Tải bản đầy đủ (.doc) (179 trang)

Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu tại CHDCND lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.66 KB, 179 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất nhập khẩu là một ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân,
đảm nhận chức năng lưu thông hàng hóa dịch vụ giữa trong và ngoài nước, là
một bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Hoạt động này cũng cần phải được
quản lý theo một cơ chế nhất định, mang tính đặc thù. Đó là cơ chế quản lý
xuất nhập khẩu.
Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu có thể được hiểu là các phương thức mà
qua đó, Nhà nước tác động có định hướng theo những điều kiện nhất định mà
các đối tượng (chủ thể và khách thể) tham gia hoạt động xuất nhập khẩu
(XNK) nhằm đảm bảo cho sự tự vận động của hoạt động XNK hướng đến các
mục tiêu kinh tế - xã hội đã định của Nhà nước.
Ngày nay sản xuất đã được quốc tế hóa. Không một quốc gia nào có thể
tồn tại và phát triển kinh tế mà lại không tham gia vào phân công lao động
quốc tế và trao đổi hàng hóa với bên ngoài. Đồng thời, ngày nay XNK không
chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán với bên ngoài, mà thực chất là cùng
với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác tham gia vào phân công lao động quốc
tế. Do vậy, cần coi XNK không chỉ là một nhân tố bổ sung cho kinh tế trong
nước mà cần coi sự phát triển kinh tế trong nước phải thích nghi với lựa chọn
phân công lao động quốc tế.
Thời gian qua, Nhà nước CHDCND Lào đã tăng cường quản lý đối với
hoạt động XNK, song trong bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay,
quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK còn biểu hiện nhiều vấn đề bất cập:
- Hệ thống pháp luật về XNK chưa được xây dựng đồng bộ và tương
thích với luất pháp quốc tế.

1


- Nhà nước Lào chưa sử dụng đồng bộ, linh hoạt các công cụ, biện pháp
kinh tế để điều tiết hoạt động XNK như: công cụ lãi suất, tỷ giá hối đoái, giá


cả, tín dụng, thuế VAT, thuế quan và các biện pháp phi thuế... nên hiệu lực và
hiệu quả quản lý chưa cao.
- Công tác hoạch định chiến lược, chính sách còn chưa đánh giá dúng
khả năng trong nước, tính áp đặt chủ quan còn khá lớn.
- Năng lực về đội ngũ cán bộ còn hạn chế, còn thiếu về số lượng và yếu
về chất lượng. Nhìn chung, chưa đáp ứng với yêu cầu của hội nhập kinh tế
quốc tế.
Vì vậy, việc hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
XNK trong thời gian tới là một yêu cầu cấp thiết. Xuất phát từ lý do đó, tác
gia đã chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK tại nước
CHDCND Lào” làm luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa và góp phần bổ sung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
liên quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về hoạt động
XNK thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động XNK trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tất cả những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK ở nước CHDCND Lào.
- Phạm vi nghiên cứu: hoạt động quản lý nhà nước đối với XNK gồm rất
nhiều vấn đề, tuy nhiên trong khuôn khổ của luận án, chỉ tập trung nghiên cứu

2


một số vấn đề liên quan đến các chính sách quản lý và công cụ quản lý của
Nhà nước đối với hoạt động XNK.

+ Về không gian: luận án nghiên cứu hoạt động quản lý XNK trên toàn
lãnh thổ Lào.
+ Về thời gian: các giải pháp đề xuất trong luận án có ý nghĩa trong giai
đoạn từ nay đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp sau đây:
4.1. Về phân tích dữ liệu
Thống kê mô tả
Phương pháp này liên quan đến việc thu thập số liệu, tóm tắt, trình bày,
tính toán các đặc trưng khác nhau để phản ánh một cách tổng quát đối tượng
nghiên cứu là quản lý nhà nước với hoạt động xuất nhập khẩu. Phương pháp
này được sử dụng cụ thể qua lập đồ thị, bảng thống kê, các chỉ tiêu là số tuyệt
đối và số tương đối, số bình quân ...
Dãy số thời gian
Luận án dùng dãy số thời gian để nghiên cứu sự biến động của các tham
số với các chỉ tiêu: Mức độ bình quân theo thời gian, lượng tăng giảm tuyệt
đối, tốc độ tăng, tốc độ phát triển. Sự biến động của các tham số chịu sự tác
động của nhiều nhân tố.
Phương pháp so sánh
Luận án sử dụng phương pháp này để so sánh các chỉ tiêu về kết quả
hoạt động xuất nhập khẩu và cách thức quản lý hoạt động xuất nhập khẩu của
Lào với chính bản thân và các nước khác như Việt Nam. Trên cơ sở so sánh
đó để thấy được những khác biệt trên cả khía cạnh thành công và yếu kém
nhằm rút ra những kiến nghị giải pháp cho hoàn thiện quản lý nhà nước lĩnh
vực này.

3


Phương pháp diễn giải

Phương pháp này sử dụng những thông tin và dữ liệu về hoạt động XNK
tại nước CHDCND Lào để thể hiện những diễn biến, thay đổi và điều chỉnh
từ các biện pháp quản lý của Nhà nước Lào.
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp này được thực hiện để khái quát các kết quả phân tích, diễn
giải để có được những kết luận cô đọng nhất về những thành công và khiếm
khuyết trong quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK tại nước CHDCND
Lào.
Tuy nhiên các phương pháp này không sử dụng riêng biệt hay tách rời
nhau mà các phương pháp này sẽ được sử dụng đồng thời và kết hợp vo7o1
nhau nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu.
4.2. Về số liệu
Luận án sử dụng chủ yếu là số liệu thứ cấp như số liệu thống kê của Niên
giám thống kê CHDCND Lào, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Quỹ tiền tệ thế
giới IMF và Ngân Hàng thể giới – WB.
Do số liệu từ nhiều nguồn như vậy nên các số liệu này đã được đối chiếu
cẩn thận, có trao đổi, thảo luận với các chuyên gia, người làm công tác thống
kê của Việt Nam và trường Đại học Kinh tế, ĐHĐN trước khi được đưa vào
phân tích.
5. Những đóng góp mới của luận án
Cho đến nay, chưa có đề tài luận án nào nghiên cứu về quản lý nhà nước
đối với hoạt động XNK của nước CHDCNDLào trong quá trình đổi mới và
gia nhập WTO. Vì vậy, đây sẽ là đóng góp mới của tác giả nhằm phát triển và
hoàn thiện lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK trong điều
kiện hội nhập kinh tế bao gồm:

