Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Một số giải pháp phát triển ngành công nghiệp cơ khí việt nam đến năm 2025

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.69 KB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP
CƠ KHÍ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025

Sinh viên thực hiện: Ngô Thu Trang
Mã SV: CQ534110
Lớp: Kinh tế phát triển 53B
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hoa

Hà Nội, ngày 18 tháng 05 năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, bản chuyên đề tốt nghiệp “ Một số giải pháp phát triển
ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam đến năm 2025” là công trình nghiên cứu độc lập,
do chính tôi hoàn thành. Các tài liệu tham khảo và trích dẫn được sử dụng trong
chuyên đề này đều nêu rõ xuất xứ tác giả và được ghi trong danh mục các tài liệu tham
khảo.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về lời cam đoan trên.

Hà Nội, ngày 18 tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Ngô Thu Trang


MỤC LỤC



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1.
2.

CNCK
CNH –

Công nghiệp cơ khí
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

DNVVN
EPC
FDI
GDP
GTSX
NSLĐ
OECD
R&D
TCH
VAMI

Doanh nghiệp vừa và nho
Gói thầu toàn bộ gồm: tư vấn – mua sắm thiết bị – xây lắp
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tổng sản phẩm quốc nội
Giá trị sản xuất
Năng suất lao động
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
Nghiên cứu và phát triển

Tiêu chuẩn hóa
Hiệp hội doanh nghiệp cơ khí Việt Nam

HĐH
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.


DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH


Chuyên đề tốt nghiệp

5
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Trên thế giới, không có quốc gia nào thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện
đại hóa mà lại không có một nền công nghiệp cơ khí (CNCK) phát triển. Bởi cơ khí là
một ngành công nghiệp có vị trí vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, sự phát triển của
ngành CNCK vừa là nền tảng vừa là động lực để thúc đẩy các ngành khác phát triển.
Trong những năm qua, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
ngành cơ khí Việt Nam đã thực hiện Chiến lược phát triển (kể từ năm 2002) và đã đạt
được những kết quả đáng kể. Thứ nhất, giá trị sản xuất công nghiệp của ngành luôn có
xu hướng tăng: năm 2013, giá trị sản xuất của ngành cơ khí đạt 251.185 tỷ đồng (giá cố
định 1994) tăng hơn 5 lần so với năm 2002. Thứ hai, ngành cơ khí ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong cơ cấu giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp: năm 2002 chỉ
chiếm 16% , thì đến năm 2013 đã chiếm 25,4%. Thứ ba, giá trị xuất khẩu của ngành
liên tục tăng qua các năm và dần trở thành một trong những ngành xuất khẩu quan
trọng của nước ta. Ngoài ra, ngành CNCK của Việt Nam đã có những thay đổi và đang
từng bước hội nhập với ngành cơ khí thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh một số thành tựu
như trên thì ngành cơ khí Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Khả năng đáp ứng
nhu cầu trong nước của ngành cơ khí còn thấp, năm 2013 mới đạt 32,52% (thấp hơn
mục tiêu của Chiến lược phát triển là đáp ứng 40 – 50% nhu cầu trong nước vào năm
2010). Giá trị nhập khẩu ngành cơ khí cao gấp hai lần giá trị xuất khẩu của ngành. Các
ngành công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí chưa phát triển để đáp ứng nhu cầu của nền
kinh tế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên như: cơ chế, chính sách còn
chưa phù hợp và thiếu nhất quán; năng lực nghiên cứu phát triển còn hạn chế; các
doanh nghiệp thiếu vốn để đầu tư theo chiều sâu; thiếu sự phối hợp giữa các doanh
nghiệp trong ngành…Như vậy, để thúc đẩy ngành công nghiệp cũng như nền kinh tế
phát triển và góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thì việc phát triển ngành cơ khí của nước ta là việc làm cần thiết. Do đó, tôi đã lựa
chọn đề tài: “ Một số giải pháp phát triển ngành công nghiệp cơ khí của Việt Nam
đến năm 2025” làm chuyên đề tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
 Hệ thống hóa lý thuyết phát triển ngành công nghiệp cơ khí.


SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

6

 Đánh giá thực trạng phát triển của ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam nhằm

chỉ ra những thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn tại.
 Đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế để phát triển ngành công nghiệp cơ khí.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Phát triển công nghiệp cơ khí
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng phát triển ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam trong giai
đoạn 2005 – 2014 và đề xuất giải pháp phát triển đến năm 2025.
4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện được các mục tiêu và làm rõ nội dung của chuyên đề , tác giả đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu gồm:
Phương pháp nghiên cứu tại bàn: tác giả sử dụng trong nghiên cứu tài liệu lý thuyết,
các báo cáo, văn bản về ngành CNCK, các tài liệu nghiên cứu xung quanh chủ đề phát
triển CNCK của Việt Nam. Nhờ phương pháp này, chuyên đề đã hình thành nên
khung nghiên cứu của mình.
Phương pháp thống kê, tổng hợp: được sử dụng để thu thập và tổng hợp các số liệu
thứ cấp về ngành CNCK.
Phương pháp phân tích: từ đó các số liệu thứ cấp được tổng hợp, tác giả đưa ra các

nhận định, đánh giá về thành tựu, hạn chế trong phát triển của ngành CNCK .
5. Kết cấu chuyên đề

Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung đề tài
bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển ngành công nghiệp cơ khí
Chương 2: Thực trạng phát triển ngành công nghiệp cơ khí của Việt Nam giai đoạn
2005 – 2014
Chương 3: Giải pháp phát triển ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam đến năm 2025

SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CƠ
KHÍ
1.1.

Những vấn đề chung về ngành công nghiệp cơ khí

1.1.1. Khái niệm ngành công nghiệp cơ khí

Theo giáo trình Kinh tế phát triển (Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân,
2012), công nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế, lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất
mà sản phẩm được “chế tạo, chế biến” cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ sản xuất

kinh doanh tiếp theo. Công nghiệp được chia thành ba thế hệ:
(1) Các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất: là các ngành tận dụng lợi thế so sánh về tài

nguyên và lao động của đất nước, bao gồm: ngành công nghiệp khai thác, ngành công
nghiệp sơ chế nông sản, thủy sản, ngành công nghiệp sản xuất theo hợp đồng gia công.
(2) Các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai: là các ngành công nghiệp yêu cầu công nghệ cao
hơn như: cơ khí chế tạo, điện tử, công nghệ thông tin,…
(3) Các ngành công nghiệp thế hệ thứ ba: là các ngành công nghiệp nặng, tạo ra nguyên
liệu cho sản xuất công nghiệp: công nghiệp lọc dầu, hóa dầu, hóa chất, luyện kim.
Cơ khí là ngành có lịch sử lâu đời, áp dụng các nguyên lý nhiệt động lực học,
định luật bảo toàn khối lượng và năng lượng nhằm phân tích đánh giá các hệ vật lý tĩnh
và động, phục vụ cho công tác thiết kế ô tô, máy bay, hệ thống gia nhiệt và làm lạnh,
đồ dùng gia đình, máy móc và thiết bị sản xuất, vũ khí...
Như vậy, công nghiệp cơ khí là ngành thuộc công nghiệp thế hệ thứ hai, gắn
liền với việc ứng dụng các nguyên lý vật lý vào quá trình sản xuất máy móc, thiết bị,
phương pháp công nghệ gia công kim loại và hợp kim nhằm chế tạo ra các chi tiết máy
hoặc kết cấu máy. Cơ khí chính là một ngành chủ yếu tạo ra “tư liệu lao động” của con
người trong thế giới hiện đại, có tính quyết định trong việc nâng cao năng suất lao
động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
1.1.2. Vai trò của ngành công nghiệp cơ khí đối với nền kinh tế

