Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

BÀI GIẢNG CHI TIẾT KINH tế CHÍNH TRỊ CHUYÊN đề KINH tế NÔNG THÔN TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.87 KB, 20 trang )

CHUYÊN ĐỀ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CƠ CẤU KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM
1. Mục đích, yêu cầu
- Mục đích: Giới thiệu cho người học nắm được những vấn đề cơ bản của
Mác Lê nin HCM và Đảng ta về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Cũng như
quan điểm của Đảng ta hiện nay về tất yếu, điều kiện, thực chất bỏ qua chế độ
TBCN lên CNXH cũng như đặc điểm nhiện vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ
hiện nay. Đồng thời thấy rõ quan điểm của Đảng ta về dử dụng phát triển các thành
phần kinh tế hiện nay.
- Yêu cầu: Tập trung nghiên cứu, lắng nghe vấn đề giảng viên đưa ra, xây
dựng bài và ghi chép những nội dung cơ bản…
2. Thời gian: 4 tiết
3. Vật chất đảm bảo, sách giáo khoa KTCT cho các đối tượng cao đẳng và
đại học không chuyên kinh tế của bộ giáo dục đào tạo ấn hành năm 2008 về trước.
Tham khảo thêm: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI; Kết luận hội Nghị
lần thứ 3 BCH TƯ Đảng Khóa XI, tài liệu học tập dùng cho cán bộ, đảng viên ở cơ
sở do Ban Tuyên giáo Trung ương Nxb CTQG – Sự thật năm 2011+ NQTW 3 và 4
Khóa XI.
4. Nội dung phương pháp
- Nội dung: gồm 2 phần lớn
- phương pháp: thuyết trình kết hợp nêu vấn đề và dạy học nhóm…
Đối người học: Nắm chắc vấn đề đặt ra, trao đổi thảo luận làm rõ vấn đề. Ghi
chép nội dung chủ yếu để làm cơ sở nghiên cứu học tập và vận dụng xem xét…
I. QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Thời gian: 2 tiết
Phương pháp: Nêu vấn đề kết hợp nhóm và thuyết trình
1. QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, P.ĂNGGHEN, V.I.LÊNIN, HỒ CHÍ MINH
VÀ ĐẢNG TA VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Thời gian: 60 phút


Phương pháp: thuyết trình với nêu vấn đề đàm thoại là chính
a. Những dự báo của C.Mác - Ph.Ănghen về phương thức sản xuất cộng sản
chủ nghĩa và sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
- Theo quan điểm Mác xã hội loài người đã và đ ang trải qua các hình thái
kinh tế xã hội từ thấp dến cao (CXNT-CHNL-PK-TBCN-CSCN).
- Đặc trưng kinh tế của PTSX CSCN (Mác dự báo)
Mác chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn cao và giai đoan thấp
+ Giai đoạn cao: ( có 6 đặc trưng)
Một là, lực lượng sản xuất của chủ nghĩa cộng sản phát triển ở trình độ cao, cao hơn
1


nhiều so với chủ nghĩa tư bản. Lực lượng sản xuất phát triển dựa trên cơ sở áp dụng những
thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại nhất, đó là một nền sản xuất với quy mô lớn và
được tiến hành phù hợp với yêu cầu của khoa học hiện đại.
Sự phát triển cao của lực lượng sản xuất là điều kiện vật chất để làm cho tất cả
mọi thành viên trong xã hội đều có cơ hội phát triển như nhau.
Hai là, chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột
người bị thủ tiêu. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội
dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất; chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội
trong đó quyền lực thuộc về người lao động, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu, quan hệ
giữa người với người là quan hệ hiệp tác của những người lao động.
C. Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng: không thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập
tức được, mà chỉ có thể thực hiện dần dần từng bước. Chỉ khi nào tạo lập được một
lực lượng sản xuất hiện đai, xã hội hoá cao độ, với năng xuất lao động rất cao thì
mới xoá bỏ được chế độ tư hữu.
Ba là, sản xuất nhằm thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội.
Mục đích của nền sản xuất xã hội dưới chủ nghĩa cộng sản là đảm bảo cho mọi
thành viên trong xã hội có đời sống vật chất và văn hoá ngày càng phong phú, bảo
đảm cho họ phát triển và vận dụng một cách tự do những năng khiếu về thể lực và

trí lực của cá nhân mình. Khi xã hội có trong tay mình toàn bộ những lực lượng sản
xã hội thì nền sản xuất không nhằm mục đích nào khác là thoả mãn mọi nhu cầu
ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội.
Bốn là, nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi
toàn xã hội, sản xuất hàng hoá bị loại trừ. Chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất
ra đời, nhà nước là người đại diện quyền lợi cho nhân dân lao động là chủ sở hữu,
người lao động làm chủ về tư liệu sản xuất. Trong xã hội, việc sản xuất được tiến
hành một cách có ý thức, có kế hoạch trên phạm vi toàn xã hội. Việc quản lý sản
xuất được tiến hành vì lợi ích chung, theo một kế hoạch chung với sự tham gia của
các thành viên trong xã hội.
Năm là, sự phân phối sản phẩm bình đẳng. Với sự phát triển cao của lực lượng
sản xuất, sản phẩm làm ra dồi dào và được tổ chức phân phối một cách khoa học
nhằm thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. Phân phối sản phẩm diễn
ra mội cách bình đẳng. Hình thức phân phối cụ thể như thế nào là tuỳ thuộc vào
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sáu là, xoá bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và
lao động chân tay, xoá bỏ giai cấp. Sự phát triển cao về kinh tế, văn hoá và xã hội
sẽ tạo cơ sở để thủ tiêu sự đối lập giữa thành thị với nông thôn, giữa lao động trí óc
với lao động chân tay. Như Ph.Ăngghen khẳng định: tình trạng xã hội phân chia
thành các giai cấp khác nhau, đối địch nhau không những sẽ trở nên thừa mà còn
không thể tương dung với chế độ xã hội mới nữa.
Những đặc trưng kinh tế - xã hội nêu trên, là những đặc trưng của xã hội
2


chủ nghĩa cộng sản đã phát triển trên cơ sở của chính nó chứ không phải của
một xã hội cộng sản vừa mới thoát thai trong lòng xã hội cũ.
+ Đặc trưng chủ yếu về kinh tế của thời kỳ quá độ lên XHCN:
(Mác gọi đây là giai đoạn thấp; có 5 đặc trưng)
Một là, kế thừa phát triển lực lượng sản xuất mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra để

nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất và lao động.
Hai là, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất tồn tại dưới hai hình thức chủ yếu là
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Ba là, còn sản xuất hàng hoá, còn giai cấp, còn nhà nước.
Bốn là, lao động vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ và còn có sự khác nhau về lao
động, do đó kết quả lao động cũng khác nhau.
Năm là, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
+ Những nhiệm vụ kinh tế - xã hội chủ yếu của thời kỳ quá độ
Để thực hiện những cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, C.Mác dự
báo các quá trình của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản: cải
biến cách mạng trong quan hệ sản xuất, trong lực lượng sản xuất, trong kinh tế và xã
hội…Tất cả đều nhằm phát triển lực lượng sản xuất làm điều kiện thoả mãn nhu cầu
vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết
để giải phóng con người.
Những nhiệm vụ kinh tế xã hội mà C.Mác nêu ra cần lưu ý 2 nhiệm vụ sau:
Một là, Tiến hành kiểm kê, kiểm toán trong nền sản xuất xã hội cần chặt chẽ hơn
trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Hai là, Đào tạo thế hệ người lao động hoàn toàn mới cho xã hội mới.
Dự báo về khả năng quá độ lên chủ nghĩa cộng sản bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
C.Mác và Ph.Ăngghen là người đầu tiên nêu lên khả năng những nước còn đang
ở giai đoạn phát triển tiền tư bản có thể chuyển thẳng lên hình thái cộng sản chủ
nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Các ông cho rằng, những nước lạc hậu bước vào con đường phát triển rút ngắn, có
thể chuyển thẳng lên hình thức cộng sản chủ nghĩa bỏ qua toàn bộ thời kỳ phát triển tư
bản chủ nghĩa, có thể không cần trải qua những đau khổ của chế độ xã hội đó, có thể rút
ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển của mình lên chủ nghĩa xã hội và có thể tránh
được phần lớn những đau khổ, những cuộc đấu tranh mà Tây Âu đã trải qua.
b. Quan điểm của V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
(Lê Nin kế thừa và phát triển LL của Mác chỉ rõ, đặc điểm kinh tế TKQĐ lên

CNXH? Nhiệm vụ kinh tế xã hội cơ bản? Nội dung chủ yếu của chính sách kinh tế
mới? Ý nghĩa của chính sách kinh tế mới?)
- Những nét phát triển mới của V.I. Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ (Tự
nghiên cứu tài liệu).
Quan điểm của V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội được hình thành vào những năm
3


90 của thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã chuyển sang chủ nghĩa
tư bản độc quyền.
Trong điều kiện lịch sử mới, V.I Lênin đã vận dụng và phát triển học thuyết Mác
về chủ nghĩa cộng sản và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản để chỉ đạo cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước nga năm 1917. Đặc biệt, V.I Lênin đã vận dụng
và phát triển lý luận ấy thành kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. V.I
Lênin đã có nhiều đóng góp vào việc phát triển chủ nghĩa Mác, trong đó phải lưu ý
những luận điểm mới sau đây: (4 luận điểm cần chú ý)
Một là, Lý luận về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trước tiên ở một số
nước, thậm chí ở một nước tư bản riêng lẻ.
Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản trước độc quyền, C.Mác và Ph.Ăngghen rút ra
kết luận: cách mạng vô sản không thể không xẩy ra ở riêng một nước tư bản chủ
nghĩa mà sẽ đồng loạt xảy ra trong tất cả các nước văn minh, ít nhất cũng phải cùng
xảy ra ở Anh, Pháp, Đức.
Tổng kết thực tiễn chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn mới, V.I Lênin đã xây dựng lý
luận về chủ nghĩa đế quốc, vạch ra sự phát triển của chủ tư bản trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa là cực kỳ không đều. Quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị
của chủ nghĩa đế quốc làm cho cách mạng vô sản phát triển không đều, tạo ra những
khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc. Giai cấp vô sản ở những
nước đó có thể chọc thủng mặt trận chủ nghĩa tư bản thế giới và khâu yếu nhất ấy
không nhất thiết là ở các nước tư bản tiên tiến.
Từ đó, V.I.Lênin rút ra kết luận về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trước

tiên ở một số nước hoặc ở một nước riêng lẻ và chủ nghĩa xã hội không thể thắng lợi
cùng một lúc trong tất cả các nước.
Hai là Lý luận về thời đại mới và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới:
V.I.Lênin phân tích về những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa là:
Sự phát triển đại công nghiệp, sự phát triển về quy mô và thế lực của tư bản tài
chính đã làm cho những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trở nên hết sức gay gắt.
Sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc đã tạo ra những tiền đề vật chất làm cơ sở hiện thực
cho sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Với sự bắt đầu của thời đại mới, mọi quốc gia phát triển hay kém phát triển về
kinh tế đều có khả năng khách quan vượt qua thời đại tư bản chủ nghĩa và bước vào
thời đại xã hội chủ nghĩa.
Ba là, Lý luận về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội:
V.I Lênin cho rằng, các nước đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua một
thời kỳ quá độ - “thời kỳ cơn đau đẻ kéo dài” vì các lý do chủ yếu sau:
Do đặc điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và
4