4


- Khái quát hóa những mặt tích cực và hạn chế của một số lý thuyết và

mô hình quản lý thương mại trên thế giới; đề xuất chuyển đổi phương pháp
củ, xây dựng mô hình chiến lược quản lý XNK mới; đồng thời lượng hóa các
công cụ chính sách quản lý XNK.
- Làm rõ mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển XNK và quản lý nhà nước
đối với hoạt động XNK của Lào, nêu bật những bất cập, nguyên nhân hạn chế
hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK trong tiến trình “mở cửa”
đất nước.
- Phân tích các quan điểm, phương hướng và cơ sở khoa học của hệ
thống các công cụ chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK trong
điều kiện toàn cầu hóa và tăng cường hội nhập kinh tế.
6. Kết cấu của luận án
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên đây, ngoài phần mở đầu, kết luận,
phụ lục và các bảng biểu, luận án được bố cục như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt
động XNK
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK tại
nước CHDCND Lào trong thời gian qua.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động
XNK tại nước CHDCND Lào trong thời gian tới.
7. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Nghiên cứu về QLNN với XNK của các nền kinh tế có nhiều. Nhưng
thường các nghiên cứu có thể theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Có những
nghiên cứu bắt đầu từ tầm quan trọng của xuất nhập khẩu với nền kinh tế rồi
đề xuất cần quản lý và điều tiết như thế nào.
Tầm quan trọng của XNK với nền kinh tế đã được đề cập trong nhiều
nghiên cứu kinh tế. Trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ là nòng

5



cốt của hoạt động thương mại quốc tế. Nó đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử và
đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển chung của kinh tế thế giới. Cơ sở
cho sự phát triển của xuất nhập khẩu là lý thuyết lợi thế tuyệt đối và lợi thế
tương đối (Ricardo D. (1821)). Cho dù sau này có nhiều lý thuyết khác như
năng lực cạnh tranh, chuỗi giá trị,…nhưng suy cho cùng đều phát triển từ các
lý thuyết ban đầu này. Theo các lý thuyết này mỗi quốc gia có thể lựa chọn
sản xuất những hàng hóa dịch vụ mà mình có lợi thế tương đối hay ít bất lợi
thế nhất trong giỏ hàng hóa dịch vụ của mình để trao đổi mậu dịch. Việc trao
đổi hàng hóa dịch vụ giữa các nước dựa trên lợi thế tương đối hay năng lực
cạnh tranh cao hơn … sẽ giúp cho các nền kinh tế phân bổ khai thác sử dụng
nguồn lực hợp lý, hiệu quả hơn thúc đẩy kinh tế phát triển (Mankiw (2000)).
Như vậy hoạt động xuất nhập khẩu như công cụ giúp cho các nền kinh tế
phân bổ, sử dụng nguồn lực của mình có tiết kiệm và hiệu quả hơn thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu với phát triển còn thể hiện ở nhiều
khía cạnh khác. Trước hết hãy xem xét vai trò của nó với với tăng cường năng
lực sản xuất của nền kinh tế. Thông qua nhập khẩu sẽ tạo ra khả năng nhập
khẩu những máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại những thứ chưa có khả
năng sản xuất ở các nước chưa sản xuất được. Hay từ hoạt động xuất khẩu
làm mở rộng khả năng nhập khẩu, tạo ra nguồn tư liệu sản xuất để nhanh
chóng tích lũy vốn sản xuất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Nguyển Thị Ngọc
Phùng (2005)).
Từ hoạt động xuất khẩu sẽ đã tạo điều kiện cho doanh nhân trong nước tiếp
cận với những thị trường mới, tận dụng lợi thế kinh tế theo quy mô, lợi thế tài
nguyên thiên nhiên của quốc gia, thúc đẩy chuyên môn hóa. Khi công nghệ
sản xuất trong nước còn thâm dụng tài nguyên, lao động, thì buôn bán quốc tế
sẽ cho phép quốc gia giải quyết được tình trạng dư thừa nông sản trong nước.

6



Do đó, xuất khẩu sản phẩm dựa vào lợi thế của quốc gia là con đường tạo ra
thu nhập ngoại tệ để tạo ra khả năng nhập khẩu (Bùi Xuân Lưu và nhóm tác
giả (2007)).
Bằng chứng thực tế cho thấy mở cửa nhiều hơn và tăng trưởng nhanh
hơn của hàng xuất khẩu thâm dụng lao động gắn liền với giảm nghèo. Như
vậy có mối quan hệ mạnh giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Khi thu
nhập bình quân tăng lên, phân phối thu nhập tương đối ít thay đổi: Thu nhập
của những người rất nghèo cũng có xu hướng tăng, đôi khi nhanh hơn bình
quân, đôi khi chậm hơn, nhưng xu hướng chung vẫn là thu nhập của người
nghèo tăng lên cùng với tăng trưởng kinh tế. Một số nước có tăng trưởng
nhanh nhất trong hàng xuất khẩu thâm dụng lao động cũng đạt được giảm
nghèo nhanh nhất như Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước khác. Hoạt
động xuất nhập khẩu còn tác động đến đói nghèo thông qua tác động lên giá
tiêu dùng. Khi các hàng rào nhập khẩu được tháo gỡ, giá của nhiều hàng hoá
mà các gia đình nghèo mua giảm xuống, làm tăng thu nhập thực của họ. Một
cách tác động trực tiếp của chiến lược hướng ngoại giúp giảm nghèo thông
qua gia tăng việc làm cho lao động. Xuất nhập khẩu các hàng hoá thâm dụng
lao động, bao gồm hàng công nghiệp chế tạo và nông sản, có tiềm năng tạo ra
cơ hội việc làm đáng kể cho người lao động kỹ năng thấp, chính xác là những
người sống dưới mức hay cận kề mức đói nghèo. Đây là những gì đã xảy ra
tại nhiều nền kinh tế hướng ngoại: Cơ hội việc làm mới giúp tăng thu nhập
của người nghèo và giảm số người sống trong cảnh nghèo. Nhưng mở cửa
cũng có thể dẫn đến mất việc làm trong một số khu vực, như khi các doanh
nghiệp nội địa được bảo hộ hay hàng nông sản không thể cạnh tranh hữu hiệu
với hàng nhập khẩu, và người lao động phổ thông trong những khu vực này bị
mất việc. Như chúng ta đã nhấn mạnh, trong khi Xuất nhập khẩu mang lại lợi
ích cho tổng thể nền kinh tế, thì ngoại thương không nhất thiết làm lợi cho tất