Thứ nhất, công nghiệp cơ khí là ngành công nghiệp then chốt, là nền tảng để
phát triển kinh tế – xã hội và có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH)
Bản chất kỹ thuật của quá trình công nghiệp hóa là quá trình cải biến nền kinh tế
từ trình độ thủ công sang trình độ cơ khí, biến nền kinh tế nông nghiệp thành nền kinh
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B



Chuyên đề tốt nghiệp

8

tế công nghiệp, tạo lập nền tảng vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế theo phương thức sản
xuất mới – sản xuất sản phẩm bằng máy móc. Trong khi đó, ngành cơ khí lại có chức
năng chủ yếu là chế tạo, sản xuất máy móc, thiết bị. Do vậy, một quốc gia sẽ không thể
hoàn thành quá trình công nghiệp hóa hay phát triển kinh tế theo hướng hiện đại, bền
vững nếu không có một nền công nghiệp cơ khí vững mạnh. Nhìn từ kinh nghiệm để
lại của các nước phát triển có thể thấy rằng, mỗi quốc gia có thể tiến hành công nghiệp
hóa theo nhiều cách khác nhau tùy vào lợi thế của từng nước song đều chú trọng phát
triển mạnh các ngành thuộc công nghiệp cơ khí.
Thứ hai, ngành cơ khí tạo động lực cho các ngành khác phát triển
Ngành cơ khí cung cấp máy móc, thiết bị có khả năng thay thế một phần lớn sức
lao động cho con người, tạo điều kiện nâng cao nâng suất lao động cho hầu hết các
ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Trước tiên, việc phát triển ngành cơ khí sẽ hỗ trợ các
ngành công nghiệp khác như: công nghiệp ô tô, công nghiệp tàu thủy, công nghiệp
điện, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng,…phát triển thông qua việc cung cấp linh
kiện, phụ tùng, máy móc, đổi mới thiết bị và công nghệ phục vụ cho quá trình sản xuất.
Bên cạnh đó, ngành cơ khí còn thúc đẩy nông nghiệp phát triển, nâng cao trình độ sản
xuất và năng suất lao động nhờ quá trình cơ giới hóa – đưa các loại máy móc như: mày
cày bừa, máy gặt, máy tuốt lúa, máy gieo hạt, máy bơm và tưới nước, máy sấy,… vào
sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, ngành cơ khí còn cung cấp các thiết bị y tế, máy móc
công nghệ cao góp phần nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh.
Thứ ba, ngành cơ khí góp phần giải quyết việc làm cho xã hội
Trước hết, việc phát triển ngành cơ khí sẽ tạo việc làm cho hàng loạt lao động
trong ngành cơ khí. Tiếp đó, khi ngành cơ khí phát triển sẽ kéo theo các ngành, lĩnh
vực khác trong nền kinh tế phát triển. Vì vậy sẽ tạo ra một khối lượng việc làm lớn,
góp phần giảm thiểu tình trạng thất nghiệp và gia tăng thu nhập cho người lao động.

Thứ tư, ngành công nghiệp cơ khí giúp củng cố an ninh quốc phòng
Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở tất cả mọi nơi, trên
mọi lĩnh vực. Các quốc gia ngoài việc chú trọng phát triển kinh tế còn cần phải quan
tâm đến vấn đề an ninh quốc phòng, để vừa có thể hòa nhập với sự phát triển chung
của kinh tế thế giới, vừa có thể giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia. Hiện nay,
hết*các*trang*thiết*quân*sự*và*vũ*khí*cho*lực*lượng*vũ*trang*đều*là*sản phẩm
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

9

của*ngành*cơ*khí – điện*tử (chiếm*khoảng*85%). Vì vậy, phát triển ngành công
nghiệp cơ khí cũng là góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng.
1.2.

Nội dung và tiêu chí đánh giá phát triển ngành công nghiệp cơ khí

1.2.1. Khái niệm phát triển ngành công nghiệp cơ khí

Theo triết học duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học khái quát
quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Từ đó, theo logic biện chứng của quá trình phát triển, phát triển kinh tế được xem là
quá trình biến đổi cả về lượng và chất của nền kinh tế.
Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến, toàn diện và về mọi mặt kinh tế, chính
trị, xã hội của một quốc gia. (Theo giáo trình Kinh tế phát triển, Nhà xuất bản Đại học
Kinh tế quốc dân, 2012).

Như vậy, có thể đi đến khái niệm phát triển ngành công nghiệp cơ khí, đó là
quá trình tăng tiến toàn diện, biến đổi cả về mặt lượng và mặt chất của ngành công
nghiệp cơ khí. Mặt lượng của sự phát triển bao hàm sự gia tăng về quy mô giá trị sản
xuất và tiềm lực của ngành cơ khí, đó là quá trình tăng trưởng của ngành cơ khí, còn sự
biến đổi về chất bao gồm quá trình thay đổi cấu trúc bên trong của ngành (chuyển dịch
cơ cấu ngành cơ khí) và hiệu quả của ngành đối với nền kinh tế xã hội.
1.2.2. Nội dung phát triển ngành công nghiệp cơ khí
1.2.2.1.

Tăng trưởng ngành công nghiệp cơ khí

Tăng trưởng ngành công nghiệp cơ khí là tiêu thức thể hiện quá trình biến đổi về
lượng, được hiểu là sự gia tăng thu nhập của ngành cơ khí, xét trong một khoảng thời
gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng này được biểu hiện qua quy mô và tốc
độ tăng trưởng. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng
trưởng mang ý nghĩa so sánh tương đối, phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các
thời kỳ.
1.2.2.2.

Chuyển dịch cơ cấu của ngành công nghiệp cơ khí

Cơ cấu trong nội bộ ngành cơ khí thể hiện mối quan hệ hữu cơ, sự tác động qua
lại cả về số và chất lượng giữa các ngành với nhau; đồng thời phản ánh bản chất, cấu
trúc và đánh dấu sự phát triển theo các giai đoạn của ngành cơ khí. Quá trình chuyển
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp


10

đổi cơ cấu trong nội bộ ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác hoàn thiện hơn,
phù hợp hơn với môi trường và điều kiện phát triển gọi là sự chuyển dịch cơ cấu
trong nội bộ ngành cơ khí. Sự chuyển dịch này không chỉ là thay đổi về số lượng các
ngành, tỷ trọng mỗi ngành mà còn bao gồm sự thay đổi về vị trí, tính chất mối quan hệ
trong nội bộ cơ cấu ngành.
Ngành cơ khí có thể được chia thành: cơ khí chế tạo, cơ khí lắp ráp, cơ khí sửa
chữa. Ngoài ra, theo trình độ công nghệ, ngành cơ khí được chia thành: ngành cơ khí
có công nghệ cao, công nghệ trung bình và công nghệ thấp. Hiện nay, các nước có nền
công nghiệp phát triển, dẫn đầu thế giới về sản xuất cơ khí như: Mỹ, Nhật Bản, Đức
tập trung vào chế tạo sản phẩm cơ khí có hàm lượng công nghệ cao tại các cơ sở sản
xuất trong nước còn một số bộ phận lắp ráp thì được đưa sang các thị trường mới nổi,
các nước đang phát triển nhằm tận dụng nguồn lao động giá rẻ, giảm chi phí sản xuất,
gia tăng lợi nhuận để tạo điều kiện để đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển.
Xu hướng chuyển dịch trên thế giới là tăng tỷ trọng ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp
hỗ trợ ngành cơ khí, giảm tỷ trọng ngành cơ khí lắp ráp; tăng tỷ trọng ngành cơ khí
công nghệ cao, giảm tỷ trọng ngành cơ khí công nghệ thấp.
1.2.2.3.

