cơ sở. Các tiện ích như đường sá, điện nước, dịch vụ
internet, bưu điện... còn kém và không đồng bộ giữa các khu. Tỉnh, thành nào tập trung
cải thiện được tiện ích gì thì nhà đầu tư ở đó được hưởng, chứ chưa có sự chia sẻ để
cùng hưởng giữa các tỉnh, thành. Thiếu qui hoạch vùng, quỹ đất dành cho phát triển
KCN không hiệu quả và nhanh chóng bị cạn kiệt, môi trường ô nhiễm và đặc biệt là kéo
theo sự phát triển của hệ dân cư, hiện tượng đang đeo bám các KCN mà chưa có biện
pháp khắc phục. Một số nơi qui hoạch KCN tràn lan, “trải thảm đỏ” nhưng... vẫn ít
người đến do: Hạ tầng, nhân lực, giao thông, khoảng cách địa lý (đến cảng hoặc thị
trường) chưa thích hợp, chưa thuyết phục nhà đầu tư… Tỉnh Bình Phước với 5 KCN
buồn tênh đang là một ví dụ. So với 6 tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
thì Bình Phước được đánh giá là có lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, tài nguyên
rừng và khoáng sản. Tuy nhiên, do cơ sở hạ tầng còn yếu nên tỉnh bị tách biệt, không
giao lưu được với các tỉnh trong nội bộ vùng. Mạng lưới giao thông 270 km dọc theo
tuyến biên giới hiện chỉ mới đầu tư được 71 km, tuyến đường sắt Dĩ An - Lộc Ninh
chưa xây dựng, đường 322 nối trung tâm Bình Phước với Đồng Nai cũng chưa được
nâng cấp mở rộng. Tuy có mức độ tăng trưởng khá cao với tổng sản phẩm trong Tỉnh
21



tăng bình quân hằng năm 13,3%, song Tây Ninh chưa thực sự phát triển vững chắc.
Nguyên nhân vì xuất phát điểm về kinh tế của Tỉnh thấp, sức cạnh tranh sản phẩm chưa
cao, thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào tỉnh còn hạn chế. Chất lượng quy hoạch,
nhất là quy hoạch đô thị chưa tốt đã ảnh hưởng tới môi trường đầu tư của Tỉnh.
5.2 Kiến nghị
Tham gia WTO, cơ hội mở rộng xuất khẩu ra thị trường thế giới sẽ rất lớn đối
với DN Việt Nam nói chung và DN trên địa bàn Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói
riêng. Dự báo tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của địa bàn này trong 15 năm tới có
thể đạt mức bình quân từ 12-13%/năm (giai đoạn 2001-2005 đạt mức bình quân
11,76%/năm) và kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng mức bình quân hàng năm trên 20%.
Việc mở cửa thị trường theo lộ trình đã cam kết đối với WTO, dòng vốn đầu tư trực
tiếp và gián tiếp của nước ngoài sẽ được khai thông mạnh mẽ hơn vào địa bàn Vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam, đặc biệt là đối với TP.HCM - trung tâm tài chính của
vùng. Mặt khác, chất lượng của nguồn vốn FDI cũng sẽ thay đổi theo định hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cùng với nguồn vốn FDI, theo lộ trình mở rộng quy mô,
cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu vốn và cổ phiếu đối với các DN trên
thị trường tài chính sẽ tạo động lực rất mạnh đối với dòng đầu tư tài chính của nước
ngoài. Hiệu ứng của đầu tư tài chính đối với thị trường vốn trung và dài hạn sẽ làm thay
đổi theo hướng tích cực vai trò của thị trường vốn của nước ta nói chung và đối với
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng.
Trong điều kiện hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu, nhiều cơ hội mở ra
thì song song đó cũng phải đối mặt với thách thức, nguy cơ. Đó là điều kiện về kết cấu
hạ tầng kỹ thuật, nhất là hạ tầng giao thông bất cập so với nhu cầu tăng trưởng kinh tế
nhanh và hiệu quả. Ngoài ra nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng nâng cao sức mạnh cạnh tranh cũng là thách thức lớn. Việc mở cửa
thị trường dịch vụ, nhất là các loại dịch vụ liên quan đến thị trường tài chính; dịch vụ
giá trị gia tăng của lĩnh vực viễn thông và thương mại nội địa do phần lớn các DN Việt
Nam trong vùng chỉ tham gia vào chuỗi giá trị, thuộc công đoạn có giá trị gia tăng thấp,
chưa làm chủ các công đoạn có giá trị gia tăng cao làm cho mức phụ thuộc của DN Việt
Nam đối với các tập đoàn kinh tế nước ngoài sẽ rất lớn. Cùng với 3 thách thức nêu trên,

Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đang tạo ra nguy
cơ rất lớn đối với sự xâm hại môi trường của toàn vùng.
Thực tế hiện nay, mỗi địa phương của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đều đã
và đang xây dựng chương trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó đều chú trọng đến
vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cạnh tranh; phát triển nguồn nhân lực;
triển khai các biện pháp hỗ trợ DN trong khuôn khổ WTO cho phép. Tuy nhiên, những
nỗ lực của từng địa phương chỉ có thể mang lại hiệu quả, khi có cơ chế phối hợp phát
triển chung của toàn vùng nhằm phát huy lợi thế chung của cả địa bàn trong điều kiện
cạnh tranh và hội nhập.
Theo đó, cần quy hoạch xây dựng một hành lang công nghiệp của Vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam gắn với trung tâm dịch vụ TP.HCM. Cần có sự phối hợp và ưu
22


tiên đầu tư xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng khung của vùng. Quy hoạch đào tạo
nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ yêu cầu công
nghiệp hóa - hiện đại hóa của vùng. Phối hợp giữa các địa phương trong vấn đề bảo vệ
môi trường. Đặc biệt là cơ chế phối hợp chung của chính quyền các địa phương trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, nhằm hỗ trợ DN
nâng cao sức cạnh tranh.

23



×