7



cả mọi người. Tác động chung phụ thuộc nhiều vào khả năng lưu chuyển lao
động: Để việc mở cửa giúp làm giảm nghèo, người lao động phổ thông cần có
khả năng di chuyển từ những khu vực được bảo hộ (đang thu hẹp dần) sang
những khu vực hàng hoá ngoại thương (đang mở rộng dần). Các nghiên cứu
quốc gia đang phát triển cho thấy rằng cải cách Xuất nhập khẩu gắn liền với
gia tăng đói nghèo chỉ khi các bộ luật lao động không linh hoạt làm cản trở sự
lưu chuyển người lao động từ hoạt động này sang hoạt động khác (Bùi Quang
Bình (2010)).
Cho dù nhấn mạnh tầm quan trọng của XNK với sự phát triển nền kinh tế
nhưng các nghiên cứu này cũng đã có những những điểm nhấn về quản lý
xuất nhập khẩu mà sẽ được đi sâu ở phần dười của tổng quan.
Quản lý nhà nước với hoạt động xuất nhập khẩu:
Trong nghiên cứu của Đỗ Hoàng Toàn và Mai Văn Bưu (2005) đã khẳng
định một trong những chức năng quan trọng của nhà nước là quản lý nhà
nước về kinh tế. Nghĩa là nhà nước phải quản lý tất cả các hoạt động trong
nền kinh tế và tất nhiên đây là quản lý vĩ mô chứ không phải là quản lý thay
doanh nghiệp. Trong các hoạt động kinh tế này bao gồm cả kinh tế quốc tế mà
cốt lõi là hoạt động xuất nhập khẩu. Quản lý nhà nước về kinh tế theo các tác
giả này là Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự quản lý của Nhà nước đối với
toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực Nhà nước thông qua cơ chế
quản lý kinh tế nhằm đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Quản lý nhà nước có thể tiếp cận theo nội dung quản lý hay tiến
trình quản lý hay phương thức tác động. Để thực hiện quản lý nhà nước sẽ sử
dụng nhiều công cụ khác nhau như pháp luật, kinh tế, giáo dục … trong đó
các công cụ kinh tế có vai trò quan trọng nhất. Từ đây có thể rút ra quan niệm
về quản lý nhà nước với XNK, sự cần thiết phải quản lý và các biện pháp và
công cụ để quản lý nhà nước lĩnh vực này.


8


Nghiên cứu của Nguyển Thị Ngọc Phùng (2005)) đã trình bày 3 chiến
lược ngoại thương của các nước thường áp dụng trong quá trình phát triển.
Cốt lõi của các chiến lược này là các biện pháp và chính sách quản lý của nhà
nước với xuất nhập khẩu tùy theo mỗi chiến lược. Các chính sách và biện
pháp này đều hướng tới mục tiêu kích thích xuất khẩu và kiểm soát xuất khẩu
đồng thời hỗ trợ sản xuất trong nước. Chẳng hạn chiến lược ngoại thương
theo hướng sản xuất thay thế nhập khẩu tập trung vào các chính sách thuế và
hạn ngạch như công cụ chính để bảo đảm cho sản xuất trong nước tạo ra
những hàng hóa đáng ra phải xuất khẩu. Còn chiến lược Đẩy mạnh sản xuất
để xuất khẩu thì tập trung nổ lực để đẩy mạnh sản xuất đáp ứng nhu cầu thị
trường thế giới bằng nội lực. Trong chiến lược này chính sách tỷ giá hối đoái
được coi là quan trọng nhất. Từ nghiên cứu này có thể rút ra những cơ sở cho
việc hình thành khung lý thuyết để đánh giá công tác quản lý nhà nước với
XNK trên các phương diện: (i) định hướng chiến lược mà quản lý nhà nước
với XNK hướng tới; (ii) tiêu chuẩn để xem xét chiến lược XNK của quốc gia;
(iii) các công cụ sử dụng trong quản lý hoạt động này. Tuy nhiên nghiên cứu
này cũng chưa chỉ ra điều kiện cụ thể áp dụng chiến lược cho các nước nhất là
những nước khó khăn như CHDCND Lào.
Nghiên cứu của Mankiw (2000) trình bày mô hình và khung phân tích
hoạt động của nền kinh tế nhỏ và mở cửa trong đó cán cân thương mại được
xem như biến số phản ánh trạng thài của nền kinh tế trong điều kiện này.
Điểm đặc biệt là mô hình này được xem xét trong dài hạn và ngắc hạn. Trong
dài hạn mô hình nền kinh tế mở gắn liền với thị trường ngoại hối. Từ mô hình
này tác giả đã trình bày những biến động của các cân thương mại hay hoạt
động XNK dưới tác động của các chính sách tài khóa trong nước và nước
ngoài, chính sách ngoại thương v,v…và đã chỉ ra sự hạn chế của nền kinh tế
khi áp dụng chính sách bảo hộ cao. Trong ngắn hạn tác giả xem xét thay đổi


9


của hoạt động XNK và tỷ giá hối đoái khi điều chỉnh chính sách tiền tệ và tài
khóa của nền kinh tế cũng như kết hợp giữa chúng. Từ nghiên cứu này có thể
rút ra những điểm hữu ích cho nghiên cứu về QLNN với hoạt động xuất nhập
khẩu trên các mặt sau: (i) Tiêu chuẩn để đánh giá một nền kinh tế mở; (ii) mô
hình lý thuyết về nền kinh tế mở; (iii) cách thức tác động của các chính sách
quản lý XNK như tài khóa, tiền tệ hay thương mại; (iv) mối quan hệ giữa tỷ
giá hối đoái, lãi suất và cán cân thương mại; (v) phương pháp đánh giá tác
động của các công cụ quản lý tới XNK. Tuy nhiên những ràng buộc hay các
giả định đơn giản hóa trong xây dựng mô hình sẽ phải được xem xét cụ thể
khi áp dụng vào quản lý XNK trong nền kinh tế.
Luận án tiến sỹ của Đoàn Hồng Lê (2008) - là một nghiên cứu trực tiếp
đi vào Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu tại nước
CHXHCN Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cớ sở tập
trung vào tình hình quản lý hoạt động xuất nhập khẩu trong điều kiện hội
nhập của Việt Nam, tác giả đã tiếp cận theo hướng thay đổi của cách thức
quản lý theo thời gian gắn với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tuy nhiên
quá trình này gắn chặt với quá trình đổi mới ở Việt Nam. Điềm này có thể
phát triển trong luận án đối với nước CHDCND Lào nhưng theo tiến trình đổi
mới của Lào. Luận án tiến sỹ của tác giả này đã bàn tới các nội dung và đặc
biệt là các công cụ được sử dụng trong quản lý nhà nước hoạt động XNK như
thuế xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái….Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp
định tính trên cơ sở phân tích thống kê mô tả, so sánh và đánh giá. Từ nghiêu
cứu này có thể rút ra những điểm hữu ích cho đề tài về quản lý với hoạt động
xuất nhập khẩu trên các mặt sau: (i) nội dung của quản lý nhà nước; (ii) các
công cụ để quản lý; (iii) phương pháp định tính trong phân tích tình hình
QLNN vớ XNK. Tuy nhiên đây là đề tài nghiên cứu trong QLNN với XNK

trong bối cảnh hội nhập của Việt Nam do đó nhấn mạnh khía cạnh này nhiều

10


hơn và khác với cách tiếp cận theo tiến trình đổi mới cơ chế quản lý ở đây.
Do vậy khi vận dụng sẽ cần xem xét kỹ những hạn chế này.
Từ những nghiên cứu trên có thể rút ra những điểm hữu ích phục vụ cho
nghiên cứu luận án tiến sỹ “Quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK tại
nước CHDCND Lào” như sau:
1.