Hiệu quả của ngành công nghiệp cơ khí

Hiệu quả của ngành công nghiệp cơ khí được hiểu là sự đóng góp, tác động lan
toa của ngành cơ khí đối với nền kinh tế cũng như phương diện xã hội. Đây là bộ phận
phản ánh sự biến đổi về chất, sự phát triển về mặt xã hội của ngành cơ khí. Nội hàm
của hiệu quả ngành công nghiệp cơ khí bao gồm:
(i) Hiệu quả về mặt kinh tế bao gồm: khả năng cạnh tranh của sản phẩm,

khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước, năng suất lao động của ngành, đóng góp

vào tăng trưởng và kim ngạch xuất khẩu.
(ii) Hiệu quả về mặt xã hội là sự đóng góp của ngành vào việc giảm tình
trạng thất nghiệp và nâng cao năng suất lao động cho xã hội. Sự phát triển của
ngành cơ khí không những giải quyết việc làm cho lao động trong ngành mà còn
tạo việc làm cho người lao động trong các ngành, lĩnh vực khác của nền kinh tế
bởi ngành cơ khí có vai trò là động lực thúc đẩy các ngành khác phát triển.
Ngành cơ khí cung cấp máy móc cho hoạt động sản xuất của nền kinh tế, giúp
tự động hóa một hay nhiều khâu của quá trình sản xuất, từ đó nâng cao năng
suất lao động xã hội.
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

11

1.2.3. Các tiêu chí đánh giá phát triển ngành công nghiệp cơ khí

Tiêu chí đánh giá tăng trưởng ngành công nghiệp cơ khí

1.2.3.1.

a. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp cơ khí

Giá trị sản xuất (GTSX) ngành CNCK là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất của
các ngành trong nội bộ ngành CNCK thực hiện trong một thời kì nhất định (thường là
một năm). GTSX ngành CNCK bao gồm: (i) Giá trị nguyên vật liệu, năng lượng, phụ
tùng thay thế; (ii) Chi phí dịch vụ sản xuất và khấu hao tài sản cố định ; (iii) Chi phí

tiền lương, tiền công cho lao động; (iv) Thuế sản xuất và giá trị thặng dư tạo ra trong
cấu thành giá trị sản phẩm.
GTSX ngành CNCK là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh
của ngành CNCK trong một thời kỳ nhất định, thể hiện quy mô, độ rộng của ngành, là
cơ sở để đánh giá tình hình phát triển CNCK của một quốc gia cũng như từng vùng,
miền, địa phương; phục vụ cho việc đề ra các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển công nghiệp trong từng thời kỳ.
GTSX ngành CNCK được tính theo hai loại giá (giá thực tế và giá so sánh) với
phương pháp tính như sau:
GTSX ngành CNCK theo giá thực tế là toàn bộ giá trị sản phẩm do hoạt động
sản xuất CNCK tạo ra tính theo giá tại thời kỳ tính GTSX. Công thức tính:
GTSX ngành
CNCK

= Doanh thu thuần + Các khoản
công nghiệp

theo giá thực tế

trợ cấp

+ Chênh lệch

+ Thuế tiêu thụ

cuối và đầu kỳ phát sinh

của Nhà nước hàng tồn kho

nộp NSNN


Giá trị sản xuất CNCK theo giá so sánh có nội dung tương tự như giá trị sản
xuất theo giá gốc nhưng được tính trên cơ sở cố định giá của người sản xuất để làm gốc
so sánh.
GTSX ngành CNCK theo giá so sánh = GTSX công nghiệp theo giá thực tế / Chỉ số
giá của người sản xuất
b. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành cơ khí qua các năm

Tốc độ tăng trưởng GTSX là tỷ lệ phần trăm giữa chênh lệch GTSX ngành
CNCK kỳ hiện tại và kỳ gốc với GTSX ngành CNCK kỳ gốc. Chỉ tiêu này phản ánh
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

12

sự gia tăng nhanh hay chậm, sự so sánh mang tính tương đối giữa các năm, các thời kỳ
khác nhau về tốc độ phát triển sản xuất CNCK. Chỉ tiêu này được tính bằng biểu thức:
t(i) = x 100 (đơn vị tính: %)
Trong đó:
-

t(i) là tốc độ tăng trưởng GTSX ngành cơ khí năm i
Yi là GTSX ngành cơ khí năm i
Yi-1 là GTSX ngành cơ khí năm (i-1)
c. Tỷ trọng ngành công nghiệp cơ khí trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp


Tỷ trọng ngành CNCK trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp là tỷ lệ giữa giá
trị sản xuất CNCK với giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Chỉ tiêu này phản
ánh vai trò, tầm quan trọng của ngành cơ khí đối với sự phát triển công nghiệp nói
riêng và kinh tế nói chung của các quốc gia, đặc biệt là với các nước đang thực hiện
quá trình công nghiệp hóa.
Tỷ trọng ngành CNCK được tính bằng biểu thức:
st = x100 (%)
Trong đó: st là tỷ trọng ngành công nghiệp cơ khí năm t ; Y CK(t) là giá trị sản xuất ngành
cơ khí năm t; YCN(t) là giá trị sản xuất công nghiệp năm t

1.2.3.2.

Tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành cơ khí
Tỷ trọng của các ngành trong nội bộ ngành công nghiệp cơ khí

Cơ cấu ngành trong nội bộ ngành CNCK là tỷ trọng giá trị sản xuất của các
phân ngành trong ngành cơ khí với toàn bộ giá trị sản xuất CNCK.
Cơ cấu các phân ngành trong nội bộ ngành CNCK phản ánh vị trí, vai trò, đóng
góp của từng phân ngành đối với ngành cơ khí đồng thời phác họa cấu trúc của ngành.
Chỉ tiêu này là cơ sở đánh giá sự dịch chuyển cơ cấu trong nội bộ ngành cơ khí. Chỉ
tiêu này được tính bằng biểu thức:
Ti = x100 (%)
Trong đó: Ti là tỷ trọng ngành i trong ngành cơ khí; y i là giá trị sản xuất của ngành i;
YCK là giá trị sản xuất của ngành cơ khí.
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

1.2.3.3.