cách mạng vô sản quy định.
Do tính chất và mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn khác
với các cuộc cách mạng trước đó, nó là một cuộc cách mạng sâu sắc triệt để nhất
trong lịch sử.
Sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một quá trình lâu
dài, không thể ngay một lúc có thể hoàn thiện được. Để phát triển lực lượng sản
xuất, tăng năng xuất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất, xây dựng xã hội mới, cần phải có thời gian hay nói cách khác tất yếu
phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Bất cứ quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua thời kỳ quá độ, kể
cả các nước có nền kinh tế phát triển. Tất nhiên, đối với các nước có nền kinh tế
phát triển cao, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều thuận lợi hơn, có thể
diễn ra ngắn hơn so với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa có nền kinh tế lạc hậu.
Bốn là Lý luận về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ
nghĩa tư bản chưa phát triển:
Một là, giành lấy chính quyền làm điều kiện tiên quyết để xây dựng tiền đề kinh
tế cho chủ nghĩa xã hội. V.I Lênin cho rằng ở những nước kinh tế kém phát triển cần
phải tạo ra điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội bắt đầu cuộc cách
mạng thiết lập chính quyền công nông, thông qua chính quyền ấy mà tiến lên và
đuổi kịp các dân tộc khác.
Hai là, luận điểm về thời kỳ quá độ với một loạt những bước quá độ. Theo
V.I.Lênin những nước trình độ phát triển kinh tế chưa chín muồi, phải thực hiện
nhiều bước quá độ và phải thông qua con đường quá độ dán tiếp, không thể vội vàng
mà không có sự chuẩn bị đầy đủ.
Ba là, luận điểm về quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Kế thừa tư tưởng của C.Mác và P.Ăngghen, phân tích đặc
điểm của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ độc quyền, V.I.Lênin phát hiện ra quy luật
phát triển không đều về kinh tế và chính trị của các nước tư bản. Người rút ra kết
luận quan trọng:
Khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở một số nước hoặc ở một nước riêng
lẻ, chứ không thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả các nước.
Khi chủ nghĩa xã hội thắng lợi ở một nước, thì nhân loại bắt đầu bước vào thời đại mới thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, trong điều kiện đó các nước
lạc hậu có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Điều kiện để một nước có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa là:
Điều kiện bên trong, có Đảng cộng sản lãnh đạo giành được chính quyền và sử
dụng chính quyền nhà nước công, nông, trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết
để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

5


Điều kiện bên ngoài, có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên tiến đã
giành được thắng lợi trong cách mạng vô sản.
Các nước lạc hậu có khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa nhưng không phải là quá độ trực tiếp, mà phải qua con đường gián tiếp
với một loạt những bước quá độ thích hợp.
- Đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm cơ bản xuyên suốt và bao trùm của thời kỳ quá độ là: sự tồn tại nền
kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và xã hội tồn tại nhiều
giai cấp. Trong thời kỳ quá độ nền kinh tế có tính chất quá độ, nó không còn là nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Biểu hiện cụ thể:
Tương ứng với một nền kinh tế nhiều thành phần, trong xã hội cũng tồn tại
nhiều giai cấp, trong đó có ba giai cấp cơ bản là: giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản
và giai cấp công nhân, người lao động tập thể.
Mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản. Cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản là quá
trình cách mạng hết sức gay go, phức tạp và quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực.
- Nhiệm vụ kinh tế - xã hội cơ bản: (Lê nin chỉ rõ 3 nhiệm vụ)
Nhiệm vụ thứ nhất, công nghiệp hoá để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội, cho sự xã hội hoá sản xuất trên thực tế.
Theo quan điểm của V.I.Lênin: công nghiệp hoá bắt đầu từ kinh tế nông thôn,
nhằm khôi phục, củng cố và cải thiện kinh tế cho nông dân; phát triển công nghiệp
nặng, đặc biệt là công nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất, công nghiệp điện.
Trong quá trình công nghiệp hoá đất nước cần phải tranh thủ kỹ thuật hiện đại
nằm trong tay các nước tư bản chủ nghĩa dù chúng ta có phải trả giá bằng những
khoản “cống vật” lớn.
Nhiệm vụ thứ hai, đưa nền tiểu sản xuất lên nền đại sản xuất thông qua con

đường hợp tác hoá. Kế hoạch hợp tác hoá của V.I.Lênin là kế hoạch từng bước xã
hội hoá sản xuất trong nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, nhằm khắc phục được
mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển đại công nghiệp với kinh tế nhỏ cá thể.
Nhiệm vụ thứ ba, tiến hành cách mạng văn hoá. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
không chỉ xây dựng quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, mà phải xây dựng một nền văn
hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Cách mạng văn hoá sẽ tác động sâu sắc trở lại
đối với công nghiệp hoá và cải tạo quan hệ kinh tế xã hội, cụ thể là: xoá mù chữ, nâng cao
trình độ văn hoá - giáo dục cho nhân dân lao động trong cả nước, làm cho mọi người lao
động có trình độ học vấn phổ thông, có trình độ hiểu biết về công việc, biết sử dụng các
phương tiện của nền đại công nghiệp. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cao, có kỷ luật lao động nghiêm.
- Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin:
(Tập trung vào nội dung của NEF ; có 3 nội dung cơ bản)
6


Mục tiêu của chính sách kinh tế mới:
Phát triển tối đa lực lượng sản xuất nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội, tiền đề vật chất cho xã hội hoá sản xuất trong thực tế.
Mục tiêu cuối cùng vẫn được khẳng định là: cải thiện đời sống cho nhân dân. Xây
dựng chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, trong đó chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa có
vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân và sự phát triển của nền kinh tế quốc
dân theo một kế hoạch thống nhất.
Nội dung và biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới:
Một là, thay thế chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế lương thực.
Theo chính sách này, người nông dân chỉ phải nộp thuế lương thực với mức cố định trong
nhiều năm. Mức thuế căn cứ vào điều kiện tự nhiên của đất canh tác.
Hai là, tổ chức thị trường, thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa
nhà nước và nông dân, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp.
Ba là, sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ

như khuyên khích phát triển sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công;
khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân; sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước; củng cố
lại các doanh nghiệp nhà nước, chuyển sang chế độ hoạch toán kinh doanh... Đồng
thời, phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác kinh tế với các nước tư bản Phương Tây
để tranh thủ kỹ thuật, vốn và khuyến khích kinh tế phát triển.
+ Sự khác nhau cơ bản giữa chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin với chính sách
kinh tế cộng sản thời chiến:
Trao đổi hàng hoá được đánh giá là “đòn xeo" chủ yếu của chính sách kinh tế mới,
phải được đặt lên hàng đầu trên cơ sở nhà nước nắm các đòn bẩy chỉ huy.
Sử dụng và cải tạo dần cơ cấu kinh tế cũ, làm cho nền kinh tế cũ thích ứng với chủ
nghĩa xã hội, chứ không phải đập tan ngay bằng những biện pháp hành chính.
Phát triển đến mức nhất định chủ nghĩa tư bản trong nước và hướng nó vào chủ
nghĩa tư bản nhà nước.
Thu hút tư bản nước ngoài và sử dụng nó sao cho có lợi cho việc xây dựng chủ nghĩa
xã hội, dưới những hình thức và trình độ khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Coi
đó là một nội dung cấu thành chủ yếu của “Chính sách kinh tế mới”.
Thu hút dần những người tiểu sản xuất vào các loại hình khác nhau của hợp tác
xã trên cơ sở tự nguyện và có sự giúp đỡ, ưu đãi của nhà nước công nông.
Sử dụng nhiều hình thức phân phối theo nguyên tắc khuyến khích bằng lợi ích
vật chất và sự quan tâm bằng lợi ích vật chất đối với người sản xuất kinh doanh, kết
hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội.
Chuyển các xí nghiệp quốc doanh sang chế độ hoạch toán kinh tế. Chuyển từ
phương pháp quản lý kinh tế bằng biện pháp hành chính sang biện pháp kinh tế là chủ
yếu, thực hiện chế độ quản lý theo chế độ tập trung dân chủ và quản lý cá nhân.
- Ý nghĩa của chính sách kinh tế mới:
Về thực tiễn nhờ có chính sách kinh tế mới mà nước Nga Xô Viết đã khôi phục nhanh
7


chóng nền kinh tế sau chiến tranh, khắc phục được khủng hoảng kinh tế và chính trị.

Về lý luận, nó phát triển và nhận thức sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với Việt Nam: bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận thức
và vận dụng chính sách kinh tế mới một cách đúng đắn sáng tạo vào thực tiễn đất nước,
để đề ra chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
c. Quan điểm (về kinh tế) của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về chủ
nghĩa xã hội
(Quan điểm của HCM và Đảng ta về kinh tế của chủ nghĩa xã hội?
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của cách
mạng nước ta chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam quan niệm về chủ
nghĩa xã hội ở nước ta cơ bản là thống nhất:
- Tư tưởng (kinh tế) của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội:
+ Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân lao động làm chủ.
+ Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao.
+ Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức, quan hệ
giữa người với người là bạn bè, đồng chí, anh em, con người được giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất, tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để
phát triển hết mọi khả năng của mình.
+ Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm
ít hưởng ít.
+ Chủ nghĩa xã hội là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân lao động
tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Quan điểm (về kinh tế) của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội:
Trong quá trình phát triển lý luận và tổ chức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam Đảng ta đã đi đến sự khái quát về các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở
nước ta theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI:
Một là, xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, do nhân dân làm chủ
Ba là, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và

quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Bốn là, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Năm là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện;
Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
Bảy là, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
Tám là, Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới
8


“tr70 VK ĐH XI” (So với cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI bổ sung thêm 2 đặc
trưng cơ bản là: Xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và có
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam).
2. QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM
Thời gian: 20 phút
Phương pháp: Nêu vấn thuyết trình là chính
a. Tính tất yếu, điều kiện và thực chất của sự bỏ qua
Tại sao nước ta quá độ bỏ qua chế tư bản là tất yếu khách quan vì sao? Điều kiện
nào để Việt Nam bỏ qua và thực chất của bỏ qua đó là cái gì?
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở việt nam
là một tất yếu khách quan
Tính khách quan được quy định bởi những lý do sau:
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật
khách quan của lịch sử. Loài người đã phát triển qua năm hình thái kinh tế - xã hội,
sự biến đổi của các hình thái nói trên đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Cho dù ngày nay chủ nghĩa tư bản đang nắm ưu thế về vốn, khoa học công nghệ
và thị trường, đang cố gắng điều chỉnh và thích nghi với tình hình mới, nhưng
không thể vượt qua được những mâu thuẫn vốn có của nó, đặc biệt là mâu thuẫn
giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hoá lao động làm cho
các tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho sự phủ định chủ nghĩa
tư bản và sự ra đời của xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp xu thế
thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam. Ở Việt Nam
cách mạng dân tộc, dân chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa, giữa hai
cuộc cách mạng không có bức tường ngăn cách. Cuộc cách mạng dân tộc, dân
chủ trước hết để giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ, đồng thời là
tiền đề để xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Ba là, trong điều kiện hiện nay hệ thống chủ nghĩa xã hội không còn, nhưng
Việt Nam vẫn có những khả năng và tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa.
9


Như vây, theo quy luật phát triển khách quan thì loài người sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản là lôgíc phát triển triệt để của cách mạng
Việt Nam.

“Theo quy luật tiến hóa của lich sử, loài người nhất định tiến tới CNXH” (tr69 NQ
ĐH XI).
Điều kiện để thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam

- Về khả năng khách quan:
Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới.
+ Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện và kinh tế tri thức và quá trình toàn
cầu hóa diễn ra mạnh mẽ tác động sâu sắc đến sự phát triển…(tr67 NQ Đại Hội XI)
cho phép các quốc gia, dân tộc tận dụng những thành tựu của nó vào phát triển kinh
tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Xu thế mở cửa, hội nhập giữa các quốc gia ngày càng phát triển, toàn cầu hoá
đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đang trở thành tất yếu đối
với mỗi quốc gia. Những yếu tố đó mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những
hạn chế của nước kém phát triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh
nghiệm quản lý… Thông qua đó mà Việt Nam có thể thực hiện con đường phát
triển rút ngắn.
- Về chủ quan:
+ Cách mạng Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, một Đảng giàu
tinh thần cách mạng, khoa học và trí tuệ, có đường lối hết sức đúng đắn. Đó là, nhân
tố có ý nghĩa vô cùng quan trọng bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
+ Việt Nam có nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần cù, thông
minh và sáng tạo.
+ Việt Nam có tài nguyên đa dạng, vị trí địa lý thuận lợi và những cơ sở vật chất kỹ
thuật đã được xây dựng là những yếu tố hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế.
Thực chất của sự bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Báo cáo chính trị Đai hội đại biểu lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định: bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng - tư bản chủ nghĩa. Bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa không phải phủ định sạch trơn mà có sự tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản, đặc biệt là về khoa học công nghệ,
để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.