Xác định rõ hơn tầm quan trọng của hoạt động XNK với nền

kinh tế và phải quản lý hoạt động này vì mục tiêu phát triển.
2.

Hình thành quan niệm QLNN với hoạt động XNK là các phương

thức mà qua đó, Nhà nước tác động có định hướng theo những điều kiện nhất
định mà các đối tượng (chủ thể và khách thể) tham gia hoạt động XNK nhằm
đảm bảo cho sự tự vận động của hoạt động XNK hướng đến các mục tiêu
kinh tế - xã hội đã định của Nhà nước.
3.

Quản lý nhà nước có thể tiếp cận theo nội dung quản lý do đó nội

dung quản trong đề tài này có thể trình bày theo hướng này;
4.


Hình thành được phương pháp luận nghiên cứu cách thức quản

lý trong nền kinh tế mở với mô hình đặc trưng nhỏ và mở cửa. Cốt lõi ở đây
chính là mối quan hệ giữa cán cân thương mại – biểu hiện rõ nhất trạng thái
hoạt động XNK và các biến số vĩ mô quan trọng khác như tỷ giá, lãi suất, lạm
phát và tăng trưởng GDP mà ở đó sẽ cho thấy tác động của các chính sách và
biện pháp quản lý của nhà nước tới hoạt động này.
5.

Từ đây cũng cung cấp cách tiếp cận để thu thập và xử lý số liệu

thống kê cho nghiên cứu.

11


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
1.1. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
1.1.1. Khái quát về hoạt động xuất nhập khẩu
Có nhiều khái niệm khác nhau về ngoại thươnghay XNK. Song xét về
đặc trưng thì XNK được định nghĩa là việc mua, bán hàng hóa và dịch vụ qua
biên giới quốc gia. Cách đinh nghĩa này được sử dụng nhiều nhất khi nhìn
vào các chức năng của XNK, tức vai trò của nó như chiếc cầu nối giữa cung,
cầu hàng hóa và dịch vụ của thị trường trong và ngoài nước về số lượng, chất
lượng và thời gian sản xuất. Trong nhiều trường hợp, trao đổi hàng hóa và
dịch vụ được đi kèm việc trao đổi các yếu tố sản xuất (ví dụ: lao động và
vốn), nhất là XNK trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế.[26]

Các nhà kinh tế học còn dùng định nghĩa XNK như là một công nghệ
khác để sản xuất hàng hóa và dịch vụ (thậm chí cả các yếu tố sản xuất). Như
vậy, XNK được hiểu như là một quá trình sản xuất gián tiếp.[26]
Trong hoạt động ngoại thương hay XNK: xuất khẩu là việc bán hàng hóa
và dịch vụ cho nước ngoài, và nhập khẩu là việc mua hàng hóa và dịch vụ của
nước ngoài. Mục tiêu chính của XNK là phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế
trong nước, không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân. Xuất khẩu là để
nhập khẩu; nhập khẩu là nguồn lợi chính từ ngoại thương hay XNK.[26]
Ngoài ra, ngoại thương hay XNK là một bộ phận quan trọng của kinh tế
đối ngoại, có liên quan và tác động mạnh tới sự tăng trưởng và phát triển của
nền kinh tế thông qua việc phát huy tính kinh tế nhờ quy mô và chuyên môn
hóa trong phân công lao động quốc tế dựa trên lợi thế so sánh của mỗi quốc
gia. XNK thường được nghiên cứu dưới 3 góc độ[37]:
1/. Đứng trên quan điểm và lợi ích toàn cầu, tìm ra những quy luật, xu
hướng và vấn đề mang tính chất chung của thế giới;

12


2/. Đứng trên lợi ích và quan điểm của mỗi quốc gia để xem xét hoạt
động mậu dịch của quốc gia đó với phần còn lại của thế giới;
3/. Đứng trên quan điểm và lợi ích của doanh nghiệp, xác định phương
án kinh doanh quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận của mình.
Theo nghĩa phổ biến, XNK là phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ hàng tiền giữa các quốc gia với nhau. Theo quan điểm của Hội nghị Liên hợp quốc
về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), XNK được hiểu theo nghĩa rất
rộng, bao gồm mọi hoạt động kinh doanh trên thị trường quốc tế từ thương
mại hữu hình (liên quan đến hàng hóa, gồm hàng sơ chế có hàm lượng công
nghệ thấp và hàng tinh chế có hàm lượng công nghệ cao), đến thương mại vô
hình (liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ như phát minh, sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, quyền tác giả, thương hiệu...) và thương mại dịch vụ (như tài

chính, ngân hàng, vận tải, bưu chính viễn thông, dụ lịch, y tế, giáo dục...)[37].
Nội dung của ngoại thương là các hoạt động XNK, trao đổi hàng hóa,
dịch vụ, khoa học kỹ thuật giữa nước này với nước khác, hoặc trong phạm vi
một quốc gia (với các cá nhân hay doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động
trên quốc gia đó). Trong điều kiện hiện nay, các khái niệm “trong nước”,
“ngoài nước” phải được quy ước rất chặt chẽ. Vì trong thực tiễn xuất hiện
những hình thức ngoại thương, như xuất khẩu tại chỗ - hàng hóa dịch vụ được
sản xuất trong nước và bán cho chủ thể nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ
quốc gia đó; xuất - nhập khẩu quá cảnh - hàng hóa dịch vụ được sản xuất ở
nước ngoài nhập vào trong nước để xuất khẩu đi nuốc thứ ba; các hoạt động
tạm nhập tái xuất, v.v..[37]
1.1.2. Khái niệm về quản lý nhà nước đối với hoạt dộng XNK
Quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân (hoặc vắn tắt là quản
lý nhà nước về kinh tế) là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà
nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực
kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu
phát triển kinh tếđất nước đã đặt ra, trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao
lưu quốc tế. Quản lý nhà nước về kinh tế là nội dung cốt lõi của quản lý các

13


hoạt động xã hội liên quan đến kinh tế nói chung và nó phải gắn chặt với các
hoạt động quản lý khác của xã hội. Quản lý nhà nước về kinh tế được thể hiện
thông qua các chức năng kinh tế và quản lý kinh tế của Nhà nước[24].
Thực tế đã chứng minh: việc khắc phục những nhược điểm, hạn chế
khuyết tật của cơ chế thị trường, để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế này
hoạt động có hiệu quả, không thể không có Nhà nướcvới tư cách là chủ thể
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Như vậy, Nhà nước thực hiện chức năng
quản lý kinh tế là nhu cầu khách quan, nội tại và nền kinh tế thị trường vận