13

Tiêu chí đánh giá hiệu quả của ngành công nghiệp cơ khí
a. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm

Khả năng cạnh tranh của sản phẩm là yếu tố quan trọng quyết định đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm có thể hiểu là
sự vượt trội so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường về chất lượng và giá cả với
điều kiện các sản phẩm tham gia cạnh tranh đều đáp ứng được các yêu cầu của người
tiêu dùng. Sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao hơn là những sản phẩm mang lại giá
trị sử dụng cao hơn trên một đơn vị giá cả.
Đối với sản phẩm ngành cơ khí, khả năng cạnh tranh của sản phẩm được đánh
giá thông qua giá, tiêu chuẩn kỹ thuật và trình độ công nghệ của sản phẩm. Để đánh
giá chất lượng sản phẩm cơ khí, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng tiêu
chuẩn chất lượng quốc tế. Tiêu chuẩn không những làm thước đo chất lượng sản phẩm
mà còn là yếu tố thúc đẩy sự phát triển sản xuất, hiện đại hoá các ngành công nghiệp
cơ khí, chế tạo thiết bị. “Tiêu chuẩn hoá” (TCH) là tập hợp các hoạt động về nghiên
cứu xây dựng tiêu chuẩn, phổ biến áp dụng tiêu chuẩn trong sản xuất và các tiêu chuẩn
về kỹ thuật, môi trường và quản lý kinh tế, kỹ thuật. TCH là tiền đề không thể thiếu
được cho sản xuất hàng loạt lớn nhằm tạo ra sản phẩm có giá thành rẻ và chất lượng
cạnh tranh. Nhiều tổ chức TCH quốc gia, các tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế như ISO,
IEC, ITU đã đưa vào tiêu chuẩn các thành tựu mới nhất về khoa học - công nghệ. Tiêu
chuẩn sản phẩm với yêu cầu chất lượng cao đã thúc đẩy sự đổi mới công nghệ sản
xuất.
b. Đóng góp của ngành công nghiệp cơ khí vào tăng trưởng kinh tế

Tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của ngành cơ khí là tỷ lệ giữa giá trị
gia tăng ngành cơ khí so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Chỉ tiêu này phản ánh tỷ

trọng đóng góp của ngành cơ khí vào GDP, qua đó thể hiện vị trí, vai trò của ngành cơ
khí đối với tăng trưởng kinh tế. Phương pháp tính:
sCK =
Trong đó: sCK là tỷ trọng đóng góp của ngành công trong tổng sản phẩm quốc
nội; yCK là giá trị gia tăng ngành công nghiệp cơ khí; GDP là tổng sản phẩm quốc nội.
c. Đóng góp của ngành công nghiệp cơ khí vào kim ngạch xuất khẩu

SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

14

Giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp cơ khí là tổng giá trị hàng hóa ngành
cơ khí của một quốc gia đưa ra nước ngoài, làm giảm nguồn của cải vật chất của đất
nước đó. Giá trị xuất khẩu hàng hóa cơ khí được tính theo giá FOB (Free on Board)
hoặc tương đương, là giá giao hàng tính tại biên giới quốc gia xuất khẩu, được tính cho
một thời kỳ nhất định và theo một loại tiền thống nhất là đô la Mỹ.
Đây là chỉ tiêu phản ánh lượng ngoại tệ mà đất nước thu được từ hàng hóa cơ
khí xuất khẩu do nền kinh tế tạo ra trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này được sử
dụng để đánh giá sức cạnh tranh của nền sản xuất cơ khí trong một quốc gia với các
quốc gia khác, khả năng tiếp cận, thâm nhập thị trường hàng hóa thế giới có vai trò
quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của mỗi quốc gia. Tuy nhiên để xem xét trình độ
phát triển còn cần quan tâm đến cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng như giá trị và các sản
phẩm nhập khẩu của ngành cơ khí. Vì vậy, có thể xét đến các chỉ tiêu như:
-


Giá trị xuất khẩu ngành cơ khí/ giá trị sản xuất ngành cơ khí
Giá trị xuất khẩu ngành cơ khí/ giá trị xuất khẩu ngành công nghiệp
Giá trị xuất khẩu ngành cơ khí/ kim ngạch xuất khẩu
Giá trị nhập khẩu ngành cơ khí/ giá trị nhập khẩu ngành công nghiệp
Giá trị nhập khẩu ngành cơ khí / kim ngạch nhập khẩu

d. Năng suất lao động của ngành cơ khí

Năng suất lao động ngành cơ khí là chỉ tiêu phản ánh hiệu suất làm việc của lao
động trong ngành, tổng hợp kết quả các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất hàng
hóa và dịch vụ tính cho một người lao động. Chỉ tiêu này không chỉ biểu hiện kết quả
sản xuất mà còn là động lực để cải thiện đời sống và tăng thu nhập cho người lao động.
Hơn thế, đây còn là chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành cơ khí với các
ngành khác trong nền kinh tế. Chỉ tiêu này được tính bằng biểu thức:
NSLĐ =
Trong đó: NSLĐ là năng suất lao động của ngành cơ khí; Y CK là giá trị sản xuất
ngành cơ khí; LCK là số lao động làm việc trong ngành cơ khí bình quân.
e. Tỷ lệ nội địa hóa

Tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm ngành cơ khí là tỷ lệ sử dụng các nguyên vật
liệu và phụ tùng công nghiệp cơ khí sản xuất trong nước so với nhập khẩu. Tỷ lệ nội
địa hóa càng tăng thì sẽ giúp tạo việc làm cho lao động trong nước, giảm phụ thuộc vào
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

15


nước ngoài và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Tuy nhiên nâng cao tỷ lệ nội địa
hóa chưa chắc sẽ giảm giá thành và đảm bảo chất lượng của sản phẩm. Chỉ tiêu này
được tính như sau:
Tỷ lệ

=

nội địa hóa
f.

Khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước của ngành công nghiệp cơ khí

Khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước của ngành cơ khí là khả năng sản xuất
sản phẩm cơ khí trong nước so với tổng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Chỉ tiêu này
phản ánh năng lực sản xuất trong nước cũng như trình độ phát triển của ngành. và
được tính bằng biểu thức:
Khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước = Giá trị sản xuất CNCK trong nước / Tổng giá
trị ngành cơ khí (gồm giá trị sản xuất trong nước + giá trị nhập khẩu)
g. Đóng góp vào giải quyết việc làm

Khả năng giải quyết việc làm của ngành cơ khí là số việc làm mà ngành cơ khí
tạo ra cho lực lượng lao động trong nền kinh tế. Chỉ tiêu này phản ánh sự đóng góp vào
việc giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao thu nhập cho người lao động của ngành cơ khí và
được tính thông qua số lượng lao động đang làm việc trong ngành cơ khí.
1.3.

Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành công nghiệp cơ khí

1.3.1. Nhân tố nguồn lực

1.3.1.1.

Yếu tố vốn

Vốn là một yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng
trưởng của ngành CNCK. Vốn là toàn bộ tư liệu vật chất được tích lũy lại của ngành cơ
khí, bao gồm: nhà xưởng, thiết bị, máy móc và các trang bị được sử dụng như những
yếu tố đầu vào trong sản xuất. Tùy theo mức độ vốn mà người lao động được sử dụng
những máy móc, thiết bị nhiều hay ít (tỷ lệ vốn trên lao động) và tạo ra sản lượng cao
hay thấp. Đây là nhân tố không thể thiếu nếu muốn mở rộng và phát triển bất cứ ngành
công nghiệp nào, nhất là đối với ngành CNCK. Việc gia tăng vốn sản xuất có vai trò
quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ và nâng
cao khả năng tự động hóa của ngành cơ khí. Tuy nhiên nguồn lực đầu vào ngành cơ khí
đòi hoi sự đầu tư với giá trị lớn, thời gian đầu tư dài, độ rủi ro trong quá trình đầu tư
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

16

cao, bất lợi hơn so với đầu tư vào sản xuất nhiều ngành công nghiệp khác. Do vậy, việc
cân đối nguồn lực đầu tư, chính sách thu hút, huy động vốn đầu tư vào ngành cơ khí là
hết sức cần thiết đối với sự tăng trưởng và phát triển bền vững của ngành.
1.3.1.2.