Bỏ qua chủ nghĩa tư bản thực chất là con đường rút ngắn quá trình đi lên chủ
10


nghĩa xã hội. Nhưng rút ngắn không phải là đốt cháy giai đoạn, duy ý chí, coi
thường quy luật…trái lại, phải tôn trọng quy luật khách quan, biết vận dụng sáng tạo
quy luật khách quan vào điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước.
b. Đặc điểm, nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
Đặc điểm kinh tế, nhiệm vụ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
được biểu hiện như thế nào?
Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sau năm 1954,
Bác Hồ đánh giá về đặc điểm nền kinh tế nước ta: “đặc điểm to nhất là từ một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa”. Sau 1975 cả nước thống nhất cùng tiến lên chủ nghĩa
xã hội, đặc điểm trên vẫn tồn tại.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản
xuất rất thấp, cơ cấu kinh tế phiến diện, lạc hậu. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến
tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều. Bên
cạnh đó, các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội và nền độc
lập của nhân dân ta.
Như vậy, đặc điểm bao trùm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta
xác định đây là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt cả thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

- Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm
vụ quan trọng, thể hiện mục đích của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Xây dựng quan hệ sản xuất mới không phải thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí
mà phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Trong xu thế toàn cầu hoá và
sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nền kinh tế Việt Nam không
thể khép kín mà phải chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam phải
từng bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; tích cực khai thác thị trường thế
giới, tối ưu hoá cơ cấu xuất nhập khẩu; tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và
hệ thống mậu dịch toàn cầu…
II. CHẾ ĐỘ SỞ HỮU VỀ TƯ LIỆU SẢN XUẤT VÀ CƠ CẤU KINH TẾ
NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM
11


Thời gian: 2 tiết
Phương pháp: Nêu vấn đề kết hợp nhóm và thuyết trình
1. CHẾ ĐỘ SỞ HỮU VÀ SỰ ĐA DẠNG VỀ HÌNH THỨC SỞ HỮU
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
Thời gian: 20 phút
Phương pháp: Nêu vấn đề thuyết trình là chính
a. Sở hữu, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất
Hiểu sở hữu là gì? Chế độ sở hữu về TLSX là gì?
- Sở hữu
Sở hữu là hình thức xã hội của chiếm hữu trong một hình thái kinh tế- xã hội
nhất định, giắn liền với một tổ chức xã hội nhất định.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: sở hữu là quan hệ giữa
người với người về chiếm hữu những sản phẩm. Khác với quan điểm của các nhà

kinh tế học tư sản cho rằng, sở hữu là quan hệ giữa người với vật. Sở hữu là một
phạm trù lịch sử, là một quan hệ kinh tế khách quan được hình thành phù hợp với
trình độ nhất định của lực lượng sản xuất.
Đối tượng sở hữu:
Đối tượng sở hữu thuộc về một chủ thể nhất định, nó phản ánh quan hệ người
với người về quyền chiếm hữu đối tượng sở hữu đó. Đối tượng sở hữu có thể là: tư
liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, vốn, thông tin, chất xám… trong đó sở hữu về tư liệu
sản xuất là quan trọng nhất.
Xét về bản chất, thì sở hữu tư liệu sản xuất chỉ có thể là công hữu hay tư hữu. Tư hữu
gồm các giai đoạn nối tiếp nhau: tư hữu nô lệ, tư hữu phong kiến, tư hữu tư sản; công
hữu bao gồm nhiều cấp độ khác nhau. Sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở, là nội dung
then chốt của một loại hình quan hệ sản xuất nhất định.
- Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất
Quan hệ sở hữu thể hiện giữa những hình thức nhất định có tính chất pháp
lý gọi là chế độ sở hữu.
Chế độ sở hữu xác định các quyền cụ thể như: quyền sở hữu, quyền sử dụng,
quyền chi phối, quyền thực hiện lợi ích kinh tế.
Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất xác định quyền cơ bản đối với tư liệu sản xuất
trong đó quan trọng nhất là hai quyền sở hữu và sử dụng; hai quyền này có thể
thống nhất với nhau cũng có thể tách biệt nhau.
Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất vừa mang tính pháp lý vừa mang tính khách quan.
Tính pháp lý, thể hiện ở chỗ quan hệ sở hữu phải được giai cấp thống trị thừa nhận, được thể
chế hoá thành pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Tính khách quan, thể hiện ở chỗ quan hệ
sở hữu nó hình thành phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất, con người không
thể tuỳ tiện lựa chọn chế độ sở hữu này hay chế độ sở hữu khác.
Bản chất của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, do bản chất của quan hệ sản xuất
quy định, khi quan hệ sản xuất thay đổi thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất cũng
12



thay đổi. Sự chuyển hoá về quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là một quá trình lịch
sử tự nhiên phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong thời kỳ độ lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những hình thức sở hữu mới
được xác lập (toàn dân, tập thể), hình thức sở hữu tư nhân vẫn chưa mất đi khi hiệu
quả kinh tế đang còn. Vì thế P.Ăngghen nói: “Liệu có thủ tiêu chế độ tư hữu ngay
lập tức được không? không, không thể được cũng y như không thể làm cho lực
lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền
kinh tế công hữu”. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X xác định: hiện
nay nền kinh tế nước ta còn tồn tại ba chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là sở hữu
nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.
Điểm nổi bật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế còn tồn tại nhiều
hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Sự tồn
tại nhiều hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ là do yêu cầu quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất quy định. Trong thời kỳ quá
độ, lực lượng sản xuất với nhiều cấp độ khác nhau, nên trong quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất cũng tồn tại nhiều loại hình tương ứng.
Nhận thức khách quan của nhiều loại hình sở hữu trong thời kỳ quá độ, tại Đại
hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII khẳng định: “… cùng với sự phát triển của
lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất từ thấp đến cao, với sự đa
dạng về hình thức sở hữu”.
b. Sự đa dạng và thực chất của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Sự đa dạng về hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất
Do yêu cầu quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển và
tính chất của lực lượng sản xuất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tương ứng với các thành phần
kinh tế là các hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
Các hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta: sở hữu
toàn dân; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu hỗn hợp. Mỗi hình thức sở hữu mang
bản chất riêng, nhưng lại tồn tại trong một kết cấu kinh tế quá độ vừa thống nhất vừa