động theo cơ chế thị trường; còn việc điều tiết, khống chế và định hướng các
hoạt động kinh tế của các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế theo phương
hướng và mục tiêu nào lại lệ thuộc vào bản chất của các hình thức nhà nước
và con đường phát triển mà nước đó lựa chọn[24].
Từ khái niệm đã nêu có thể rút những điểm cơ bản sau:
Thực chất của quản lý nhà nước về kinh tế là việc tổ chức và sử dụng có
hiệu quả nhất các nguồn lực trong và ngoài nước mà Nhà nước có khả nảng
tác động vì mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó, vấn đề nắm
bắt được con người, tổ chức và tạo động lực lớn nhất cho con người hoạt
động trong kinh tế là vấn đề có vai trò then chốt. Đúng như Trần Hưng Đạo
đã nói: "Kể ra dân không bao giờ hài lòng, sợ ta thì khinh địch, sợ địch thì
khinh ta. Bị dân khinh thì thua, dân sợ uy thì thắng [25].
Bản chất của quản lý nhà nước về kinh tế là đặc trưng thể chế chính trị
của đất nước; nó chỉ rõ Nhà nước là công cụ của giai cấp hoặc của lực lượng
chính trị, xã hội nào? Nó dựa vào ai và hướng vào ai để phục vụ? Đây là vấn
đề khác nhau cơ bản giữa quản lý nhà nước về kinh tế của các chế độ xã hội
khác nhau[25].
Trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, các hoạt động sản
xuất-kinh doanh, các hành vi giao dịch đều tiến hành thông qua thị trường và
tuân theo các quy luật của thị trường.Nhược điểm và khuyết tật của cơ chế thị
trường sẽ khó có thể khắc phục và sẽ đẩy môi trưòng chính trị, kinh tế, xã hội,
đối ngoại vào tình trạng rối loạn, khủng hoảng. Cơ chế thị trường rất cần có

14


môi trường ổn định và lành mạnh để hoạt động, song những nhược điểm và
khuyết tật của cơ chế này đã phát sinh những xu hướng phủ định chính những
điều kiện hoạt động của bản thân nó như: do chạy theo lợi nhuận cục bộ sẽ
dẫn đến sự phân bố và sử dụng các nguồn lực không hợp lý, vì lợi ích kinh tế

cá nhân, cục bộ mà chà đạp lên lợi ích chung, phá hoại môi sinh, gây ô nhiễm
môi trường. "Cánh kéo" phân hoá giàu nghèo ngày một lớn, bất công trong xã
hội ngày một tăng v.v... gây rối loạn nhiều mặt trong đời sống cộng đồng.
Trong những biểu hiện trên, biểu hiện có tác động sâu sắc vàtoàn diện đến
môi trường chung là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các thành phần kinh tế.
Cơ chế thị trường - "Bàn tay vô hình" - không thể khắc phục được mâu thuẫn
này, mà đòi hỏi phải có bàn tay Nhà nước. Chính từ nhu cầu này của thành
phần kinh tế nói chung và của cơ chế thị trường nói riêng mà mọi Nhà nước
đều có chức năng đảm bảo về mặt chính trị xã hội, bảo hiểm về mặt kinh tế
nhằm duy trì các quan hệ lợi ích của các giai cấp và tầng lớp xã hội trong
khuôn khổ của quan hệ sản xuất phát triển và pháp luật quy định. Chỉ có trên
cơ sở ấy mới có bầu không khí chính trị và môi trường kinh tế, xã hội ổn
định, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận động với cơ cấu và các quan hệ
kinh tế dựa trên trình độ phát triển của nền sản xuất đạt được của mỗi
nước[25].
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, giữ
vững trật tự, kỷ cương, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũnglà yêu cầu
luôn đòi hỏi đối với Nhà nước[24].
Nhà nước sử dụng tốt các công cụ quản lý kinh tế: 1) Pháp luật; 2) Kế
hoạch, Chương trình, Quy hoạch phát triển kinh tế; 3) Các chính sách kinh tế;
4) bộ máy hành chính và đội ngũ cán bộ công chức nhà nước; 5) Tài sản của
nhà nước; 6) Các công cụ chuyên chính khác: Quân đội, công an, các phương
tiện truyền thông, các tài sản văn hóa v.v.nhằm thực hiện tốt các chức năng
quản lý kinh tế vĩ mô[24].
Quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân (hoặc vắn tắt là quản lý
nhà nước về kinh tế) là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà

15



nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực
kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu
phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra, trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao
lưu quốc tế.[27]
Quản lý kinh tế là để chỉ phương thức mà qua đó Nhà nước tác động vào
nền kinh tế để định hướng nền kinh tế tự vận động nhằm tới các mục tiêu đã
định. Quản lý kinh tế là phương thức tác động của Nhà nước vào các quy luật
vận động của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế, vì vậy, quản lý kinh tế
cần thiết tự điều chỉnh không ngừng theo quy luật vận hành của các quy luật
kinh tế.[26]
Quản lý XNK có thể được hiểu là các phương thức mà qua đó, Nhà nước
tác động có định hướng theo những điều kiện nhất định mà các đối tượng
(chủ thể và khách thể) tham gia hoạt động XNK nhằm đảm bảo cho sự tự vận
động của hoạt động XNK hướng đến các mục tiêu kinh tế - xã hội đã định của
Nhà nước.[26]
Quản lý XNK được xây dựng trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy
luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Ví dụ, ở Việt Nam hiện nay Đảng
và Nhà nước chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng
XNCN có sự quản lý của Nhà nước. Do đó, quản lý XNK phải tuân thủ theo
các quy luật của kinh tế thị trường có sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
Việc xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện về hoạt động quản lý XNK vừa mang
tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Nó đòi hỏi vừa phải tuân theo các
quy luật kinh tế khách quan, vừa đòi hỏi tài năng, nghệ thuật nắm bắt đúng
các quy luật kinh tế đang hoạt động và tác động tích cực của các quy luật kinh
tế đó trong những điều kiện kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế cụ thể.[1]
Như vậy, quản lý XNK có thể và cần thay đổi cho phù hợp với quy luật
kinh tế khách quan, nghĩa là các công cụ, chính sách và nội dung của quản lý
XNK có thể thay đổi.[26]