Yếu tố nhân lực


Nhân lực ở đây không chỉ bao gồm khía cạnh vật chất là số lượng lao động mà
còn nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao động là vốn nhân lực. Đó là các lao
động có kỹ năng sản xuất, vận hành máy móc, thiết bị phức tạp, có trình độ chuyên
môn cao, khả năng sáng tạo,…Yếu tố này có tác động tích cực và mạnh mẽ đến sự phát
triển của ngành cơ khí. Theo quan điểm từ phía doanh nghiệp, nguồn nhân lực có vai
trò quan trọng hơn nhiều so với máy móc thiết bị. Hầu hết các yếu tố khác như máy
móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất đều có thể mua hoặc vay mượn
được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy
móc, nguyên vật liệu, công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy hiệu quả tối đa nếu được
vận hành bởi đội ngũ lao động có trình độ, chuyên môn, sức khoe và kỷ luật tốt. Những
kỹ sư quản lý dây chuyền sản xuất, phải là người có khả năng quản lý và cải tiến toàn
bộ quy trình sản xuất của một nhà máy chứ không phải chỉ có một kỹ năng cụ thể,
riêng biệt. Những kỹ sư khuôn mẫu giàu kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn cao, là
những người có thể thiết kế, sản xuất và điều chỉnh những sản phẩm khuôn mẫu đạt
đến độ chính xác hoàn hảo và có thể nhận thấy sự khác biệt đến từng chi tiết, từng
milimet đối với sản phẩm. Như vậy, việc đảm bảo đủ về số lượng kỹ sư, công nhân
cùng với trình độ chuyên môn, tay nghề cao, khả năng vận hành máy móc hiện đại sẽ
giúp ngành cơ khí nhanh chóng phát triển, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển,
đang trong quá trình công nghiệp hóa sẽ có thể bắt kịp với các nước có nền công
nghiệp cơ khí phát triển và sớm trở thành nước công nghiệp. Trên thế giới, không ít
quốc gia đã có các chính sách phát triển nguồn nhân lực trong nước kết hợp với thu hút
nhân lực chất lượng cao từ các nước khác. Tiêu biểu như tại Mỹ, để phát triển nguồn
nhân lực cho ngành công nghiệp, nước này đã tập trung xây dựng môi trường làm việc
sáng tạo, khuyến khích phát triển và quan tâm, coi trọng bồi dưỡng, thu hút nhân tài.
1.3.1.3.

Trình độ công nghệ

Trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, công nghệ kỹ thuật ngày càng trở
thành nhân tố có tác động mạnh mẽ đến sự tăng trưởng của ngành cơ khí. Theo giáo

trình Kinh tế phát triển – xuất bản năm 2012, yếu tố công nghệ kỹ thuật cần được hiểu
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

17

đầy đủ theo hai dạng: thứ nhất, đó là những thành tựu kiến thức , tức là nắm bắt kiến
thức khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm về cải tiến sản phẩm,
quy trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật; thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả
nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản
xuất. Các yếu tố kỹ thuật công nghệ thường biểu hiện qua các phương pháp sản xuất
mới, kỹ thuật mới, vật liệu mới, thiết bị, dây chuyền, công nghệ sản xuất, các bí quyết,
phát minh…
Khi công nghệ phát triển, các doanh nghiệp có điều kiện ứng dụng các thành tựu
của công nghệ để tạo ra sản phẩm chất lượng cao hơn nhằm phát triển sản xuất, nâng
cao năng lực cạnh tranh. Đối với ngành CNCK, việc áp dụng các tiến bộ, thành tựu
khoa học công nghệ có ảnh hưởng tích cực, nâng cao trình độ sản xuất, chất lượng sản
phẩm và năng suất lao động không chỉ cho riêng ngành cơ khí mà còn cho cả các
ngành , lĩnh vực khác trong nền kinh tế nhờ việc tạo ra các các chi tiết, phụ tùng có tính
chính xác, các máy móc, thiết bị sản xuất hiện đại. Quá trình áp dụng tiến bộ khoa học
công nghệ sẽ giúp cho các doanh nghiệp trong ngành cơ khí nâng cao năng lực sản
xuất, tiết kiệm được thời gian, chi phí sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm,
tăng tỷ lệ nội địa hóa, có đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của nước ngoài.
Ngược lại, nếu trình độ khoa học kỹ thuật của ngành cơ khí chỉ ở mức thấp, lạc hậu thì
sẽ làm giảm năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm cơ khí, khiến
ngành cơ khí gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển.

1.3.2. Cơ chế chính sách của nhà nước.

Dù trong thời kỳ nào, giai đoạn nào cũng không thể phủ nhận vai trò của nhà
nước đối với nền kinh tế nói chung và ngành công nghiệp cơ khí nói riêng. Một nền
chính trị ổn định cùng với sự đồng bộ, nhất quán về quan điểm, chính sách luôn hấp
dẫn các nhà đầu tư. Cơ chế chính sách là yếu tố tạo tiền đề, dẫn dắt ngành công nghiệp
cơ khí phát triển. Các chính sách miễn giảm thuế thu nhập, giảm thuế mua sắm thiết bị,
máy móc, hỗ trợ tài chính, kỹ thuật, nguồn nhân lực có tác động khuyến khích các
doanh nghiệp cơ khí phát triển. Đây là một trong những nhân tố quan trọng, có tác
động rất lớn đến quyết định của các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài vào
ngành công nghiệp cơ khí. Các chính sách định hướng về ngành mũi nhọn, trọng điểm,
ngành có lợi thế cùng chính sách bảo hộ có điều kiện và có thời hạn của Nhà nước đối

SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

18

với các sản phẩm cơ khí theo từng giai đoạn sẽ tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh
tranh, đạt được tăng trưởng và phát triển bền vững của ngành CNCK.
Tuy nhiên, nếu các chính sách của Nhà nước đưa ra không phù hợp với thực tiễn
của ngành, nhu cầu của doanh nghiệp, điều kiện kinh tế trong từng giai đoạn phát triển
và xu thế của thế giới thì đây sẽ là yếu tố cản trở, kìm hãm sự phát triển của ngành cơ
khí.
1.3.3. Dung lượng và tiềm năng thị trường


Thị trường là nơi gặp gỡ của tổng cung và tổng cầu. Nó gắn liền với quá trình
sản xuất và lưu thông, ở đâu có sản xuất thì ở đó có thị trường. Để tham gia vào thị
trường, ngành cơ khí cần phải có một lượng đơn hàng đủ lớn, đảm bảo duy trì hoạt
động sản xuất kinh doanh; do đó, dung lượng thị trường lớn đóng vai trò quan trọng
đối với ngành cơ khí và cũng là cơ sở cho quyết định gia nhập ngành của các nhà đầu
tư. Dung lượng thị trường có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của ngành. Khi
dung lượng thị trường còn nho, việc áp dụng chính sách khuyến khích ưu đãi trực tiếp
cho các doanh nghiệp ngành cơ khí khó thực hiện được. Trong trường hợp dung lượng
thị trường trong nước hạn hẹp nhưng lại tìm kiếm được thị trường xuất khẩu thì công
nghiệp cơ khí vẫn có thể phát triển được. Doanh nghiệp trong ngành cơ khí cũng như
trong các ngành khác đều chịu sự chi phối của thị trường hay thị trường đã tác động và
có ảnh hưởng quyết định tới mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp. Thị trường càng mở rộng và phát triển thì lượng hàng tiêu thụ được càng nhiều
và khả năng phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Bởi thế, còn thị trường thì còn sản xuất kinh doanh, thị trường bị thu hẹp hay mất đi thì
sản xuất sẽ bị đình trệ, doanh nghiệp gặp khó khăn thậm chí có nguy cơ phá sản. Do
vậy, thị trường là một yếu tố động lực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của ngành
cơ khí.
1.4.