mâu thuẫn với nhau; vừa tồn tại độc lập, vừa đan xen với nhau, tạo nên các tổ chức
kinh tế đa dạng. Trong đó, sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể ngày càng đóng vai trò
quan trọng, dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, định hướng cho các
hình thức sở hữu khác trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Thực chất của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
Thực chất chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là chế độ công hữu. Chế
độ công hữu thể hiện mọi thành viên trong xã hội là chủ của tư liệu sản xuất và các
tài nguyên khác của xã hội. Trong xã hội không ai có quyền chiếm đoạt tư liệu sản
xuất làm phương tiện bóc lột lao động của người khác.
Sự thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là một nhu cầu khách quan, do yêu
13


cầu quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ và tính chất phát triển của lực lượng sản
xuất trong từng ngành, lĩnh vực và cơ sở sản xuất kinh doanh quy định.
Trong thời kỳ quá độ, chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất được
biểu hiện dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Hai hình thức này được
thiết lập ở tất cả những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, quyền sử dụng
những tư liệu sản xuất này được nhà nước thể chế hoá bằng pháp luật, chính sách trao
cho người lao động trong xã hội khai thác sử dụng.
Bên cạnh hai hình thức sở hữu cơ bản vẫn còn tồn tại các hình thức sở hữu khác
như: sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp…
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư
bản tư nhân), kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Sở dĩ dựa trên ba chế độ sở hữu để phân định các thành phần kinh tế ở nước ta
hiện nay là vì chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế, là tiêu chí cơ bản nhất
để xác định bản chất của một thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Trong mỗi chế độ sở hữu bao giờ cũng có những hình thức sở hữu cơ bản, phổ biến
và một số hình thức sở hữu có tính thứ yếu, tàn dư. Việc phân định các thành phần

kinh tế trong một nền kinh tế đa dạng trong thời kì quá độ phải dựa trên những hình
thức sở hữu về tư liệu sản xuất cũng phản ánh cấp độ từ thấp đến cao tính chất xã hội
hoá của tư liệu sản xuất.
Đảng và Nhà nước ta không chủ trương xoá bỏ tư hữu nói chung mà chỉ chủ
trương xoá bỏ việc sử dụng chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất với tư cách là một quan hệ thống trị. Sự chuyển hoá quan hệ sở hữu là một quá
trình lịch sử tự nhiên tùy thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất.
2. CƠ CẤU THÀNH PHẦN KINH TẾ VÀ VIỆC SỬ DỤNG, PHÁT TRIỂN
CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM
Thời gian: 65 phút
Phương pháp: Nêu vấn đề học nhóm tập trung vào làm rõ các thành phần kinh
tế mà đặc biệt là kinh tế nhà nước với tư cách là kinh tế chủ đạo định hướng XHCN
Tình huống: hiểu cơ cấu thành phần kinh tế là gì? Vai trò của việc sử dụng và
phát triển các thành phân kinh tế và quan điểm sử dụng phát triển các thành phần
kinh tế cụ thể ở nước ta hiện nay?
Yêu cầu đạt được: 1.hiểu thành phần kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế?
2. Hiện nay ở nước ta có mấy thành phần kinh tế cụ thể phương hướng sử dụng
và phát triển các thành phần kinh tế cụ thể
Phân công tổ chức: Nhóm 1 chuẩn bị nội dung 1;nhóm 2 làm rõ vai trò kinh tế
nhiều thành phần; nhóm 3-4 chuẩn bị kinh tế nhà nước; các nhóm còn lại chuẩn bị
nội dung còn lại.
Thời gian chuẩn bị ở nhóm là 20 phút lớp làm việc 35 phút kết luận 10 phút
a. Cơ cấu thành phần kinh tế
14


Hiểu thành phần kinh tế là gì? Cơ cấu thành phần kinh tế?
Kết luận:
- Thành phần kinh tế
Thành phần kinh tế bao gồm những tổ chức kinh tế vốn đơn thuần một loại hình

sở hữu, hoặc vốn thuộc quyền sở hữu hỗn hợp, trong đó quyền sở hữu lớn hơn cả,
quy định quá trình kinh doanh của tổ chức kinh tế đó.
Các thành phần kinh tế bao gồm những tổ chức kinh tế có sự thống nhất biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó cốt lõi là quan hệ sở hữu. Mỗi thành phần kinh
tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Đại diện cho mỗi thành phần
kinh tế là một giai cấp hoặc một tầng lớp xã hội nhất định.
Các thành phần kinh tế nằm trong tổng thể của nền kinh tế quốc dân có mối quan hệ
vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau. Tính thống nhất, thể hiện mỗi thành phần kinh
tế là một bộ phận cấu thành nền kinh, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp
luật của nhà nước. Mâu thuẫn thể hiện, các thành phần kinh tế mang bản chất kinh tế
khác nhau, vận động theo những xu hướng khác nhau.
Mục đích phân định các thành phần kinh tế ở nước ta: nhằm nghiên cứu, định
hướng chiến lược cho sự vận động của cơ cấu thành phần kinh tế trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, là tổng thể các thành phần kinh tế đang tồn tại hợp
thành cùng với vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác giữa các thành phần đó trong quá
trình tái sản xuất xã hội. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn được hiểu là tổng thể các
kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác
nhau đang cùng tồn tại trong một nền kinh tế thống nhất.
Tính khách quan của kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ do quy luật quan
hệ sản xuất phải phù hợp trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất; do yêu
cầu khai thác tận dụng tiềm năng của mọi thành phần kinh tế vào phát triển nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ quy định
Trong đường lối đổi mới, Đảng ta chỉ rõ chính sách kinh tế nhiều thành phần là
chiến lược phát triển lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa và thể hiện tinh thần dân chủ về mặt kinh tế bảo đảm cho mọi người được
tự do làm ăn theo pháp luật.
Thực tiễn những năm đổi mới vừa qua cho thấy: phát triển kinh tế nhiều thành
phần đã thu được những thành tựu hết sức to lớn, nền kinh tế có những bước phát

triển vượt bậc. Thực tiễn đó càng chứng minh phát triển kinh tế nhiều thành phần là
một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
b. Sử dụng và phát triển các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta
- Vai trò của việc sử dụng và phát triển nhiều thành phần kinh tế
Một là, sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, tức là tồn tại nhiều hình thức tổ
15