16



1.1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK trong điều kiện hội
nhập
Quản lý nền kinh tế quốc dân và XNK nói riêng là một yêu cầu có tính
khách quan.
 Sự tác động của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở
phạm vi quốc gia cũng như quốc tế mang tính chất trực tiếp. Sự tác động đó
làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như kinh tế toàn cầu hoạt động
năng động, kích thích các nền kinh tế phát triển, hoạt động sản xuất kinh
doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, sự tác động đó cũng có nhiều mặt trái như: Do
chạy theo lợi nhuận nên xuất khẩu, nhập khẩu không tạo ra cơ cấu sản phẩm
tối ưu cho xã hội; không chú ý đến bải vệ môi trường, an ninh xã hội; cũng do
chạy theo lợi nhuận nên các nhà sản xuất kinh doanh làm bất cứ việc gì dù là
buôn gian, bán lận, đầu cơ tích trữ để kiếm được nhiều lợi lộc. Để bảo vệ lợi
ích giai cấp mà Nhà nước là người đại diện, Nhà nước cần phải can thiệp vào
thị trường để điều chỉnh, điều tiết nhằm hướng sự tác động của thị trường vào
phục vụ lợi ích của nhân dân[26].
 Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực sản xuât ngày càng
mang tính quốc tế hóa, trình độ xã hội hóa sản xuất ngày càng cao. Để cho
quá trình này diễn ra một cách chủ động, vừa tranh thủ được lợi ích do hội
nhập mang lại, vừa không làm tổn hại đến lợi ích dân tộc, tất yếu đòi hỏi phải
có sự quản lý tập trung của Nhà nước theo một cơ chế phù hợp, trong đó Nhà
nước với vai trò của một “nhạc trưởng”[26].
 Mỗi doanh nghiệp, mỗi nhà quản trị doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh XNK trong một khuôn khỏ hạn hẹp, hướng tới mục tiêu kinh tế cụ thể,
do đó, tầm nhìn xa trông rộng để định hướng cho sự phát triển và tránh mọi
rủi ro, hoặc do khả năng tự tạo lập những điều kiện, môi trương kinh doanh bị
hạn chế. Vì vậy, doanh nghiệp rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước để thực hiện
chiến lước kinh doanh của mình[26].

 Việc mua bán hàng hóa - dịch vụ trên thị trường thế giới liên quan đến
rất nhiều yếu tố: Kinh tế, chính trị, luật pháp. Để tránh được những bất lợi

17


trong kinh doanh, ổn định buôn bán lâu dài và hạn chế tác động xấu của các
cuộc khủng hoảng kinh tế... đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước.[26]
1.2. NHỮNG NỘI DUNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG XNK
1.2.1. Xác định mô hình quản lý XNK
Về mô hình quản lý Nhà nước về kinh tế đã được nói tới từ lâu. Ngay từ
thời A.Dam.Smith (1723-1790) đã xuất hiện mô hình quản lý nhà nước về
kinh tế mà theo đó Nhà nước đã có sự can thiệp nhất định vào hoạt động kinh
tế thông qua đánh thuế và hạn chế hay khuyến khích hoạt động ngoại thương.
Tuy rằng, nền kinh tế vẫn hoạt động theo sự dẫn dắt của “bàn tay vô hình”.
Sự quản lý Nhà nước chỉ đóng khung trong quản lý xã hội, quản lý hành
chính mà thôi.
Với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp
trở thành căn bện kinh niên không giả quyết nỗi. “Bàn tay vô hình” tỏ ra bất
lực trước thực tế đó. Với học thuyết kinh tế của J.M.Keynes (1883- 1946), mô
hình quản lý nhà nước về kinh tế mà theo đó sự can thiệp của Nhà nước vào
nền kinh tế ngày càng nhiều hơn và trở thành một trong những nhân tố không
thể thiếu của một nền kinh tế thị trường phát triển. Mô hình quản lý nền kinh
tế với sự can thiệp của Nhà nước vào thi trường đã trở thành một tất yếu trong
sự phát triển chung của khoa học kinh tế.
Mô hình quản lý nhà nước trực tiếp toàn diện nền kinh tế từ năm 20 của
thế kỷ 20 cho đến những năm 80 hay mô hình quản lý tập trung. Cuối thập kỷ
80, đầu thập kỷ 90, do những khiếm khuyết mà mô hình này đã có những
thay đổi đáng kể và chuyển thành mô hình quản lý nền kinh tế thi trường có

sự can thiệp của nhà nước. Thực chất đó là sự kết hợp giữa “Bàn tay vô hình”
và “ Bàn tay hữu hình” trong việc điều tiết nền kinh tế. Cho đến nay, dù bất
kỳ một nền kinh tế nào đều cần đến bàn tay của Nhà nước, tuy liều lượng của
“Bàn tay vô hình” và “Bàn tay hữu hình” có thể rất khác nhau.
Hoạt động XNK là hoạt động kinh tế trong nền kinh tế mở cửa, khi các
nền kinh tế tận dụng lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh…. Để tìm cách huy

18


động và phân bổ nguồn lực có hiệu quả nhất. Cơ chế huy động và phân bổ
này sẽ theo cơ chế vận hành của thị trường và thông qua sự hoạt động của
một loạt các thị trường như hàng hóa, vốn, lao động, công nghệ…trên thị
trường rộng lớn bao gồm nhiều nền kinh tế khác nhau. Hoạt động XNK thể
hiện rõ nhất trạng thái hoạt động của các thị trường này. Nhưng đó chỉ mới là
khía cạnh mô hình vận hành hoạt động xuất nhập khẩu theo cơ chế bàn tay vô
hình. Trong thực tế hiện nay mô hình quản lý hiện đại là mô hình kết hợp
giữa thị trường và sự điều tiết và can thiệp của nhà nước. Thực tế hiện nay
hầu như các nước đều lựa chọn và thực hiện mô hình quản lý XNK theo kiểu
hỗn hợp giữa cơ chế thị trường và sự can thiệp của nhà nước. Điểm khác biệt
giữa các nước chính là mức và liều lượng can thiệp của nhà nước.
Việc xác định mô hình quản lý XNK còn tùy thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế. Những nước
đang phát triển nói chung và CHDCND Lào nói riêng cũng cần có lựa chọn
cho mình một mô hình quản lý XNK phù hợp với mình và từng giai đoạn
khác nhau của bản thân.
1.2.2. Tổ chức hoạt động XNK
Là quá trình đưa chiến lược vào cuộc sống và đạt tới các mục tiêu đặt ra
trên cơ sở triển khai các phương án chiến lược đã lựa chọn với các công cụ đã
có. Quá trình này gồm 3 bước.

a. Bộ máy quản lý hoạt động XNK
Trong nội dung này cần phải có lựa chọn một cơ quan nhận nhiệm vụ
chính thức chủ trì thực thi và một số cơ quan khác tham gia. Do mỗi chiến
lược có liên quan tới nhiều ngành nhiều cấp. Khi thực hiện như vậy mới xác
định trách nhiệm cụ thể của mỗi cơ quan.
Cơ quan chủ trì thực hiện phải có các điều kiện:
(1) Đảm bảo về mặt chính trị và pháp luật;
(2) Có đủ nguồn lực;
(3) Bảo đảm về thông tin gián tiếp;
(4) Được quản lý và phân bổ ngân sách;