Kinh nghiệm phát triển ngành công nghiệp cơ khí của một số nước

1.4.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Là một trong những nước phát triển trên thế giới, Hàn Quốc được xem như là
một kỳ tích trong tăng trưởng và phát triển kinh tế: chỉ trong khoảng 30 năm (từ giữa
những năm 1960 đến giữa những năm 1990) từ một nước nghèo Hàn Quốc đã vươn lên
trở thành một nước công nghiệp hóa(CNH); Hàn Quốc đã gia nhập tổ chức hợp tác và
SV: Ngô Thu Trang


Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

19

phát triển kinh tế (OECD) từ năm 1996; được công nhận rộng rãi dưới danh hiệu “Kỳ
tích sông Hàn”. Đặc biệt, ngành công nghiệp cơ khí Hàn Quốc đã phát triển với tốc độ
đáng kinh ngạc và là một trong số các quốc gia hàng đầu thế giới về cơ khí đáng để
tham khảo, học tập.
Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều nét tương đồng về kinh tế, văn hóa, xã hội.
Đây là điều kiện để Việt Nam có thể học hoi kinh nghiệm và áp dụng vào phát triển
ngành cơ khí. Về kinh tế, trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay gần giống
với Hàn Quốc cuối những năm 1970 đầu những năm 1980 (giai đoạn Hàn Quốc thực
hiện công nghiệp hóa) là đều ở mức thấp: thu nhập bình quân đầu người (GDP/người)
ở mức trung bình thấp; tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP cao (16-22%); sản xuất
nông nghiệp manh mún, nho lẻ; thiếu sự gắn kết giữa khoa học công nghệ với sản xuất.
Về văn hóa – xã hội, lịch sử, con người Việt Nam và Hàn Quốc đều cần cù, chịu khó;
tỷ lệ dân cư biết đọc, biết viết cao và có tinh thần hiếu học; đều có thời kỳ là thuộc địa
của thực dân đế quốc, là những nước được coi là nghèo nàn, lạc hậu và bị tàn phá bởi
chiến tranh. Về thể chế chính trị, cả Việt Nam (hiện nay) và Hàn Quốc (thời kỳ bắt đầu
CNH) đều là những nền kinh tế chuyển đổi.
Sự phát triển của ngành CNCK Hàn Quốc có được là nhờ lộ trình thực hiện phù
hợp cùng với các chính sách, định hướng phát triển hợp lý theo từng thời kỳ.
Đầu năm 1953, Chính phủ Hàn Quốc quyết định giảm bớt vai trò của mình đối
với ngành cơ khí. Chính phủ vẫn giữ chức năng vạch kế hoạch nhưng chỉ mang tính
gợi ý, khuyến khích. Nhà nước thực hiện chương trình tự do hóa để hình thành cơ cấu
trong ngành cơ khí, thị trường sẽ quyết định bộ phận nào đang và sẽ được thịnh vượng.
Chính nhờ điều này mà các doanh nghiệp cơ khí đã có sự chủ động trong việc sản xuất

sản phẩm cơ khí, tích cực liên kết với nhau để học hoi, trao đổi thông tin, đầu tư vào
hoạt động R&D nhằm đáp ứng tốt nhu cầu thị trường.
Năm 1960, Chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành đổi mới chính sách thị trường, từ
chỗ phát triển cơ khí dựa vào thị trường nội địa chuyển sang lấy xuất khẩu làm động
lực cho phát triển ngành cơ khí. Hàn Quốc bắt đầu xúc tiến xuất khẩu sản phẩm cơ khí
bằng hàng loạt luật và quy định có liên quan, đồng thời xây dựng các chương trình phát
triển hướng tới xuất khẩu cho các doanh nghiệp cơ khí đặc biệt là doanh nghiệp vừa và
nho (DNVVN). Ngoài ra, Chính phủ còn thực hiện chính sách tạo vốn cho nền kinh tế
thông qua việc thành lập Quỹ đầu tư toàn quốc để đáp ứng nhu cầu rất lớn về vốn và lãi
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

20

suất thấp cho doanh nghiệp cơ khí. Để nhanh chóng tổ chức được các doanh nghiệp cơ
khí mới trong điều kiện tư bản tư nhân vẫn còn non trẻ so với nhiệm vụ phát triển xuất
khẩu sản phẩm cơ khí, Nhà nước đã trực tiếp đầu tư xây dựng các đơn vị mới độc lập
hoặc liên doanh với các mức vốn khác nhau: 100% vốn, trên 50% vốn và dưới 50%
vốn.
Đầu năm 1970, Hàn Quốc tập trung vào chính sách đào tạo nguồn nhân lực. Đây
là một trong những phương tiện giúp Hàn Quốc rút ngắn khoảng cách với các cường
quốc cơ khí như: Mỹ, Đức, Nhật Bản. Chính phủ Hàn Quốc đã cử một số lượng lớn kỹ
sư và cán bộ ra nước ngoài để làm chủ các kỹ năng sản xuất theo cách học việc đào tạo
tại chỗ nhằm giúp nhà nước xây dựng chính sách công nghệ, giúp công nghiệp cơ khí
bắt kịp thông tin về công nghệ thế giới. Từ đó, nhập khẩu, khai thác và nâng cao khả
năng sử dụng các công nghệ này; đồng thời tập trung sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm

có dung lượng vốn lớn và công nghệ cao.
Nhờ những chính sách đúng đắn mà ngành cơ khí Hàn Quốc đã đạt được những
thành tựu vô cùng lớn: Hàn Quốc là quốc gia đóng tàu lớn nhất thế giới (chiếm 40%
đơn đặt hàng đóng tàu của cả thế giới); hàng điện tử của Hàn Quốc đứng thứ tư thế
giới; Hàn Quốc là nhà sản xuất ô tô lớn với trên ba triệu xe hàng năm. Kể từ năm đầu
tiên xuất khẩu xe 1976, ngành công nghiệp cơ khí ô tô của nước này đã phát triển với
tốc độ kinh ngạc và vươn lên thứ sáu thế giới.
1.4.2. Kinh nghiệm của Singapore

Mặc dù xuất phát điểm không hề thuận lợi nhưng chỉ hơn 20 năm sau, nền kinh
tế Singapore đã nhanh chóng phục hồi và phát triển, đưa Singapore từ một nước thuộc
thế giới thứ ba trở thành một trong bốn “con rồng” châu Á. Sự phát triển vượt bậc của
Singapore trong thời kì này không thể không kể đến sự đóng góp to lớn của ngành
công nghiệp cơ khí trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa đất nước. Những kinh
nghiệm của Singapore trong phát triển CNCK là bài học hữu ích để Việt Nam học hoi,
áp dụng nhằm phát triển ngành cơ khí bởi Việt nam và Singapore có nhiều nét tương
đồng.
Thứ nhất, cả hai quốc gia đều phải chịu một quãng thời gian đô hộ tương đối dài
của các nước thực dân. Ở Việt Nam, thực dân Pháp xâm lược sau đó là phát xít Nhật
chiếm đóng, rồi đến đế quốc Mỹ, và cho đến tận năm 1975 Việt Nam mới hoàn toàn
độc lập. Còn ở Singapore, thực dân Anh rồi đến phát xít Nhật lần lượt lên nắm chính
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