chức kinh tế, nhiều phương thức quản lý phù hợp với trình độ khác nhau của lực
lượng sản xuất. Sự phù hợp này đến lượt nó, có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao
động, tăng trưởng, nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Hai là, nền kinh tế nhiều thành phần làm phong phú và đa dạng các chủ thể kinh tế, từ
đó thúc đẩy kinh tế hàng hóa, tạo tiền đề đẩy mạnh cạnh tranh, khắc phục tình trạng độc
quyền; góp phần vào việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững,
cải thiện đời sống nhân dân, phát triển các mặt đời sống kinh tế - xã hội.
Ba là, tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có
hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đó là những cầu nối, trạm trung gian cần thiết để đưa
nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Bốn là, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và cùng với nó là các hình thức
tổ chức sản xuất kinh doanh là một nội dung cơ bản của việc hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Năm là, sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế đáp ứng được lợi ích kinh tế của
các giai cấp, tầng lớp xã hội, có tác dụng khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực, các tiềm năng của đất nước, như sức lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, kinh
nghiệm quản lý để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đồng thời cho phép khai
thác kinh nghiệm quản lý và ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ mới của
nhân loại vào phát triển sản xuất.

- Quan điểm của Đảng ta về sử dụng và phát triển các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ
Quan điểm chung: thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, động viên mọi
nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội và
cải thiện đời sống cho nhân dân.
Thực tiễn lịch sử nền kinh tế xã hội qua từng giai đoạn có lúc Đảng ta chỉ ra 6
thành phần khinh tế; có giai đoạn 5; có giai đoạn 4.
Từ đại hội IX về trước: thành phần KTNN; KTTT; KTCTTC; KTTN;
KTTBNN; KT CVĐTNN
Đại Hội X: KTNN; KTTT; KTTN; KTTBNN; KT CVĐTNN
Đại Hội XI: KT NN; KT TT; KT TN; KT CVĐTNN
Trong những năm qua nền kinh tế nói chung, các thành phần kinh tế nói riêng đã
có nhiều tiến bộ vượt bậc…Song nhìn chung so với sự phát triển của thế giới thì còn
rất nhiều hạn chế (theo tổ chức cạnh tranh toàn cầu WEF đánh giá xếp hạng Việt
Nam 2012-2013 đạt 4,1 điểm (7 điểm là tuyệt đối) đứng thứ 75 trong144 quốc gia
và vùng lãnh thổ; 2011-2010 đạt 4,2, vị trí 65 trong 142…; 20092010 đạt 4,3 điểm
thứ 59 trong 139… về năng lực cạnh tranh. Trong khu vực Đông Nam Á ta đứng sau
Phi líp phin chỉ đứng trên CPC (Lào, Mi An Ma chưa vào danh sách này). Chỉ số
16


xếp hạng cao nhất của VN là quy mô thị trường (thứ 32/144) thấp nhất là quản lý
kinh tế Vĩ mô (106/144); Chăm sóc y tế cơ bản đứng 64/144; thu nhập hiện nay theo
WEF VN 1.375 USD/người/năm, sức mua đồng tiền VN chỉ = 0,38%. Thực hư
bảng xếp hạng thế nào song cho thấy nền kinh tế nước ta còn yếu so thế giới hiện
nay chính vì vậy tái cấu trúc lại nền kinh tế là tất yếu trong đó có thành phần kinh tế.
Quan điểm cụ thể đối với từng phần kinh tế:
+ Kinh tế nhà nước: bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia,
các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng

chu chuyển kinh tế. (phân biệt cho rõ kinh tế Nhà nước với doanh nghiệp Nhà nước)
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước). Kinh tế nhà nước hình thành do: quá
trình quốc hữu hoá xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất; nhà nước đầu tư xây dựng
mới; cải tạo xã hội chủ nghĩa đối tư bản tư nhân.
Kinh tế nhà nước, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân là nhân tố mở
đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ để nhà
nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế (năm 2004 trong nền kinh tế nước ta
kinh tế nhà nước chiếm 39,22% trong tổng thu nhập quốc dân).
Phương hướng phát triển kinh tế nhà nước:
Một là, hoàn thiện cơ chế chính sách để các doanh nghiệp nhà nước thực sự hoạt
động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch.
Hai là, xoá bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh.
Ba là, doanh nghiệp nhà nước có quyền tài sản, thực sự tự chủ, tự chụi trách
nhiệm trên thị trường (lời ăn, lỗ chịu) và trước pháp luật (chấp hành nghiêm pháp
luật trong sản xuất kinh doanh).
Bốn là, sắp xếp, đổi mới DNNN mà trọng tâm là cổ phần hoá (Thực hiện Nghị
quyết 03 của bộ chính trị và NQ 11 của chính phủ đến. Đến tháng 10/2010 cả nước
còn 1.309 DNNN chưa cổ phần hóa . Trong đó có 452 DNNN trong lĩnh vực QPAN và 857 DNNN dân doanh.
10 năm cổ phần hóa được 3976 DNNN
Đã tổ chức lại 8 tổng công ty 91 và 12 tổng công ty 90 thành 11 tập đoàn kinh tế
Số vốn Nhà nước sở hữu hơn 700.000 tỷ đồng trong đó vốn của tập đoàn và tổng
công ty Nhà nước là 653.000 tỷ đồng
Các doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu có quy mô vừa và lớn. Nhưng vẫn còn có 102
DNNN có vốn dưới 5 tỷ đồng; 8 DNNN có số vốn 1 tỷ đồng
Năm 2001 khoảng 60% DNNN lỗ hoặc hòa vốn, đến năm 2010 chỉ còn 20%
Trên 90% doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá làm ăn có lãi; thu nhập người
lao động tăng 12%, số lao động bình quân tăng 6,6%, lợi tức cổ phần bình quân tăng
17,11%).
Năm là, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực tài