19


(5) Có cố vấn về kỹ thuật…
Trong nội dung này cần phải chú trọng công tác lựa chọn đào tạo bồi
dưỡng cán bộ thực thi chiến lược, đây có thể coi là khâu quyết định trong việc
thực thi thành công chiến lược. Cán bộ là những người trực tiếp tham gia
hoạt động triển khai chiến lược vào cuộc sống, thực thi các giải pháp chiến
lược. Họ là người nắm chắc nội dung chiến lược hiểu biết thực tế để triển khai
và điều chỉnh. Từ thực tế thực thi chiến lược họ sẽ khuyến nghị điều chính
chiến lược.
Nhân tố con người này có vai trò quyết định trong việc tổ chức các chiến
lược xuất nhập khẩu. Cho dù chiến lược có tốt đến mấy đi chăng nữa nhưng
tổ chức thực hiện không tốt thì chiến lược sẽ không đi vào cuộc sống, người
dân vẫn không có cơ hội để tham gia vào các lọai hình bảo hiểm và các chiến
lược trợ giúp. Do vậy, việc thiết lập hệ thống tổ chức quản lý với đội ngũ cán
bộ quản lý chuyên nghiệp để thực hiện các chiến lược của hệ thống xuất nhập
khẩu cần đáp ứng được yêu cầu theo hướng phải bao phủ được tất cả các đối
tượng có nhu cầu thực sự, cho dù đó là chiến lược bảo hiểm hay chínupsách

trợ giúp. Về nguyên tắc, có thể thiết lập được tổ chức độc lập cho từng hợp
phần nhưng cũng có thể sử dụng bộ máy chính quyền hiện có để thực hiện,
tùy điều kiện cụ thể của các quốc gia. Thể chế chiến lược mang tính phổ cập
thì chi phí quản lý ít và bộ máy tổ chức quản lý gọn nhẹ và ngược lại, thể chế
phức tạp thì chi phí quản lý tốn kém hơn.
Ngoài ra cải cách thủ tục hành chính khiến cho thủ tục đơn giản để khâu
ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể hóa chiến lược.
b. Tổ chức hoạt động XNK
Việc triển khai chiến lược có vai trò quyết định sự thành công của chiến
lược. Đây là nhiệm vụ mà bộ máy tổ chức thực hiện chiến lược phải hoàn
thành. Một bộ máy tốt thì phải tổ chức triển khai để đưa chiến lược vào cuộc
sống.
Muốn triển khai sâu rộng chiến lược trước thế cần khai thác tốt các kênh
truyền tài để triển khai chiến lược. Vì những thông tin về chiến lược như mục

20


tiêu chiến lược, đối tượng phạm vi chiến lược, những tiêu chuẩn điều kiện
quy định của chiến lược cũng như thời gian bắt đầu có hiệu lực và kết thúc …
cần phải truyền tài tới các đối tượng chiến lược hay diện bao phủ của chiến
lược. Do đó kênh truyển tải sẽ truyền dẫn thông tin tới nơi cần thiết. Có nhiều
kênh khác nhau cần phải sử dụng tùy theo điều kiện cũng như nguồn lực.
Các kênh này bao gồm:
(i)

Trú trọng khai thác kênh các phương tiện thông tin đại chúng để
tuyên truyền giúp cho mọi người hiểu biết chiến lược;

(ii)


Hệ thống Web trên Internet hay thư điện tử cũng cần chú ý khai
thác;

(iii)

Kênh tuyên truyền trực tiếp thông qua phổ biển chiến lược;

(iv)

Thông qua các đoàn thể để tuyên truyền chiến lược.

Chiến lược nói chung thường được triển khai thông qua các dự án, và các
dự án thường được triển khai để giải quyết khâu yếu nhất của chiến lược.
Chẳng hạn chiến lược đào tạo nghề cho lao động nông thôn thông qua dự án
đào tạo và chuyển giao kỹ thuật nuôi trồng, thủy sản... Chất lượng và hiệu quả
các dự án sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thành công của chiến lược do đó muốn
triển khai rộng và sâu chiến lược thì phải trú trọng và nâng cao hiệu quả các
dự án để thực hiện chiến lược.
Việc triển khai chiến lược liên quan đến nhiều cơ quan ban ngành do đó
cần phải hoàn thiện việc phối hợp giữa các cơ quan và các ngành trong triển
khai chiến lược cũng có ý nghĩa quan trọng.
c. Kiểm tra hoạt động XNK
Chiến lược sau khi triển khai thực hiện sẽ tác động tới đối tượng chiến
lược và làm thay đổi đạt tới mục tiêu đề ra. Tuy nhiên mức độ đạt được đến
đâu không phải như kỳ vọng của các nhà hoạch định chiến lược. Vì khi hoạch
định chiến lược dù đã dự kiến các kịch bản xảy ra nhưng không thể dự kiến
hết và do đó khi thực thi chiến lược trong thực tế nhiều tình huống với nhiều
nhân tố mới phát sinh chúng sẽ làm chệch mục tiêu. Việc kiểm tra và đánh giá
thực hiện chiến lược sẽ giúp các cơ quan quản lý biết rõ chiến lược đang được


21


triển khai như thế nào, kết quả đến đâu và khả năng sẽ thế nào từ đó có những
biện pháp để điều chỉnh kịp thời.
Kiểm tra và đánh giá thực thi chiến lược phải bắt đầu từ tổ chức và vận
hành tốt hệ thống thu thập thông tin về thực hiện chiến lược. Hệ thống này
bao gồm các kênh như báo cáo của cơ quan tổ chức thực thi chiến lược, thông
qua hoạt động kiểm tra của cán bộ tổ chức thực thi; thông qua hoạt động
thanh tra; và cơ quan giám sát. Nhưng quan trọng nhất là phải xác định cơ chế
phản hồi thông tin và xây dựng hệ thống tiếp nhận và xử lý thông tin.
Ngoài ra việc sử dụng nhiều hơn điều tra xã hội học ý kiến của nhiều
tầng lớp dân cư cũng rất hữu ích. Các tầng lớp dân cư trong đó có nhiều người
thuộc đối tượng tác động của chiến lược nên họ sẽ quan tâm tới việc thực thi
chiến lược. Những thông tin từ điều tra xã hội học với các đối tượng này sẽ
cho các nhà hoạch định và quản lý những thông tin hữu ịch để kiểm tra và
đánh giá thực thi chiến lược.
Tổ chức đánh giá việc thực thi chiến lược trên cơ sở đánh giá hiệu lực và
hiệu quả của chiến lược. Những điều chỉnh chiến lược hợp lý sẽ bảo đảm cho
thành công của chiến lược. Nhưng quan trọng nhất là việc phân tích chiến
lược nên giao cho một cơ quan nghiên cứu hay tư vấn chiến lược tiến hành
phân tích theo dạng đơn đặt hàng từ cơ quan chủ trì chiến lược. Như vậy sẽ
bảo đảm tính khách quan hơn cho các kết luận đánh giá và khuyến nghị sẽ có
giá trị hơn.
1.2.3. Các chính sách phục vụ XNK
Chính sách XNK là hệ thống các quan điểm, chuẩn mực, thế chế và
phương thức mà Nhà nước sử dụng, tác động vào các chủ thể XNK và thị
trường để điều chỉnh các hoạt động XNK nhằm đạt các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhất định.[21]