21


quyền cai trị nước này và tới năm 1959 mới được giải phóng. Sau khi giành được độc
lập, cả hai quốc gia đều đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đất nước nghèo nàn,
lạc hậu.
Thứ hai, Việt Nam và Singapore gần như có chung một hình thái chính trị đó là
đất nước do một Đảng lãnh đạo. Việt Nam kể từ khi giải phóng năm 1975 vẫn kiên
định với chế độ một đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và
xã hội Việt Nam. Đối với Singapore, mặc dù tồn tại chế độ đa đảng nhưng từ ngày đầu
sau khi độc lập, Đảng Nhân dân Hành động đã nắm toàn bộ chính quyền với ba đời thủ
tướng liên tiếp.
Thứ ba, cả hai nước đều nằm trong khu vực Đông Nam Á, do đó sẽ có những
chính sách tương đồng trong việc phát triển chiến lược ngoại thương trong khu vực.
Chiến dịch chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Singapore trong quá trình công
nghiệp hóa có thể chia làm hai thời kỳ lớn:
 Thời kỳ 1966 – 1980: Đây là thời kỳ có tốc độ tăng trưởng cao. Cùng với đó, sự phát

triển mạnh mẽ của ngành gia công lắp ráp với đặc trưng là sử dụng nhiều lao động đã
giải quyết được “bài toán thất nghiệp”. Các ngành phát triển nhất trong giai đoạn này
là: đồ điện, điện tử, bán dẫn, lọc dầu và sản xuất giàn khoan, sửa chữa, đóng tàu, lắp
ráp ô tô và các thiết bị khác cho ngành giao thông vận tải, sản xuất các mặt hàng cho
ngành xây dựng.
 Thời kỳ 1981 đến nay: Đây là thời kỳ tập trung phát triển các ngành có vai trò quyết
định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa. Đó là các ngành công nghiệp kỹ
thuật cao, sử dụng lao động có trình độ và được đào tạo chuyên sâu như: cơ khí chế tạo
máy, luyện kim, chế tạo thiết bị chính xác cho ngành hàng không – vũ trụ, máy điện tử,
thiết bị tự động hóa.
Sự phát triển vượt bậc trong ngành công nghiệp cơ khí Singapore qua hai thời
kỳ này phần lớn nhờ vào những chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp hóa cơ bản
sau:
Thứ nhất là vai trò điều tiết của Chính phủ. Khi tách khoi Malaysia, cả nước
Singapore chỉ có tất cả 8 xí nghiệp công nghiệp thuộc quy mô lớn và trung bình. Mặc

dù vậy, với thị trường trong nước chưa đến 2 triệu dân thì chỉ cần số cơ sở đó thôi cũng
đã trở nên chật hẹp cho sự phát triển. Xuất phát từ tình hình thế giới và điều kiện trong
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

22

nước lúc đó, Chính phủ Singapore chuyển hướng sang chiến lược Công nghiệp hóa
hướng về xuất khẩu thay cho nền sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu trước đó.
Chính phủ Singapore đề ra mục tiêu cho quá trình Công nghiệp hóa là phát triển công
nghiệp cơ khí, tăng việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tự do hóa thương mại, tạo
môi trường chính trị xã hội ổn định. Có thể nói đây là chìa khóa mở ra sự phát triển của
Singapore. Để thực hiện chiến lược này, Chính phủ Singapore đã tạo ra những chiếc
cầu nối liền sản xuất của mình với các trung tâm công nghiệp lớn, tạo ra khả năng đầu
tư và xây dựng các dự án quy mô lớn cho sự phát triển công nghiệp. Đặc biệt, việc mở
cửa, gắn nền kinh tế Singapore với nền kinh tế thế thế giới đã tạo điều kiện cho ngành
công nghiệp cơ khí phát triển vì được cung cấp các yếu tố cần thiết nhất là vốn và kỹ
thuật. Trong chính sách điều tiết phát triển ngành nghề của giai đoạn đầu công nghiệp
hóa, Chính phủ Singapore chủ trương ưu tiên phát triển các ngành sản xuất hàng xuất
khẩu trong việc vay vốn và giảm thuế.
Thứ hai là Chính sách tài chính tiền tệ. Chính phủ Singapore đã rất thành công
trong việc đề ra các chính sách để hình thành và thúc đẩy hoạt động khá hiệu quả một
thị trường tài chính tiền tệ. Chính phủ Singapore chủ trương mở rộng các hoạt động tài
chính – ngân hàng làm đòn bẩy thực hiện các mục tiêu kinh tế cơ bản mà họ theo đuổi
đặc biệt là việc tạo ra nguồn vốn dồi dào cung cấp cho ngành công nghiệp cơ khí nói
riêng và quá trình công nghiệp hóa của Singapore nói chung. Không những vậy,

Singapore còn trở thành một trong những nguồn cung cấp vốn cho cả khu vực Đông Á
và Đông Nam Á.
Thứ ba là chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khác với nhiều nước,
khi tiến hành Công nghiệp hóa, Chính phủ Singapore đã ban hành chính sách mới, tạo
môi trường hấp dẫn kích thích các nhà đầu tư nước ngoài bo vốn vào đầu tư. Họ sử
dụng chủ yếu các đòn bẩy kinh tế để điều chỉnh đầu tư các mục tiêu và cơ cấu kinh tế
cần đạt được. Singapore không những thu hút mà còn sử dụng hiệu quả loại hình đầu
tư này. Đây là một trong những phương tiện chính để đưa Singapore lên trình độ của
một nước công nghiệp.
Thứ tư là đào tạo nhân lực và đổi mới công nghệ. Đào tạo nhân lực được coi là
phương tiện đầu tư, cũng là phương tiện phát triển công nghiệp quan trọng. Singapore
luôn coi trọng, đánh giá cao lao động được đào tạo và có kỹ năng. Singapore dựa trên
dự báo chi tiết về nhu cầu lực lượng lao động để đưa ra chương trình đào tạo thích hợp.
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

23

Để khuyến khích đổi mới kỹ thuật công nghệ, Singapore ưu đãi thuế đối với các hoạt
động nghiên cứu - triển khai (R&D).
1.4.3. Bài học kinh nghiệm về phát triển ngành công nghiệp cơ khí ở Việt Nam

Từ kinh nghiệm phát triển ngành CNCK của Hàn Quốc và Singapore, Việt Nam
có thể học hoi để phát triển ngành cơ khí trên một số khía cạnh sau:
(1) Vai trò của Nhà nước: Nhà nước cần can thiệp vào việc hoạch định và tổ chức


thực thi chính sách đặc biệt là chính sách thương mại, chính sách khoa học công nghệ
và giáo dục…; đồng thời đảm bảo các nguyên tắc: tính thống nhất về chỉ đạo, tính nhất
quán về quan điểm chính sách, tính nghiêm minh trong tổ chức thực hiện. Ngoài ra,
Nhà nước cần có chính sách bảo hộ thích hợp đối với những sản phẩm cơ khí được
định hướng là trọng điểm và phát triển mạnh trong tương lai.
(2) Chính sách hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp cơ khí đặc biệt là DNVVN. Ngành
cơ khí là một ngành đòi hoi lượng vốn đầu tư lớn, thời gian đầu tư dài với độ rủi ro
cao. Vì thế thiếu hụt vốn không chỉ là vấn đề của riêng DNVVN mà còn của cả các
doanh nghiệp lớn. Vì vậy, cần phải có một Quỹ vốn dành cho ngành cơ khí với lãi suất
thấp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, đồng thời có chính sách ưu
tiên cho DNVVN.
(3) Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Trong điều kiện đất nước còn khó khăn,
để phát triển một ngành đòi hoi nhiều vốn, trình độ công nghệ cao như CNCK thì thu
hút đầu tư nước ngoài là một giải pháp cần được thực hiện. Tuy nhiên cần lựa chọn nhà
đầu tư có uy tín để tiếp thu, học hoi và chuyển giao công nghệ.
(4) Chính sách thị trường: Hàn quốc và Singapore đều tập trung vào chính sách sản
xuất sản phẩm cơ khí để xuất khẩu bởi thị trường trong nước bị hạn chế. Tuy nhiên,
Việt Nam là một nước có quy mô dân số lớn, tiềm năng thị trường cho ngành cơ khí
vẫn còn nhiều; do đó, Việt Nam cần kết hợp cả chính sách hướng nội và hướng ngoại
(trong đó hướng ngoại theo lợi thế cạnh tranh về nguồn lực) để phát triển ngành cơ khí.
(5) Đào tạo nguồn nhân lực và đổi mới công nghệ. Trình độ lao động là phương
tiện quan trọng hàng đầu để giúp ngành cơ khí Việt Nam phát triển và đuổi kịp các
nước có nền cơ khí hiện đại, phát triển trên thế giới. Nước ta có thể đưa cán bộ, kỹ sư
sang các quốc gia như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc… để học tập trực tiếp công nghệ, kỹ
thuật sản xuất hoặc mời các chuyên gia về ngành cơ khí sang Việt Nam để đào tạo cho
đội ngũ lao động. Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể nâng cao trình độ công nghệ thông
qua nhập khẩu công nghệ nguồn, chuyển giao công nghệ…
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B