chính ngân hàng, kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng
17


của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích.
Sáu là, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, có sự tham gia cổ phần của nhà
nước, tư nhân trong và ngoài nước, trong đó nhà nước giữ cổ phần chi phối.
CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
- Tính đến tháng 12/ 2010 cả nước đã sắp xếp được 5.846 DN
- Năm 2010 cổ phần hóa được 3.944 DNNN
- Chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên 261 DN.
- Sát nhập, hợp nhất, giao bán, khoán 1.902 DN.
NGÀY 8/12/2011 THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ CHỦ TRÌ HỘI NGHỊ TỔNG
KẾT 10 NĂM SẮP XẾP, ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 2001-2010
Đến tháng 10/2010 cả nước còn 1.309 DNNN chưa cổ phần hóa . Trong đó có 452
DNNN trong lĩnh vực QP-AN và 857 DNNN dân doanh.
10 năm cổ phần hóa được 3976 DNNN
Đã tổ chức lại 8 tổng công ty 91 và 12 tổng công ty 90 thành 11 tập đoàn kinh tế
Số vốn Nhà nước sở hữu hơn 700.000 tỷ đồng trong đó vốn của tập đoàn và tổng
công ty Nhà nước là 653.000 tỷ đồng
Các doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu có quy mô vừa và lớn. Nhưng vẫn còn có 102
DNNN có vốn dưới 5 tỷ đồng; 8 DNNN có số vốn 1 tỷ đồng
Năm 2001 khoảng 60% DNNN lỗ hoặc hòa vốn, đến năm 2010 chỉ còn 20%
Ngày 17/7/2012 Thủ tướng chính phủ đẫ ký quyết định 929/QĐ-TTg phê duyệt
đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tê, tổng công ty
nhà nước giai đoạn 2012-2015. Trong quyết định ghi rõ chấm dứt tình trạng đầu tư
ra ngoài nghành, ngoài lĩnh vực. trong đề án chỉ rõ 3 nhóm doanh nghiệp nhà nước;
Nhóm 1: DNNN nắm 100% vốn điều lệ trong các lĩnh vực độc quyền nhà nước
như, QP-AN; xuất bản; thủy nông; bảo đảm an toàn giao thông; xổ số kiến thiết; sản

xuất, phân phối điện da mục tiêu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế xã hội
gắn với QP-AN; quản lý khai thác hệ thống kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia, đô
thị; các cảng hàng không, cảng biển loại 1; in, đúc tiền.
Nhóm 2: DNNN nắm giữ 50% vốn điều lệ…
Nhóm 3: Khối các doanh nghiệp thua lỗ kéo dài…sát nhập,cho thuê, bán, khoán,
giải thể…
+ Kinh tế tập thể: là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người
lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản theo nguyên tắc tập trung,
dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi.
Kinh tế tập thể là hình thức liên kết tự nguyện rộng rãi của những người lao động, các hộ sản
xuất kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn, có thể
kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành. Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa
dạng mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên cơ sở sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể người
lao động về tư liệu sản xuất, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ cùng có lợi, theo chế độ
18


tự quản; phân phối dựa trên nhiều hình thức trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu. Trong
thực tiễn những năm gần đây kinh tế tập thể hoạt động ít hiệu quả tỷ trọng của kinh tế tập thể trong
cơ cấu GDP có xu hướng giảm (năm 2000: kinh tế tập thể chiếm 8,58%; năm 2001chiếm 8,06%;
năm 2002 chiếm 7,99%; năm 2003 chiếm 7,49%; năm 2004 chiếm 7,11%).
Phương hướng sử dụng và phát triển kinh tế tập thể:
Thứ nhất, tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát
triển mạnh hơn nữa các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình
thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú
trọng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
cổ phần.
Thứ hai, khuyến khích việc huy động tăng vốn góp và các nguồn vốn huy động của hợp
tác xã, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ không chia trong hợp tác xã.
Thứ ba, hợp tác xã và các loại hình kinh tế hợp tác hoạt động theo nguyên tắc:

hợp tác tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và
cùng có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng.
+ Kinh tế tư nhân (cá thể tiểu chủ và tư bản tư nhân):
Kinh tế cá thể tiểu chủ: là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản
xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình. Kinh tế cá thể tiểu
chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất có thuê mướn lao
động, nhưng thu nhập chủ yếu vẫn dựa vào sức lao động, vốn của bản thân và gia đình.
Kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ
sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và thuê lao động.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay thành phần kinh tế này
tồn tại là tất yếu khách quan vì nó có vai trò đáng kể trên nhiều phương diện như: phát
triển lực lượng sản xuất, xã hội hoá sản xuất; giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là thành
phần kinh tế rất năng động nhạy bén trong kinh tế thị trường, có đóng góp không
nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, nhà nước phải tăng
cường công tác quản lý, vì đây là thành phần kinh tế có tính tự phát cao.
Phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân:
Một là, mọi công dân có quyền tự do tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với
quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ.
Hai là, mọi công dân có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, trong tiếp
cận các cơ hội, nguồn lực kinh doanh, thông tin và nhận thông tin.
Ba là, xoá bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các
loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm.
+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: là khu vực kinh tế mới xuất hiện trong
những năm đổi mới ở nước ta. Đây là khu vực kinh tế do các tổ chức kinh tế và
các doanh nhân nước ngoài trực tiếp đầu tư vào Việt Nam. Trong những năm gần
đây kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh (năm 2004 kinh tế có vốn đầu tư nước
19



ngoài chiếm 15,17% GDP). Với chính sách mở cửa khuyến khích đầu tư nên đã thu hút
được một lượng vốn đầu tư khá lớn vào trong nước nhiều khu công nghiệp khu chế
xuất đã được xây dựng với quy mô ngày càng lớn, trình độ ngày càng hiện đại. Số
lượng các doanh nghiệp nước ngoài vào làm ăn ở Việt Nam ngày càng nhiều và có
những đóng góp lớn cho nền kinh tế.
Phương hướng sử dụng và phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
Đảng và nhà nước ta chủ trương cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút
mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với
thu hút công nghệ hiện đại tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.
Tóm lại, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng của nền kinh tế nước ta
trong thời kỳ quá độ. Việc xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã phản ánh
tính đặc thù của nền kinh tế nước ta. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần, coi đó là một vấn đề có tính
quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn và có tính chiến lược trong suốt thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
5.Giao nhiệm vụ nghiên cứu:
1. làm rõ quan điểm của Mác, Lê nin, Hồ Chí Minh và Đảng ta về nhẵng vấn đề
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
2. Nội dung cơ bản của NEF. Ý nghĩa của nó?
3. Thực chất bỏ qua chế độ TBCN đi lên xây dựng CNXH ở Việt Nam
4. Vai trò và phương hướng sử dụng pháp triển các thành phần kinh tế ở Việt
Nam hiện nay?
5. Tìm đọc bài CNH, HĐH
6. Rút kinh nghiệm:

20




×