Chính sách XNK là một bộ phận cấu thành của chiến lược kinh tế đối
ngoại của quốc gia. Tùy theo yêu cầu đặc điểm phất triển đất nước trong từng
thời kỳ, mỗi quốc gia hình thành chính sách XNK theo mục tiêu riêng. Tuy
nhiên, nghiên cứu tiến trình phát triển kinh tế thế giới, có thể thất các nước đã

22


và đang thực hiện một số mô hình chiến lược XNK chung nhất, đó là: sản
xuất thay thế nhập khẩu, xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, công nghiệp hóa
hướng vào xuất khẩu hoặc chiến lược phát triển XNK hỗn hợp… Vì vậy, cần
phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách XNK phù hợp với đường lối
phát triển kinh tế - xã hội; điều kiện trong nước và quốc tế, năng lực sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp XNK; dự báo tình hình thị trương và các
yếu tố liện quan. Hệ thống chính sách này sẽ tác động lên toàn bộ các nguồn
lực, các mối quan hệ, giao dịch của các chủ thể tham gia hoạt động XNK để
làm cho các hoạt động này đi đúng hướng và hiệu quả. Đây chính là yêu cầu
cơ bản của quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK và phải được thể hiện
đầy đủ trong toàn bộ hoạt động ngoại thương cũng như trong từng nội dung
đàm phán hợp tác thương mại với các quốc gia và vùng lãnh thổ.[21]
a. Chính sách phát triển XK

 Chính sách chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
 Chính sách hình thành và phát triển các vùng sản xuất hàng xuất
khẩu, là việc phát triển các vùng, các khu vực để phát huy lợi thế phát triển,
tạo thêm thế mạnh theo cơ cấu kinh tế và gắn với nhu cầu trong và ngoài
nước[26].
 Chính sách phát triển các ngành hàng sản xuất và xuất khẩu, trong
toàn bộ nền kinh tế: cần chuyển dịch cơ cấu theo hướng ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Đồng thời, trong từng
ngành, việc xây dựng chiến lược phát triển ngành phải dựa trên sự phân tích

về nhu cầu và khuynh hướng tiêu dùng của thị trường thế giới để có sự
chuyển đổi cơ cấu sản xuất phù hợp, đảm bảo sản xuất ra những sản phẩm có
thể xuất khẩu và cạnh tranh được trên thị trường thế giới[26].
 Công nghiệp: Phát triển xuất khẩu những ngành công nghiệp chế biến
sử dụng nhiều lao động với công nghệ thấp và ngành chế tạo linh kiện, sử
dụng nhiều lao động bới công nghệ trung bình là những bước đi đầu tiên
trong quá trình phát triển xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo của các nước

23


đang phát triển. Mặt khác cần tạo sự đột phá trong công nghiệp chế biến.
Đồng thời phải tăng cường liên kết công nghiệp[26].

 Nông nghiệp: Tuy phát triển nông nghiệp chỉ tạo nên yếu tố quan
trọng đầu tiên là nguyên liệu và lương thực, chứ không thể làm giàu, nhưng
nếu không đầu tư cho nông, lâm nghiệp thì không thể khai thác được khả
năng tiềm tàng, lợi thế, không chuyển được lao động từ nông nghiệp sang các
ngành khác. Vì vậy, cần một mặt giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong
cơ cấu kinh tế, nhưng vẫn phải chú trọng đầu tư những phân ngành có thế
mạnh, tạo sản phẩm có lợi thế so sánh, có khả năng sản xuất[26].
Chuyển dịch cơ cấu ngành trước hết ưu tiên cho mục tiêu an ninh lương
thực quốc gia, tăng nguồn nông sản cho chế biến xuất khẩu. Vì vậy, cần thực
hiện những giải pháp sau:
 Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn
theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị
trường và điều kiện sinh thái của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề,
cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn[26].
 Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
 Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp nhất là

công nghệ sinh học với công nghệ thông tin; làm tốt công tác chuyển giao
giống mới, cải tiến kỹ thuật canh tác[26].
 Tiếp tục phát triển và hoàn thiện về cơ bản hệ thống thủy lợi ngăn
mặn, giữ ngọt, kiểm soát lũ, bảo đảm tưới, tiêu an toàn, chủ động cho sản xuất
nông nghiệp và đời sống nông dân. Với những khu vực hay bị thiên tai tàn
phá, cần điều chỉnh quy hoạch sản xuất và dân cư thích nghi với điều kiện
thiên nhiên. Nâng cao năng lực dự báo thời tiết và khả năng chủ động phòng
chống thiên tai, hạn chế thiệt hại[26].
 Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, phát triển làng
nghề và chuyển một phần doanh nghiệp giá công và chế biến nông sản về
nông thôn nhằm chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang ngành, nghề
khác[26].

24


Mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng cây trồng tiến tới cung cấp đủ
nguyên liệu cho các ngành chế biến trong nước và xuất khẩu với khối lượng
ngày càng lớn, đồng thời giảm tổn thất hao hụt, nâng cao chất lượng sản
phẩm. Nhập khẩu kỹ thuật chế biến và bảo quản tiên tiến[26].

 Dịch vụ: Ngày nay, các nước đều theo đuổi tăng trưởng dịch vụ vì vốn
quay vòng nhanh, năng suất lao động cao, lợi nhuận lớn. Cần chú trọng phát
triển các loại hình dịch vụ: thương mại, tài chính, ngân hàng, dịch vụ hàng
hải, hàng không, xây dựng, bảo hiểm, tư vấn... đáp ứng yêu cầu sản xuất và
đời sống phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thị trường hiện đại, góp
phần chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động[26].
 Chính sách chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, dựa vào các
căn cứ đã nêu, dự định trước mắt huy động mọi nguồn lực có thể có để đẩy
mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ. Đồng thời cần chủ động

gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng
cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, giảm
dần tỷ trọng hàng thô; mặt hàng mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu thị trường, chú
trọng việc gia tăng hoạt động dịch vụ xuất khẩu[26].
 Chính sách và phương hướng phát triển thị trường xuất khẩu
Tích cực, chủ động tranh thủ mở rộng thị trường, nhất là sau khi tham
gia WTO, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ với các đối tác, phòng ngừa
chấn động đột ngột; tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu trên tất cả
các thị trường đã có song song với việc đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị
trường mới; tăng cường tiếp cận các thị trường cung ứng công nghệ
nghuồn[26].
 Chính sách và biện pháp hỗ trợ xuất khẩu
 Các biện pháp để tạo nguồn hàng và cải biến cơ cấu xuất khẩu
 Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực: Hàng chủ lực là những
hàng hóa có điều kiện sản xuất ở trong nước với hiệu quả kinh tế cao hơn
những hàng hóa khác; có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định chiếm tỷ trọng
cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia[26].

25


×