Chuyên đề tốt nghiệp

24

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CƠ KHÍ
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005 – 2014
2.1.

Tổng quan về quá trình phát triển của ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam

2.1.1. Giai đoạn 1960 – 1975

Năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã chỉ ra ngành cơ khí chế tạo là
ngành công nghiệp then chốt. Trong giai đoạn này, thực hiện chủ trương của Đảng,
Nhà nước ta đã ưu tiên phát triển các cơ sở sản xuất cơ khí ở miền Bắc từ cấp Trung
ương đến cấp huyện. Ngoài Nhà máy cơ khí Hà Nội ở cấp Trung ương, thì từ 1960 –
1964, ở cấp địa phương cũng đã xuất hiện thêm nhiều cơ sở sửa chữa độc lập và phân
xưởng cơ khí như: Sửa chữa điện trung tâm Đông Anh, Cơ khí trung tâm Cẩm Phả
(Liên Xô), Cơ khí Gang thép Thái Nguyên, Cơ khí phân đạm (Trung Quốc). Mặc dù
nhiệm vụ của các cơ sở này là sửa chữa, làm phụ tùng nhưng do quy mô khá lớn, trang
thiết bị phong phú và có nhiều máy lớn nên được coi là có tiềm lực chế tạo máy móc
và thiết bị của miền Bắc. Bộ Công nghiệp cũng đã gây dựng được các nhà máy: chế tạo
bơm Hải Dương, máy làm đất theo sau máy kéo, động cơ diezen cỡ nho…Thành phố
Hà Nội và Hải Phòng tổ chức các cơ sở sản xuất: máy rèn dập, máy tiện tốc độ thấp,
máy gia công gỗ, đóng và sửa chữa ca nô… Các bộ ngành khác cũng đều xây dựng cơ
khí để sản xuất một số trang bị chuyên ngành cho nhu cầu của mình như: tàu kéo, tàu
công trình, máy xây dựng cỡ nho, bơm nước và công trình thủy lợi, dụng cụ y tế,…Số
lượng các nhà máy cơ khí nhờ nước ngoài giúp đã được xây dựng cộng với các nhà

máy do trong nước tự tổ chức thuộc loại có danh tiếng vào khoảng 30 – 40 đơn vị.
Giai đoạn 1964 – 1975, ngành cơ khí được nhận định là ngành có thể tiếp tục
phát triển trong chiến tranh phá hoại, tập trung phục vụ sản xuất nông nghiệp và đảm
bảo giao thông, kết hợp nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, đồng thời chuẩn bị cho sự phát triển
sau chiến tranh. Giai đoạn này, do xuất phát từ yêu cầu phải trang bị cho lao động nông
nghiệp 3-4 nông cụ và trang bị cho 2 vạn điểm cơ khí nho (điểm cơ khí nho gồm các
máy tuốt lúa, máy xay xát, nghiền thức ăn gia súc, máy bơm và đầu máy diezen) nên
việc sản xuất, tiêu thụ nông cụ và máy cơ khí nho chủ yếu giao cho từng tỉnh thực hiện.
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


Chuyên đề tốt nghiệp

25

Trình độ công nghệ của các cơ sở cơ khí từ cấp trung ương đến cấp huyện không có sự
khác biệt nhiều, đều được trang bị máy công cụ vạn năng tương tự nhau.
Với mô hình trên thì ngành cơ khí đã phát huy tốt vai trò của mình, phục vụ đắc
lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước.
2.1.2. Giai đoạn 1975 – 1994

Từ sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng đến những năm đầu của công cuộc
đổi mới, ngành cơ khí có mục tiêu phát triển thật lớn lao nhưng thực tế thực hiện được
lại rất thấp.
Đất nước thống nhất, ngành cơ khí có thêm lực lượng cơ khí ở phía Nam, chủ
yếu tập trung ở thành phố Hồ chí Minh, đáng chú ý là Hải quân công xưởng (Ba Son),
Lục quân công xưởng, Nhà máy Caric cùng hai cơ sở lắp ráp động cơ diezen và máy
cày cỡ nho. Ở miền Bắc, mô hình của ngành cơ khí trong giai đoạn trước, mặc dù đã

thành công trong thời kỳ chiến tranh nhưng khi chuyển sang thời bình nó đã bộc lộc sự
hạn chế, không phù hợp. Mô hình đó đã làm trầm trọng thêm tính manh mún, phân tán
của ngành cơ khí, cơ khí tỉnh gặp khó khăn trong định hướng phát triển, sản xuất cầm
chừng và sa sút dần. Đặc biệt là từ khi xóa bo cơ chế bao cấp, ngành cơ khí không còn
tên trong danh mục đầu tư của nhà nước, khó khăn càng chồng chất khó khăn. Sản
phẩm lạc hậu, chất lượng thấp khó tiêu thụ, sản xuất bị thu hẹp, đội ngũ cán bộ kỹ thuật
và công nhân gioi mong dần. Đỉnh điểm của sự sa sút là vào những năm 1988-1989,
trong đó khó khăn nhất là sản xuất máy công cụ, sản lượng giảm tới hơn một nửa. Đây
là thời kỳ ngành cơ khí gặp khủng hoảng nhất và gần như bị lãng quên.
2.1.3. Giai đoạn 1995 – nay

Đây là giai đoạn phục hồi và phát triển của ngành cơ khí. Từ năm 1995, các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) bắt đầu xuất hiện trong lĩnh vực lắp ráp
ô tô, xe máy và sau đó tiếp tục phát triển thêm nhiều cơ sở sản xuất phụ tùng xe máy –
ô tô, xe đạp, dây điện, dây cáp, kỹ thuật điện, kết cấu kim loại và hàng phi tiêu chuẩn
cỡ lớn, bơm nước, sửa chữa tàu biển, khuôn mẫu chính xác…Lực lượng cơ khí FDI đã
góp phần làm phong phú sản phẩm cơ khí đồng thời cũng giúp cho doanh nghiệp trong
nước thay đổi nhận thức về tiềm năng cụ thể của thị trường, cách tiếp cận và chiếm
lĩnh thị trường. Doanh nghiệp trong nước đã tìm được con đường đi của mình, bắt đầu
đổi mới và đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng cho phù hợp với yêu cầu ngày
SV: Ngô Thu Trang

Lớp: Kinh tế phát triển 53B


×